Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn vận dụng hệ thống câu hỏi vào việc dạy học truyện ngắn chiếc thuyền ngoài x...

Tài liệu Skkn vận dụng hệ thống câu hỏi vào việc dạy học truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa theo đặc trưng thể loại.

.PDF
35
1418
115

Mô tả:

VẬN DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI VÀO VIỆC DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Trước xu hướng đổi mới của nền giáo dục hiện đại trên thế giới có thể thấy, chưa bao giờ nền giáo dục và đào tạo ở nước ta đứng trước thử thách to lớn như hiện nay, nhất là khi nó được xem như một khâu của quá trình sản xuất, là bộ phận chủ yếu của nền kinh tế tri thức. Những nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng về văn hóa giáo dục qua các nhiệm kì đã cho thấy nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước ở kỉ nguyên mới. Đó là những con người có đủ trí tuệ và nhân cách, luôn năng động, sáng tạo, làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Bộ môn văn trong nhà trường, với tư cách vừa là bộ môn nghệ thuật vừa là một môn học nên nó cũng sẻ chia sứ mệnh đầy khó khăn và vẻ vang. Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi những phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình. Gần đây, trong xu hướng phát triển của quan điểm dạy học hiện đại, tích cực, vai trò chủ thể của người học được đề cao, học sinh được xem là “nhân vật trung tâm” của giờ học. Đối với quá trình dạy học văn, học sinh chính là chủ thể cảm thụ nghệ thuật. Với quan niệm như vậy, các nhà lí luận, các nhà phương pháp cũng như đội ngũ những người làm công tác sư phạm luôn nỗ lực để tìm ra phương pháp, biện pháp tối ưu nhằm tích cực hóa hoạt động phân tích, cảm thụ nghệ thuật của học sinh. Cùng với một số phương pháp dạy học đã được đề xuất thì một vấn đề cần đặt quan tâm lên hàng đầu đó là xác định mối quan hệ giữa thầy và trò trên lớp, mối quan hệ ấy được biểu hiện trực tiếp qua hệ thống câu hỏi do thầy đưa ra. Cách đặt câu hỏi, nội dung và việc sử dụng câu hỏi như thế nào trong giờ học văn không chỉ cho thấy bản lĩnh, trình độ, tác phong sư phạm của người đứng lớp mà nó còn thể hiện phẩm chất nghệ sĩ của 1 người thầy giáo. Hệ thống câu hỏi có hay, có đúng, phù hợp với đặc trưng thể loại của tác phẩm văn học thì mới kích thích hứng thú, cảm xúc của người học, trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng cơ bản khi tiếp nhận những thể loại ấy. Như một nhà phương pháp đã nói “ Nếu câu hỏi không phù hợp với việc phát huy chủ thể cảm thụ nghệ thuật của học sinh và thầy giáo thì sự không ăn khớp ấy có tác hại đáng kể, thậm chí có khi không gây được cảm xúc và ấn tượng mạnh như được lây lan trong phương pháp diễn giảng trước đây ”. 2. Thực tế dạy học văn ở trường trung học phổ thông Thực tế dạy học văn ở trung học phổ thông hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, trong đó có tình trạng phần lớn giáo viên thường gặp lúng túng, vướng mắc với việc chuẩn bị hệ thống câu hỏi trong giờ lên lớp. Các câu hỏi được đưa ra rất sơ sài, chung chung, chủ yếu hướng người học đến chỗ ghi nhớ, tái hiện một cách rời rạc các kiến thức. Chẳng hạn như “ Để trở lại làm người, cô Tấm đã trải qua những lần hóa kiếp nào? ”, “ Trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam) có bao nhiêu nhân vật? ”, “Bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của tác giả Chu Mạnh Trinh diễn tả tình cảm gì? ”…Đôi khi, giáo viên sử dụng những câu hỏi quá khó, yêu cầu quá cao, gây không ít trở ngại cho học sinh khi trả lời, như kiểu các câu hỏi: “Cảm hứng bao trùm toàn tác phẩm này là gì? ”, “Ở đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng nghệ thuật trùng điệp một cách điêu luyện như thế nào? ”. Cũng có nhiều trường hợp, giáo viên chưa nắm được những đặc trưng cơ bản về thể loại của từng tác phẩm văn học nên gặp rất nhiều khó khăn khi xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài học. Tình hình nói trên, cho thấy việc xây dựng một lí thuyết về hệ thống câu hỏi theo đặc trưng thể loại và vận dụng trong dạy học văn là vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Đó là một việc làm có ý nghĩa thiết thực nhằm phát huy tính tích cực của chủ thể học sinh, góp phần vào xu hướng đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông hiện nay. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. Cơ sở lí luận 2 Đưa ra các câu hỏi cho giờ dạy học văn từ lâu đã là mối quan tâm của các nhà sư phạm lớn trên thế giới. Mặc dù nó chưa trở thành một chuyên đề riêng biệt nhưng qua các hội nghị bàn về cải tiến phương pháp dạy học văn thì vấn đề này đã được các nhà sư phạm ở Anh, Pháp, Mỹ, Nga (Liên Xô),Ý, Bungari, BaLan...