Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn vấn đề liên hệ thực tế trong giờ dạy đọc văn ở thpt...

Tài liệu Skkn vấn đề liên hệ thực tế trong giờ dạy đọc văn ở thpt

.DOC
19
1458
143

Mô tả:

BM01-Bìa SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị THPT Nguyễn Đình Chiểu -------------------------Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẤN ĐỀ LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG GIỜ DẠY ĐỌC VĂN Ở THPT Người thực hiện: Nguyễn Thị Lê Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục :  - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn  - Lĩnh vực khác:  Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh Năm học: 2012-2013.  Hiện vật khác BM02-LLKHSKKN SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Nguyễn Thị Lê 2. Ngày tháng năm sinh: 04/10/1980 3. Nam, nữ: nữ 4. Địa chỉ: Phước Thái- Long Thành- Đồng Nai 5. Điện thoại: 0613551883 ; ĐTDĐ:0962566919 6. E-mail:[email protected] 7. Chức vụ:Tổ trưởng 8. Đơn vị công tác:Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân - Năm nhận bằng:2003 - Chuyên ngành đào tạo:Ngữ văn III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm:Ngữ văn - Số năm có kinh nghiệm:09 2 Tên sáng kiến kinh nghiệm: VẤN ĐỀ LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG GIỜ DẠY ĐỌC VĂN Ở THPT. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Học Ngữ văn là để trau dồi tình cảm thẩm mĩ và nhân cách.Đó là một mục tiêu vô cùng quan trọng. Song chương trình Ngữ văn trong nhà trường THPT còn chú trọng phương diện văn hóa của văn bản văn chương. Văn chương trong nhà trường còn cung cấp những hiểu biết về nhiều phương diện của đời sống... Học Ngữ văn phải hướng vào cuộc sống để vận dụng kiến thức và để sống đúng, sống đẹp. Đó là quan điểm văn hóa và thực tiễn của việc dạy- học Ngữ văn . Ngày nay, cuộc sống xã hội diễn biến phức tạp, mỗi em học sinh đang hàng ngày phải va chạm tiếp xúc với biết bao luồng thông tin văn hóa thẫm mĩ khác xa những điều thầy cô truyền đạt.Thái độ thờ ơ lạnh lùng của học sinh trước nỗi đau buồn của con người trong cuộc đời cũng như trong văn chương là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ, day dứt. Nếu học sinh không đồng cảm được, không xúc động nổi thì đó là dấu hiệu không lành mạnh trong tâm hồn, tình cảm của các em. Có một số học sinh sống hàng ngày thì ích kỷ ngay cả với người thân trong gia đình, bạn bè. Nhưng khi làm bài văn lại huênh hoang sáo rỗng với những mĩ từ đạo lí. Có những học sinh trơn tru về đạo lí nhưng lại thờ ơ với những bất hạnh của người khác. Cách biệt giữa cuộc sống với việc làm văn là một sự dối trá. Là giáo viên dạy văn chúng ta có thể làm ngơ trước những hiện trạng như thế chăng? Biết rằng việc liên hệ thực tế trong giờ dạy Đọc văn không còn là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên có nhiều lí do khách quan, chủ quan ( thời gian, không gian, tâm lí...) mà không phải giờ nào, giáo viên nào cũng thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, ở bài viết này tôi muốn đề cập tới vài vấn đề liên hệ thực tế trong mỗi tác phẩm, đoạn trích văn chương cụ thể từ đó có cái nhìn bao quát trong toàn bộ phân môn Đọc văn ở bậc THPT và cũng là để kéo gần khoảng cách giữa hiện thực đời sống với văn chương trong tâm hồn học sinh thân yêu, giúp các em nhận thức được những vấn đề của cuộc sống và hoàn thiện nhân cách tốt đẹp. Một thực tế khác thôi thúc tôi chọn đề tài này đó là trong nhiều tiết dự giờ của đồng nghiệp tôi thấy giáo viên dạy và liên hệ thức tế vào bài dạy rất hiệu quả, giờ dạy- học hứng thú, sôi nổi, chất lượng .Chẳng hạn, trong năm học 2011-2012 tôi được dự giờ cô Nguyễn Thị Liên cùng với thanh tra chuyên môn của Sở GD.Cô Liên dạy bài Vợ nhặt-Kim Lân 2 tiết liên tục, trong quá trình thực hiện bài giảng , giáo viên đảm