đề cập. Ở Việt Nam, vấn đề câu hỏi trong giờ học văn cũng đã được chú ý, nó từng được đúc kết và tìm hiểu qua công trình nghiên cứu của một số tác giả và có đóng góp đáng ghi nhận vào kho kinh nghiệm của dạy học văn. Chẳng hạn như các tài liệu được phổ biến từ các hội nghị chuyên đề về dạy học giảng văn trước đây ở miền Bắc, các kinh nghiệm được đăng tải của một số giáo viên phổ thông về hệ thống câu hỏi. Đến những thập niên gần đây, quan niệm về môn văn và công việc dạy học văn có những thay đổi. Môn văn vừa là môn học trong nhà trường vừa là bộ môn nghệ thuật, dạy văn không chỉ là cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng một cách hệ thống, bài bản, khoa học mà còn phải khơi dậy, hướng người học đến những rung động, xúc cảm thẩm mĩ. Đối với vai trò học sinh cũng vậy, từ chỗ được xem như đối tượng tiếp thu kiến thức một cách thụ động, áp đặt một chiều tới chỗ được nhìn nhận như một chủ thể có năng lực văn học và cảm xúc riêng, người ta bắt đầu chú ý tới những đặc điểm tâm lí của học sinh trong cảm thụ nghệ thuật, đặc biệt là sự say mê, hứng thú, khả năng tự ý thức, đánh giá và thái độ tích cực tự giác tiếp nhận tác phẩm ở các em. Quan niệm mới này dẫn đến những chuyển biến tích cực trong phương pháp dạy học văn, nổi lên là việc xây dựng hệ thống câu hỏi cho giờ lên lớp. Câu hỏi nên hướng vào nội dung hay hình thức nghệ thuật, hoặc hướng đến xúc cảm, tình cảm của người học? Câu hỏi thuộc loại nào? Loại ghi nhớ, tái hiện, loại hiểu biết, loại xúc cảm hay đánh giá, nhận xét?..Đó là những vấn đề được tiếp tục trao đổi qua các tài liệu biên soạn, qua các hội nghị chuyên đề về đổi mới dạy học văn trong thời gian qua. Trong giáo trình Phương pháp dạy học văn, tập 1 do Giáo sư Phan Trọng Luận chủ biên, ở phần phân tích nêu vấn đề, tác giả có nêu quan niệm về đặt câu hỏi nêu vấn đề như thế nào. Xuất phát từ cơ sở tâm lý học, tác giả đã phê phán loại câu hỏi tái 3 hiện, vụn vặt, rời rạc đồng thời cũng đưa ra những yêu cầu có tính nguyên tắc cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi. Nhìn chung, trong lịch sử dạy học văn Việt Nam, do chưa đạt tới sự thống nhất quan niệm về môn văn cũng như công việc dạy học văn… nên chúng ta chưa có được một lí thuyết câu hỏi thực sự bài bản và khoa học. Tuy nhiên, qua các công trình nghiên cứu của một số tác giả cho thấy vấn đề câu hỏi trong dạy học đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu và dần dần đi đến hệ thống hoàn chỉnh. Trong tài liệu bồi dưỡng giáo viên văn 10 của trường ĐHSP Hà Nội, xuất bản năm 1990 do tác giả Nguyễn Đình Chú làm chủ biên, các tác giả cũng có đưa ra những yêu cầu dành cho hệ thống câu hỏi dạy văn đồng thời xem đó như là “một phương diện vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng dạy văn”. Gần đây, trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo thể loại), Tiến sĩ Nguyễn Viết Chữ có chú ý nêu hệ thống câu hỏi cảm thụ và vận dụng nó để dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại, xem đây là một hướng nâng cao hiệu quả giờ học văn. Trong tài liệu Dạy học văn ở PTTH, Tiến sĩ Nguyễn Đức Ân cũng tiếp cận vấn đề câu hỏi trong giờ học văn của các nhà sư phạm Mỹ. Từ đó, nêu bật mối quan hệ giao tiếp, đối thoại của giờ học văn trong nhà trường hiện đại. 2. Xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT 2.1. Một số yêu cầu khi xây dựng hệ thống câu hỏi - Câu hỏi phải bám vào đặc trưng dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể. - Câu hỏi phải bám sát nội dung và nghệ thuật của văn bản văn học. - Câu hỏi phải mang tính hệ thống liên tục - Câu hỏi phải hợp với tác phẩm và khơi gợi hứng thú học tập của học sinh. - Câu hỏi phải vừa sức, phù hợp với một giờ học trên lớp ( 45 phút), vừa có khả năng gợi vấn đề suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. - Hệ thống câu hỏi phải chặt chẽ, logic giúp học sinh có thể thâm nhập, tìm hiểu và chiếm lĩnh cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học. 4 2.2. Yêu cầu đối với GV - Xác định loại thể của tác phẩm: trữ tình, tự sự, kịch - Xác định trọng tâm bài học - Xác định đối tượng học sinh để xây dựng hệ thống câu hỏi cho phù hợp. - Mục đích giáo dục tư tưởng, tình cảm. 2.3 . Hệ thống câu hỏi khi dạy học tác phẩm văn chương Thông thường trong một tiết học văn, chúng ta bố trí khoảng 10 –> 15 câu hỏi. Trong hệ thống câu hỏi ấy, chúng không phải hoàn toàn giống nhau mà có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Căn cứ vào mục đích, chức năng kích thích, phát huy năng lực đọc - hiểu, cảm thụ văn học ở học sinh, có thể phân chia hệ thống câu hỏi ấy thành 3 loại: câu hỏi hiểu biết, câu hỏi hình dung tưởng tượng và câu hỏi cảm xúc. Tùy theo nội dung từng bài học, đối tượng học sinh, các tình huống sư phạm mà giáo viên có sự sắp xếp, lựa chọn và phân phối các câu hỏi này một cách hợp lí trong từng tiết học. 2. 3.1. Hệ thống câu hỏi hiểu biết Đây là hệ thống câu hỏi nhằm kiểm tra mức độ hiểu biết tác phẩm của người học. Chúng ta có thể chia làm hai loại câu hỏi: loại câu hỏi hiểu biết về nội dung và loại câu hỏi hiểu biết về hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học. - Hệ thống câu hỏi hiểu biết về nội dung tác phẩm văn học: + Cấp độ đơn giản nhất, dễ nhất là kể lại, tả lại được. Chẳng hạn như tóm tắt lại cốt truyện, kể lại một tình huống truyện, đọc thuộc lòng một đoạn hoặc một bài thơ nào đó. Đưa ra câu hỏi loại này thực chất là nhằm kiểm tra khả năng ghi nhớ của người học, thường chỉ thích hợp với học sinh nhỏ. Đối với học sinh lớn, ta nên có sự hạn chế khi sử dụng loại câu hỏi này. + Cấp độ cao hơn một chút của sự hiểu biết về nội dung của tác phẩm văn học là đòi hỏi người học phải có khả năng phân tích, lí giải được vấn đề. Các câu hỏi dạng: Hình ảnh cái lò gạch thoáng hiện trong đầu Thị Nở sau cái chết của Chí Phèo có phải là hạn chế của tác phẩm hay không? Tại sao? 5 Cách kết thúc cuộc đời của Chí Phèo có phải là cách giải quyết tiêu cực hay không? Vì sao ? Nếu đặt lại nhan đề cho bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, em sẽ đặt như thế nào? Vì sao? Để trả lời được cho các câu hỏi này, người học ngoài khả năng ghi nhớ, tái hiện, kể được, tả được, đòi hỏi phải đi sâu vào tác phẩm, so sánh, đối chiếu các sự kiện, tình tiết, các sự việc, biến cố xoay quanh cuộc đời nhà văn hoặc những diễn biến trong tâm trạng của nhân vật trữ tình…để từ đó tìm ra câu trả lời. + Loại câu hỏi khai thác mức độ hiểu biết cao nhất ở người học là loại câu hỏi yêu cầu người học trình bày sự cảm nhận của mình, phát biểu quan điểm của cá nhân về những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Như: Trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã đôi lần nhắc đến chữ “tài” và chữ “tâm”, Theo anh (chị), quan niệm ấy của tác giả có còn phù hợp với cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay hay không? Nếu được trả lời câu hỏi của Nguyễn Du, chúng ta sẽ nói với Nguyễn Du điều gì? Mỗi người hãy tìm chọn một câu để nói với Nguyễn Du? Nếu là nhà văn Nam Cao em sẽ viết kết thúc của truyện Chí Phèo như thế nào? Các câu hỏi phân tích, lí giải và phát biểu quan điểm mang tính trí tuệ rất cao, nó kích thích tư duy thẩm mĩ của người học, trong dạy học văn chúng ta nên chú ý có sự ưu tiên cho loại câu hỏi như thế này. - Hệ thống câu hỏi hiểu biết về hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học Loại câu hỏi này nhằm gợi ý học sinh đi sâu khám phá các câu hỏi tiết nghệ thuật của tác phẩm và cấu trúc của nó. Trong dạy học văn trước nay, loại câu hỏi này được sử dụng khá nhiều và cũng phát huy được hiệu quả. Hiểu biết về hình thức tác phẩm không có nghĩa là chúng ta yêu cầu các em dàn trải, tiến hành tìm hiểu toàn bộ các chi tiết nghệ thuật của tác phẩm mà ở đây chỉ cần tập trung vào những chi tiết nghệ thuật được xem là đặc sắc nhất, nổi bật nhất của tác phẩm hoặc những cấu trúc độc đáo của tác phẩm… 6 Nhận xét về hình thức của câu thơ cuối trong bài “ Cảnh ngày hè” Tác dụng của nó trong việc bộc lộ tình cảm của tác giả? Tác dụng của câu thơ toàn thanh bằng “ Nhà ai Pha luông mưa xa khơi” trong đoạn 1 của bài thơ Tây Tiến? Để trả lời cho những câu hỏi này, người học phải đọc kỹ, phân tích, suy nghĩ có sự liên tưởng, so sánh các chi tiết nghệ thuật đặc sắc, cấu trúc độc đáo trong mối tương quan hệ thống, từ đó tìm ra ý nghĩa của chúng, chúng có vai trò, tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tư tưởng, bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Tất nhiên, những ý kiến này của học sinh bước đầu không tránh khỏi trường hợp ít nhiều có tính chủ quan, suy diễn cá nhân. Khi đưa các câu hỏi loại này, giáo viên nên có sự tính toán và cân nhắc định hướng, đặc biệt là phải xuất phát từ đặc trưng loại thể và đặc điểm tâm lí học sinh . 2.3.2. Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng Trong cấu trúc năng lực văn học của học sinh, tưởng tượng là một trong những khả năng quan trọng hàng đầu. Thiếu năng lực tưởng tượng thì ở người học không có quá trình cảm thụ văn học. Ở lứa tuổi học sinh phổ thông, tưởng tượng luôn gắn liền với xúc cảm, tình cảm. Người đọc sẽ đi từ vỏ ngôn ngữ của tác phẩm để nhận ra thế giới nghệ thuật do tác giả dựng lên trong tác phẩm đó. Muốn cho thế giới nghệ thuật ấy hiện hình, người học phải biết huy động khả năng tái hiện bằng hoạt động tưởng tượng. Ở lứa tuổi học sinh phổ thông trung học, trí tưởng tượng của các em rất phong phú, vì vậy, người thầy phải tìm mọi cách để kích thích vào trí tưởng tượng ấy, làm thế nào để thông qua tưởng tượng tái hiện, thế giới nghệ thuật của tác phẩm hiện lên với nhiều bức tranh cuộc sống, nhiều con người khác nhau về diện mạo, tính cách. Theo TS Nguyễn Viết Chữ: “Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng là hệ thống câu hỏi thiên về sự hình dung của người đọc. Những câu hỏi giúp người đọc xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của hình tượng văn học” (9, tr.54). Nếu như tiếng còi tàu không xuất hiện mỗi lúc về đêm, anh (chị) thử hình dung xem cuộc sống của con người nơi đây sẽ như thế nào? 7 Nếu được thay lời nhân vật Liên để nói lên một mơ ước, anh (chị) sẽ nói điều gì? Em hãy thử hình dung nét mặt của viên quản ngục khi nghe lời khuyên của ông Huấn Cao và kể lại cho các bạn nghe? Không chỉ dừng lại ở hoạt động tái hiện mà trong một chừng mực nào đó của sự hình dung tưởng tượng, khả năng này có thể phát triển cao hơn ở tầm tái tạo các hình tượng nghệ thuật. Đây là một hoạt động đặc biệt, thường có ở học sinh khá giỏi, nó đòi hỏi khả năng sáng tạo rất nhiều. Khi đưa ra những câu hỏi thiên về khả năng tái tạo như thế này, không nhất thiết chúng ta phải có sự dàn trải trên toàn bộ bề mặt của tác phẩm mà thường chỉ tập trung vào một vài điểm mấu chốt nào đó của bức tranh nghệ thuật mà thôi, đó có thể là một chi tiết trong cuộc đời của nhân vật, một xung đột của vở kịch, một nét vẻ của tâm trạng…để qua đó, người dạy phát hiện ra sự sáng tạo của người học. Hãy hình dung anh (chị) là nhân vật Tnú và nói lên tâm trạng của mình lúc mười ngón tay bị bốc cháy? Hãy