bảo đúng đủ nội dung chương trình, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp, hoạt động dạy- học phù hợp, đặc biệt giáo viên chọn và liên hệ thực tế nhiều nội dung, chi tiết, hình ảnh có ý nghĩa, có tính giáo dục cao, như: khi giảng về bối cảnh lịch sử 1945, giáo viên trình chiếu đoạn phim tư liệu về nạn đói năm Ất Dậu hay đọc nhiều câu thơ liên hệ mở rộng cho nội dung trong bài giảng văn xuôi, ... Nhờ liên hệ phong phú, ý nghĩa, nên dù học sinh không sống ở thời kì xã hội năm 1945 nhưng vẫn hiểu được bối cảnh xã hội lúc đó như thế nào và trong suốt cả 2 tiết học từ phút đầu cho đến phút cuối của tiết thứ hai tôi thấy học sinh vẫn hứng thú, chăm chú nghe, ghi bài , hiểu bài.Có thể khẳng định đó là hiệu quả 3 của những giờ dạy Văn có liên hệ thực tế ý nghĩa. Nói cách khác đó là cách giữ chất văn trong mỗi người dạy và học Văn. II .TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận: Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ- BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS”. Dạy văn là một quá trình phức tạp đan kết quá trình tâm lí, ngôn ngữ văn học sư phạm. Dạy văn là một lĩnh vực hoạt động đòi hỏi nhiều sự tìm tòi sáng tạo của cá nhân người lên lớp. Từ đời sống đế tác phẩm văn học làm sao có thể làm đẹp và phong phú hơn tâm hồn các em học sinh. Đó là kết quả của sự thẩm thấu chuyển hóa vào từng cá nhân học sinh, có khi bất ngờ, ngẫu nhiên. Từ một hình tượng, một tâm trạng, một hoàn cảnh cụ thể, người thầy có thể liên hệ thực tế gần gũi với học sinh. Phải coi học sinh là ngọn lửa cần thắp sáng chứ không phải là cái bình chứa kiến thức. Xuất phát từ mục đích đó. Tôi muốn mỗi giờ dạy Văn của mình sẽ đem lại cho học sinh những hiểu biết thực tế , tác động học sinh có sự chuyển biến trong lối sống, nhận thức qua chính các nhà thơ, nhà văn, các hình tượng nhân vật văn học. Góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách, lòng nhân ái, lòng dũng cảm, lòng vị tha, cao thượng, lòng yêu nước,... của học sinh. Trong nhận thức của mình Mác đã nói rõ quá trình nhận thức của con người: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, trở về thực tiễn” vì thế khi dạy học sinh cần hướng cho các trở về với thực tiễn đời sống xã hội.Phát huy khả năng cảm thụ, năng lực hiểu biết, hình thành nhân cách người học. Từ đó giúp các tưởng tượng và định hình được xã hội mình đang sống hoặc ở cả những thời đại đã qua ( cả không gian và thời gian). Nói như Macarenco: “Giáo dục chủ nghĩa cộng sản mà không giáo dục lòng yêu nước và nhân ái thì giáo dục cái gì nữa” . Viện sỹ Mikhancốp hai lần anh hùng Liên Xô khi góp ý về việc dạy văn đã nói: “Không thể bớt khoa học nhân văn, bớt văn trong chương trình vì bớt văn tức bớt chất người” Trong nhà trường THPT độ tuổi 15 đến 18 là lứa tuổi chưa trải nghiệm nhiều, vốn hiểu biết chưa phong phú, kinh nghiệm sống hạn chế nhưng lại nhạy cảm với đời sống bên ngoài. Vì vậy, khi truyền thụ những kiến thức giáo điều xa rời thực tế khiến các em không hứng thú học tập , thậm chí cảm thấy điều thầy cô nói là không có thật. Hơn nữa trong tâm lí học sinh cũng như của không ít người cho rằng Văn học là bay bỗng, lãng mạn, không thiết thực ...Cho nên việc liên hệ thực tế của giáo viên cần sinh động hấp dẫn, gần với hiện thực đời sống đang xảy 4 ra. Để các em có thể tư duy, nhận thức , lựa chọn sáng tạo, trau dồi cho mình những tình cảm đạo đức phù hợp với xã hội. Có thể nói dạy- học Văn là một bài toán nan giải, quá trình đổi mới là một quá trình tìm tòi ,nhọc nhằn. Cần có hiểu biết đến nơi đến chốn về lí luận, về thực tế, cần có phương pháp tiếp cận đồng bộ và thái độ khiêm tốn, cầu thị, mới có thể có được những suy nghĩ chín chắn, có chất lượng và bổ ích. Như chúng ta biết: Những tác phẩm văn chương lớn, nhất là những tác phẩm văn chương kiệt xuất, bao giờ cũng có ý nghĩa phổ quát toàn nhân loại. Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là nỗi đau của người phụ nữ Việt Nam tài sắc đầu thế kỉ XVIII. Bất hạnh của cô bé Cô – dét đâu chỉ là chuyện của trẻ em nước Pháp thời V. Huy – gô. Thơ Nguyễn Trãi được giới văn học Pháp đánh giá là có “tinh thần vũ trụ” . Thế nhưng, không phải vì vậy mà mỗi tác phẩm văn chương lại mất đi giá trị lịch sử của nó. Ví như, nếu tách Vợ nhặt của Kim Lân ra khỏi không khí tiền khởi nghĩa thì làm sao cảm nhận được những chi tiết nghệ thuật sáng giá trong ý đồ sáng tác của Kim Lân ở cuối tác phẩm “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...”, hoặc nếu tách Rừng xà nu ra khỏi những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt, chắc chúng ta không thể hiểu hết được vì sao Tnú bị giặc tra tấn dã man - tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay mà không hề kêu van . Cho nên, để giúp các em yêu mến môn Văn, cần làm cho các em hiểu nội dung tác phẩm như thế nào? Qua tác phẩm tác giả muốn nói gì? Ý nghĩa đối với đời sống, bản thân ?,... Mà để hiểu tác phẩm, hãy liên hệ tác phẩm đến những gì xung quanh cuộc sống của các em. Từ đó, các em thấy được sự đồng cảm, sự gần gũi,... Do điều kiện thời gian, khả năng bản thân còn hạn chế nên ở bài viết này tôi chỉ giới hạn trong phân môn Đọc văn Văn học Việt Nam và ở một số bài cụ thể trong chương trình THPT-cơ bản mà tôi đã được trực tiếp giảng dạy. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1/ Nội dung: - So với chương trình và sgk cũ, chương trình và sgk Ngữ văn THPT CT chuẩn có những thay đổi nhất định trong việc lựa chọn tác phẩm với ý tưởng mở rộng. +Lớp 10: chương trình thay thế và đưa thêm một số tác phẩm như Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày, Hưng Đạo Đại Trần Quốc Tuấn của Ngô Sĩ Liên Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ,... +Lớp11: chương trình thay thế và đưa thêm một số tác phẩm như Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát, Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, Hầu trời của Nguyễn Huy Tưởng, Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh,... + Lớp 12: chương trình thay thế và đưa thêm một số tác phẩm như: Đò Lèn ( Nguyễn Duy), Đàn ghi ta của Lor – ca ( Thanh Thảo), Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( Hoàng Phủ Ngọc Tường ), Một người Hà Nội ( Nguyễn Khải ), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba, da hàng thịt ( Lưu Quang Vũ),…Chương trình cũng chú ý thêm về loại thể. Về văn nghị luận, có thêm bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc ( Phạm Văn Đồng ). Ngoài ra, còn có một bài về chân dung 5 văn học của Xvai – gơ và hai văn bản nhật dụng. Kịch sau năm 1975 được đưa vào sgk với Hồn Trương Ba, da hàng thịt .Kí được bổ sung bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( Hoàng Phủ Ngọc Tường ),... - Chương trình không chỉ chọn các sáng tác nghệ thuật văn chương mà còn tăng cường phần nghị luận xã hội, nghị luận văn học và thêm một số văn bản nhật dụng. 2.2/Biện pháp chung: Ngữ văn là môn học đòi hỏi người học khả năng tư duy, năng lực nhận biết và cả trái tim biết rung động, thương yêu . Nói cách khác là cần kết hợp nhiều kĩ năng( kĩ năng đọc, kĩ năng nghe, kĩ năng quan sát, kĩ năng nói, kĩ năng bộc lộ cảm xúc,...). Đây cũng là bộ môn tổng hòa nhiều kiến thức bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Nó không chỉ phong phú về nội dung mà còn đa dạng về hình thức, mỗi bài học mở ra nhiều vấn đề khác nhau, đưa người đọc đi đến những nhận thức đa diện, nhiều chiều. Người đọc thấy được mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống hiện thực. Căn cứ vào nội dung trên người dạy cần có kế hoạch thời gian, phương pháp phù hợp cho mỗi nội dung bài dạy để liên hệ thực tế có hiệu quả cao nhất.