hình dung và mô tả lại khuôn mặt của tể tướng Phôn Vante khi ông này bắt gặp Phecđinăng cũng có mặt ở nhà của nhạc công Minle?.. Tóm lại, cũng như cảm xúc thẩm mĩ, tưởng tượng là một trong những năng lực không thể thiếu để có thể cảm thụ được tác phẩm văn học. Đưa ra các câu hỏi nhằm kích thích khả năng này và đón nhận câu trả lời ở người học, giáo viên sẽ hiểu được học sinh của mình hơn, từ đó có phương pháp rèn luyện, phát huy hiệu quả quá trình dạy học của mình. Thật ra, nếu được cân nhắc và lựa chọn một cách hợp lí các câu hỏi hình dung tưởng tượng thì giờ học văn sẽ trở nên sinh động, hấp dẫn, có sức lôi cuốn học sinh, Dĩ nhiên, ta cũng cần tránh, ngăn ngừa những trường hợp thái quá, tùy tiện, hướng theo cái chủ quan của người học. Trong phương pháp dạy học hiện đại, người thầy càng phải quan tâm đến việc phát triển trí tưởng tượng của học sinh. Nói như một nhà sư phạm của chúng ta “chỉ có thể bắt đầu giờ giảng văn khi ít nhất trong đầu óc học sinh đã dựng dậy được thế giới nghệ thuật của tác phẩm”. 2.3.3. Hệ thống câu hỏi cảm xúc 8 Cảm xúc được hiểu là những trạng thái, rung động có tính trực giác ở người học do sự tác động của các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm mang lại. Các yếu tố nội dung bao gồm các nhân vật, sự kiện, biến cố, tình huống được gợi lên trong tác phẩm. Đó là những bi kịch của xã hội và số phận con người có sức lay động mạnh mẽ đến tâm hồn của người học. Các yếu tố hình thức nghệ thuật tác phẩm có thể là một kiểu kết cấu, cốt truyện, cách xây dựng nhân vật, lối miêu tả diễn biến tâm trạng, ngữ điệu, nhạc tính trong thơ… Sau khi đọc xong tác phẩm, ở người đọc có thể dâng lên những cảm xúc khác nhau, như yêu thương, căm phẫn, thông cảm, chê bai, vui sướng, đau buồn…Câu hỏi cảm xúc là loại câu hỏi giúp người dạy tìm và phát hiện ra những phản ứng trực giác này ở người học. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hình ảnh của rừng xà nu bạt ngàn, xa tít đến cuối chân trời. Kết cấu truyện kiểu ấy có tạo ở anh (chi) ấn tượng gì không? Nhan đề bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” gợi cho em suy nghĩ gì? Trong dạy học truyền thống, khi mà cái chủ thể của người học chưa thực sự được quan tâm thì hầu như loại câu hỏi cảm xúc này ít được chú ý vận dụng. Mặc dù chưa phát triển thành những tình cảm thẩm mĩ sâu sắc, được định hướng đúng đắn qua quá trình đọc - hiểu và phân tích dưới sự dẫn dắt của giáo viên nhưng những ấn tượng ban đầu của các em về tác phẩm là những phản ứng tình cảm rất chân thật, hồn nhiên, phát hiện ra những rung động ấy sẽ giúp người dạy thấy rõ hơn về đối tượng học sinh của mình, từ đó có những biện pháp giảng dạy hợp lí. 3. Vận dụng hệ thống câu hỏi vào dạy học truyện ngắn hiện đại theo đặc trưng thể loại. 3.1. Vấn đề phân chia loại thể Tác phẩm văn chương là kết quả của quá trình sáng tạo của nhà văn, chứa đựng trong nó những giá trị độc đáo về nội dung và nghệ thuật. Sáng tạo và giao tiếp nghệ thuật là hiện tượng diễn ra thường xuyên trong đời sống xã hội. Muốn trao gửi thông điệp nghệ thuật đến người đọc, nhà văn phải trải qua việc tổ chức xây dựng những 9 yếu tố nghệ thuật (đề tài, chủ đề, kết cấu, lời văn…) để tạo nên chỉnh thể tác phẩm. Sản phẩm của sự lao động nghệ thuật nói đó, vì thế, rất đa dạng phong phú, nhưng quá trình sáng tạo lại chịu sự chi phối bởi những nguyên tắc chặt chẽ của quy luật loại hình, “trong đó ứng với một loại nội dung nhất định, có một loại hình nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể”. Để nắm bắt quy luật tổ chức loại thể văn học, khoa nghiên cứu văn học đã tiến hành việc phân loại tác phẩm với những kiến thức ngày càng sâu sắc. Đến nay, quan niệm về phân loại tác phẩm văn học đã có những lí giải tương đối thấu đáo, hợp lí. Mặc dù, trong cách phân chia vẫn còn những điểm khác nhau, nhưng về cơ bản, lâu nay các nhà lí luận vẫn thường dựa vào cách chia thời Arixtốt theo ba phương thức “mô phỏng hiện thực”, từ đó đi đến việc xác định ba loại văn chủ yếu: tự sự, trữ tình, kịch. Tuy nhiên, lịch sử sáng tạo nghệ thuật cho thấy, sự phân chia này vẫn mang tính chất tương đối, bởi có hiện tượng thâm nhập lẫn nhau giữa các loại hình. Trong thực tiễn văn học, người tiếp nhận có khi khó phân biệt rạch ròi ranh giới giữa ba loại thể này. Bởi thực tế văn học mỗi ngày một phong phú và sản phẩm tinh thần do nhà văn tạo ra ngày càng trở nên đa dạng. Trong khi đó, việc phân chia, sắp xếp nào cũng đều thể hiện sự nắm bắt chưa hoàn hảo trước đối tượng vốn là “một thực thể tinh thần đang biến động”. Vì thế, không thể khẳng định rằng một tác phẩm cụ thể nào đó là thuần nhất thuộc tự sự, trữ tình hay kịch. Chẳng hạn với Truyện Kiều, qua nội dung thể hiện, chúng ta dễ dàng nhận ra những nhân vật, sự kiện, tình tiết theo đường dây kết nối của phương thức tự sự khá rõ. Tuy nhiên, nếu dạy học kiệt tác của Nguyễn Du mà chỉ nhằm vào điều nhà văn lột tả về “những điều trông thấy” qua bút pháp tả thực mà quên đi những nỗi niềm cảm xúc, những rung động về tình người, tình đời thì rõ ràng chưa nhìn thấy hết “nỗi đau nhân tình” chất chứa trong lòng nhà thơ, chưa nắm bắt trúng giá trị nghệ thuật thể hiện qua tác phẩm. Đó là chưa kể tới những tình huống éo le đầy chất kịch cuộc đời mà tác giả đã tái hiện một cách sống động, sắc sảo. Khi dạy học “Mảnh trăng cuối rừng” chúng ta cũng gặp những cảnh huống tương tự. Câu chuyện kể của người lính lái xe đưa người đọc trở về những đêm hành quân gian khổ 10 với lí tưởng xả thân của những nam nữ thanh niên trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Nhưng cũng qua tình huống khốc liệt của chiến tranh, chúng ta thấy hiện lên câu chuyện tình lãng mạn của người lính lái xe và cô thanh niên xung phong trên chuyến xe xông trận giữa cảnh rừng đại ngàn với mảnh trăng chênh vênh đượm một vẻ trong sáng, đầy chất thơ. Ánh trăng và tính đa nghĩa của hình tượng trăng vốn là đặc trưng của bút pháp trữ tình. Câu chuyện cũng tạo những cảm xúc hồi hộp khi tác giả đưa người đọc gặp những tình huống xảy ra đầy “kịch tính”. Như vậy, người đọc dễ nhận ra điểm khác biệt giữa tác phẩm tự sự thuần tuý với tác phẩm tự sự mang yếu tố trữ tình. Cho nên, về phương diện cấu trúc nội dung của tác phẩm văn học thì “loại” là chất mà “ thể ” là hình thức biểu hiện cụ thể của “loại ”, không có “thể” thì “loại” không biểu hiện ra được. Nhưng khi đã biểu hiện thành “thể ” thì “thể ” vẫn có tính độc lập tương đối của nó. “Điều quan trọng là chúng ta thường xuyên tỉnh táo với ba loại tính chất ở từng tác phẩm. Vì chính “tính chất loại thể” ấy mới làm ra diện mạo tinh thần của tác phẩm”. Nắm vững kiến thức về loại thể là một yêu cầu quan trọng của quá trình nghiên cứu giảng dạy tác phẩm văn chương. Gần đây, trước yêu cầu đổi mới tư duy lí luận, nhờ tiếp cận với những thành tựu của khoa lí luận văn học hiện đại trên thế giới, chúng ta đã có sự chú ý đúng mức tới hiện tượng loại thể của tác phẩm văn chương. Nhờ đó, trong dạy học văn, việc tìm hiểu, nắm bắt kiến thức về đặc trưng loại thể đã mang đến những chuyển động tích cực tới việc đổi mới phương pháp dạy học văn. Đúng như Z.Ia.Rez đã nhận xét: “Nghiên cứu các tác phẩm khác nhau trong chương trình học ở nhà trường học sinh dần từng bước sẽ được luyện tập để nhận thấy rằng tác phẩm như thế đều có một hình thức đặc thù của nó và được nhà văn xây dựng với một ý đồ nhất định; rằng tác giả sáng tạo nên một tác phẩm trữ tình là để biểu hiện những thể nghiệm của mình, còn viết một vở kịch là để nhận thức các xung đột trong cuộc sống v.v…Thế nghĩa là học sinh sẽ học cách hiểu tác phẩm văn học như một hiện tượng của nghệ thuật ngôn từ, vốn có những quy luật riêng của nó và nhìn thấy ở 11 văn học một quá trình trong đó các hình thức, thể loại, phong cách…tồn tại và thay thế nhau”. Trong khuôn khổ đề tài này, người viết đi vào tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn hiện đại- một thể tiêu biểu của loại tự sự. 3.2. Đặc trưng thi pháp truyện ngắn 3.2.1.Khái niệm truyện ngắn Truyện ngắn là một hình thức của văn xuôi tự sự. Trong một nền văn học phát triển, thể loại truyện ngắn có một vị trí xứng đáng. Trước nay, khi định nghĩa truyện ngắn, hầu hết các nhà nghiên cứu đều dựa trên ý nghĩa dung lượng, sức chứa của nó. Chẳng hạn, từ điển văn học viết “ Hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống” , hay theo cách xác định của các nhà lý luận văn học: “ Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự sự. Khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho truyện ngắn có vẻ gần gũi với các hình thức truyện kể dân gian như truyện cổ, giai thoại, truyện cười, hoặc gần gũi với các bài ký ngắn. Nhưng thực ra không phải. Nó gần với tiểu thuyết hơn cả bởi hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời”. Trong thể loại truyện ngắn cũng có sự khác nhau giữa truyện ngắn truyền thống và truyện ngắn hiện đại, như truyện ngắn truyền thống thường nặng về kể, nhịp chậm, truyện phải có đầu có đuôi, kết thúc có hậu hoặc không có hậu, nhưng đọc xong đọc giả không cần phải tìm hiểu thêm,… Còn truyện ngắn hiện đại có rất nhiều thay đổi về nhân vật, vai trò của người kể chuyện, cơ cấu giọng điệu, không gian và thời gian, cốt truyện không phải là vấn đề then chốt, nhiều khi lại là truyện không có chuyện. Trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ tập trung vào những vấn đề được coi là đặc trưng chủ yếu của truyện ngắn hiện đại trong phản ánh hiện thực cuộc sống như: dung lượng, kết cấu, cách xây dựng cốt truyện, miêu tả nhân vật, người kể chuyện, phương thức trần thuật và giọng điệu, tình huống truyện… 3.2.2. Đặc trưng thi pháp truyện ngắn  Dung lượng và kết cấu 12 Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ. Do tính chất ngắn của thể loại mà truyện ngắn thường không có nhiều tuyến nhân vật, không bao quát cả một đời người,không có quá nhiều sự kiện. Tuy vậy, truyện ngắn hiện đại có nhiều thay đổi . Nhà văn có thể chỉ đi vào một lát cắt cuộc đời nhân vật, cũng có thể viết về cả đời người ( Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu là cả một đời người nông dân nhọc nhằn, đầy biến động). Về kết cấu truyện ngắn hiện đại không theo trật tự thời gian sự kiện mà theo trục thời gian tâm trạng. Nhiều truyện ngắn bắt đầu từ đoạn giữa hay đoạn cuối, vận dụng hồi ức, độc thoại, vận dụng các hình thức ghép nối tạo hiệu quả cao.  Nhân vật Về nhân vật, truyện ngắn cũng như các loại truyện khác bao giờ cũng có nhân vật. Nhưng nếu tiểu thuyết chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó thì truyện ngắn thường khắc họa một hiện tượng, phác họa một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Do đó trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện. Nhân vật trong truyện ngắn thường được nhà văn giới thiệu qua một giai đoạn nhất định trong toàn bộ dòng sống của nhân vật, của đời người. Nhân vật được đưa vào truyện ngắn là những nhân vật rất tiêu biểu trong số các nhân vật, nó nêu bật được nội dung, tư tưởng của tác phẩm và truyền đạt được mục đích, lý tưởng của tác giả. Truyện ngắn sống bằng nhân vật, Nguyễn Kiên có viết: “…đi vào câc yếu tố khiến một truyện thành công cũng không thể bỏ qua một khâu nữa: nhân vật. Dù không thể xây dựng những nhân vật hoàn chỉnh như tiểu thuyết những truyện ngắn cũng phải có những nhân vật với động cơ bên trong, những khát vọng của nó. Và đây là đầu mối của mọi truyện, bản thân các nhân vật phải mang vấn đề. Nếu người viết chỉ dùng nhân vật làm một thứ phương tiện bất đắc dĩ, giữa chủ đề và nhân vật, hai cái không ăn khớp nhau thì dù cả hai có hay ho, sinh động đến mấy cũng không tránh khỏi vô nghĩa.” 13 Nếu như nhân vật trong tiểu thuyết được miêu tả tỉ mỉ từ lai lịch xuất thân, ngoại hình đến nội tâm, mô tả số phận cá nhân trong sự phát triển phong phú và phức tạp của nó, cách mô tả mang tính chất rộng lớn, dàn trải thì nhân vật trong truyện ngắn thường chỉ xuất hiện trong một thời điểm, một tình huống hay khoảnh khắc nào đó của sự kiện nhưng chính khoảnh khắc ấy lại làm cho tính cách nhân vật bộc lộ rõ nhất. Sách lí luận văn học cũng ghi nhận “ nhân vật cũng chỉ hiện lên trong tác phẩm vào thời điểm có ý nghĩa quyết định tới số phận và thường chỉ gắn bó tới một hoặc hai sự kiện tiêu biểu” (17, tr 167). Chính vì vậy, khi đọc, từ những tình huống, sự kiện được đề cập, người đọc phải có sự liên hệ, phải nhìn được chiều rộng, chiều sâu của hiện thực và tính cách nhân vật theo kiểu “ lấy nhỏ thấy lớn”.  Cốt truyện Về cốt truyện, trong truyện ngắn, cốt truyện vẫn thường được nhà văn lấy làm cốt lõi để truyền đạt chủ đề, tư tưởng. Truyện ngắn có thể có đầy đủ năm phần cơ bản cảu cốt truyện: mở đầu, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, kết thúc. Phân tích các thành phần này của truyện giúp ta nắm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và đồng thời nắm được con đường phát triển tính cách của nhân vật trong tác phẩm. Tuy nhiên không phải truyện ngắn nào cuãng có đủ năm phần trên. Thực tiễn sáng tác truyện ngắn cho thấy, thường các nhà văn chú ý đến hai khâu quan trọng nhất khi xây dựng cốt truyện là chi tiết và đoạn kết. Xây dựng cốt truyện của truyện ngắn đối với nhà văn đó là một nghệ thuật, nó đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng. Do dung lượng của một tác phẩm không nhiều, không gian bị co hẹp, thời gian bị rút ngắn ở mức có thể, chính vì vậy cốt truyện không cần dài dòng, phức tạp. Đôi khi, với một cốt truyện đơn giản nhưng bằng nghệ thuật sáng tạo của nhà văn, nó lại có sức khái quát lớn, có khả năng phản ánh sâu sắc những biến động của hiện thực và diễn tả tinh tế chiều sâu tâm lý con người. Chẳng hạn, câu chuyện xoay quanh một chuyến đi, một sự gặp gỡ tình cờ, một tình huống xung đột, thậm chí là một khía cạnh hết sức đời thường,… 14 Truyện ngắn hiện đại có nhiều xu hướng xây dựng cốt truyện khác nhau. Có truyện thiên về cốt truyện sự kiện với những tình huống kịch tính bất ngờ, với cách thắt nút, gỡ nút tạo diễn biến cho mạch truyện ( truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng). Có truyện ngắn thiên về tâm trạng, nhà văn lược giản hành động bên ngoài, thiên về hành động bên trong của nhân vật. Đây là những truyện ngắn không có cốt truyện đặc biệt, chất truyện nhạt, khó tóm tắt, khó kể( trước 1945 có truyện ngắn của Thạch Lam, Nam Cao, sau 1945 có truyện ngắn của Đỗ Chu, sau 1975 xuất hiện phổ biến dạng truyện ngắn này, trong đó có truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.  Nghệ thuật trần thuật Nghệ thuật trần thuật là một trong những bình diện cơ bản của loại tự sự. Tự sự là kể lại một câu chuyện có diễn biến, có nhân vật, có sự kiện. Vì vậy, trong tự sự nghệ thuật trần thuật đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Ở truyện ngắn, người kể chuyện thường đứng ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Ở ngôi thứ nhất, truyện như một tự truyện, người kể đồng nhất với nhân vật, tự kể về mình và những người xung quanh, vì thế mà giọng kể thâm trầm, nội dung kể cũng trở nên tỉ mỉ, sâu sắc. Kiểu truyện như vậy thường thấy trong các sáng tác của Nam Cao, ở những câu chuyện mà nhân vật xưng “tôi”. Trong trường hợp ở ngôi thứ ba thì người kể chuyện cũng hiểu biết hết sức tường tận về nhân vật bởi người kể chuyện không chỉ là người quan sát, chứng kiến mà còn là người trong cuộc, giọng kể đầy cảm thông, tâm tình, chia sẻ,… Ngay cả khi cách kể có vẻ lạnh lùng, khách quan, nhân vật được gọi bằng “hắn”, “y”, “anh ta”,…nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tấm lòng yêu thương, gần gũi của người kể bởi khoảng cách giữa người kể và nhân vật là không có. Cũng có những truyện ngắn kết hợp các phương thức trần thuật. Câu chuyện không được kể bởi một người kể chuyện duy nhất mà được kể từ nhiều điểm nhìn, nhiều ngôi kể. Điều này tạo nên sắc thái đa giọng điệu cho truyện ngắn hiện đại.  Tình huống truyện 15 Tình huống là một trong những yếu tố cơ bản của văn xuôi tự sự. Tình huống tạo nên nét riêng của từng truyện, đồng thời thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Đặc biệt với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò quan trọng trong nghệ thuật dựng truyện - có ý nghĩa đối với sự phát triển mạch truyện và thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm. Ở truyện ngắn, tình huống thường ngắn liền với các biến cố của sự kiện, biến cố của hành động nhân vật. Theo Xtaylin” những tình huống này cần thiết đối với việc xây dựng những hình tượng nhiều mặt và sâu sắc, cũng như đối với việc xây dựng một hệ thống tình tiết nhiều mặt, thống nhất và logic nội tại cho tác phẩm nghệ thuật.”  Chi tiết nghệ thuật Truyện ngắn có thể không có cốt truyện tiểu biểu nhưng truyện ngắn sống được là nhờ các chi tiết nghệ thuật, vì nhờ có chi tiết tiêu biểu mà không khí, cảnh huống, tính cách, hành động, tâm tư nhân vật được bộc lộ đầy đủ. Trong nhiều tác phẩm có những chi tiết phát sáng nhờ đó mà chủ đề, tư tưởng thẩm mỹ được khắc sâu. Về điểm này nhà văn Nguyên Ngọc có viết: “ truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện ly kì, gay cấn, kể được. Truyện cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được, nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết, nó sẽ như nước lã.” Trong tác phẩm có nhiều chi tiết nghệ thuật nhưng không phải tất cả các chi tiết đều có giá trị ngang nhau, và việc tạo ra được các chi tiết có giá trị nghệ thuật cao, không phải là dễ. Chi tiết tiêu biểu là những chi tiết nếu lược bỏ đi thì nhân vật trở nên mờ nhạt, vô hồn, cốt truyện không tiếp tục được. Chẳng hạn, chi tiết “bát cháo hành” trong Chí Phèo, qua ngòi bút của Nam Cao không còn là bát cháo bình thường. Với Chí Phèo, nó còn mang hương vị của tình yêu thương, tình người, tình yêu. Nó có sức mạnh làm lương tri của Chí Phèo thực sự thức tỉnh. Đó là những chi tiết không thể lược bỏ và khó lòng thay thế được. Nguyễn Công Hoan đã rất có lí khi cho rằng: “chi tiết nghệ thuật là những hòn gạch để xây nên truyện, không có chi tiết thì không có truyện sinh động gây cảm xúc. Nó là cảnh, là người, là tiếng nói, giọng nói, việc làm của nhân vật”. 16  Không gian và thời gian Cũng giống bất kì một tác phẩm nghệ thuật nào, các sự kiện, hành động trong truyện ngắn đều diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định. Nhưng trong truyện ngắn không gian và thời gian vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính nội dung. Việc lựa chọn và tổ chức không gian và thời gian có tác dụng góp phần thể hiện ý nghĩa thẩm mỹ, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng hạn không gian và thời gian trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam, gợi sự tối tăm, quẩn canh bế tắc trong cuộc sống của con người nơi phố huyện nghèo trước cách mạng hay không gian sống của gia đình ngư dân vùng ven biển miền Trung đầy khó khăn, đói nghèo, lạc hậu trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn là một đề tài văn học khó, đòi hỏi sự dụng công lao động rất lớn song nó lại có lợi thế mạnh trong việc thể hiện đời sống của thể loại và thích ứng nhanh với đời sống của con người. Dung lượng ngắn, tốc độ xử lý tình tiết, sự kiện, cách thể hiện nhân vật,… là một ưu thế để truyện ngắn chiếm một vị trí quan trọng trên văn đàn kỷ nguyên hậu hiện đại. Nội dung, tư tưởng chủ đề của truyện được nhà văn thể hiện qua hình thức như xây dựng cốt truyện, kết cấu, nhân vật, sự kiện, biến cố…vì vậy khi dạy học truyện ngắn, chúng ta cần thiết phải cho học sinh nắm vững cốt truyện, biến cố trong cuộc đời, số phận của nhân vật chính. Trong trường hợp này, các câu hỏi hiểu biết về nội dung theo kiểu kể lại, tả lại phải được vận dụng, dĩ nhiên là ở mức độ vừa phải, có tính dẫn dắt. Một điểm đặc biệt cần lưu ý đối với truyện ngắn hiện đại là sự phát triển và phân hoá phức tạp của nó. Chính vì vậy mà các nhà làm phương pháp khuyên chúng ta trong dạy học nên có sự phân biệt” chất của loại” trong thể. Cùng là truyện ngắn nhưng có truyện mang tính tự sự, có truyện lại mang tính trữ tình, rồi ngay trong loại trữ tình thì có trữ tình thế sự, trữ tình hiện thực, trữ tình lãng mạn…Xác định đúng “chất của loại” ấy, chúng ta có sự lựa chọn câu hỏi thích hợp, khơi gợi và hướng học sinh đi đúng vào mạch cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. 17 Nói tóm lại, mỗi một truyện ngắn cụ thể có một cách tổ chức kết cấu, một cách vận hành riêng. Chính vì vậy khi dạy học, tuỳ từng tác phẩm và dựa trên những yêu cầu có tính nguyên tắc của việc xây dựng câu hỏi và việc phân loại các câu hỏi mà người dạy có sự vận dụng hệ thống câu hỏi cho phù hợp. Cần tránh trường hợp nhàm chán cứ lặp đi lặp lại qua từng tiết học một mô hình câu hỏi giống nhau cho những bài học khác nhau, phương pháp dạy học kiểu ấy không chỉ làm thui chột khả năng cảm thụ văn học của học sinh mà nó còn phản ánh năng lực sư phạm kém cỏi của người thầy. 3.3.Vận dụng hệ thống câu hỏi vào dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu 3.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu là một nhà văn chiến sĩ tâm huyết với nghề – một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Tác phẩm của ông đã đem đến cho văn xuôi Việt Nam một phong cách mới, góp phần làm phong phú diện mạo của nền văn học nước nhà. Nguyễn Minh Châu sinh ngày 30-10-1930 trong một gia đình nông dân ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Trước cách mạng tháng Tám ông học xong bậc Thành chung. Năm 1950, Nguyễn Minh Châu gia nhập bộ đội và được kết nạp Đảng cũng trong năm này. Năm 1960, ông công tác phòng văn nghệ Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. 1962 cho đến cuối đời Nguyễn Minh Châu làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông mất tại Hà Nội năm 1989 do căn bệnh hiểm nghèo. Nguyễn Minh Châu đến với văn học khá muộn nhưng ông đã từng bước khẳng định mình qua cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhất là giai đoạn văn học sau năm 1975. Ông được xem là “người mở đường tinh anh và tài năng” nhất của văn học Việt Nam hiện đại. - Các tác phẩm chính: + Tiểu thuyết; Cửa sông(1966), Dấu chân người lính (1970), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Miền cháy (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987) 18 + Truyện ngắn: Những vùng trời khác nhau (1970), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lau (1989) + Tập bút kí (in chung với Hồ Phương): Núi rừng yên tĩnh (1981) + Tác phẩm viết cho thiếu nhi: Từ giã tuổi thơ ( 1974), Những ngày lưu lạc (1987), Đảo đá kì lạ (1985) + Tiểu luận phê bình: Người viết trẻ và cánh rừng già (1973), Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1985), Trang giấy trước đèn (1994). - Các đề tài chính: Đề tài chiến tranh, đề tài nông dân, đề tài đời tư - thế sự. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu không đồ sộ nhưng đa dạng về thể loại: bao gồm truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút kí, phê bình… Nguyễn Minh Châu được xem là nhà văn có vị trí nổi bật trong tiến trình vận động, phát triển của văn học ta từ những năm 60 thế kỷ XX cho đến nay. 3.3.2. Quan niệm văn chương của Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn trăn trở trên từng trang viết về chức năng của văn học và thiên chức của người nghệ sĩ. Quan điểm nghệ thuật của ông được phát ngôn trực tiếp trong các tiểu luận phê bình, hầu hết các bài viết này được tập hợp trong cuốn Trang giấy trước đèn. Ông trực tiếp đưa ra quan điểm về văn chương nghệ thuật về cái đẹp, đồng thời nói lên những trăn trở, tìm tòi đổi mới của nhà văn: Nguyễn Minh Châu quan niệm viết văn là đi tìm’ hạt ngọc ẩn” trong tâm hồn con người. Trước 1975 Nguyễn Minh Châu đi tìm hạt ngọc ẩn đó trong những thử thách của chiến tranh. Mảnh trăng cuối rừng là hành trình đi tìm cái đẹp, cái đẹp không lồ lộ phơi bày mà thấp thoáng, ẩn hiện, khơi gợi, kiếm tìm. Cái đẹp tiềm ẩn đó nhà văn đã gởi gắm ở hình tượng mảnh trăng thấp thoáng cuối rừng và hình tượng nhân vật Nguyệt- cô gái mang tên vầng trăng. Sau 1975 Nguyễn Minh Châu đi tìm và phát hiện cái đẹp qua bộn bề, phức tạp của đời sống thường nhật ( Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê… vẻ đẹp lấm láp đời thường) Nguyễn Minh Châu quan niệm văn chương phải vì con người. Trong Phỏng vấn đầu xuân 1986, Nguyễn Minh Châu viết: “ Tôi không thể tưởng tượng nổi một 19 nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người… Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững trước cuộc sống”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm tính chân thật là yếu tố hàng đầu của văn chương nghệ thuật. Quan niệm đó nhất quán trong suốt quá trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng tâm sự: “ ... Nhà văn có tầm cỡ thời đại thì phải ngụp sâu vào dân tộc mình, nhân dân mình...” Trong truyện ngắn Bức tranh, người họa sĩ đã có hàng trăm bức vẽ được chuẩn bị công phu để đi dự triển lãm nước ngoài, nhưng bức đạt giải lại là bức phác họa về chân dung người lính ở chiến trường. Bức tranh được giải vì nó ra đời từ niềm rung động sáng tạo đích thực. Nguyễn Minh Châu quan niệm nghệ thuật và cuộc sống phải có mối liên hệ chặt chẽ. Theo ông” viết văn là phải đào xới đến tận cùng cái đáy của cuộc đời”; “ văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” Những quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đã chuyển hóa vào thực tiễn sáng tác mà Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Trong truyện ngắn này, bằng biểu tượng “ chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thành công quan niệm đã trở thành chân lí: Nghệ thuật phải bắt nguồn từ đời sống; văn chương nghệ thuật phải quan tâm đến vấn đề cốt lõi là số phận con người; cái đẹp không thể tách rời cái chân thật. 3.3.3 Những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu Là một trong những người mở đường tinh anh và tài năng cảu nền văn xuôi Việt Nam hiện đại trong quá trình đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã không ngừng suy nghĩ, kiếm tìm và thử nghiệm những cách thể hiện mới để tự mở rộng bản sắc của chính mình đặc biệt ở thể loại truyện ngắn:  Cốt truyện Điểm nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là kết cấu tâm lí, chất chuyện mờ nhạt. Cốt truyện chủ yếu được triển khai theo sự vận động tâm trạng, ít sự kiện, ít tình 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan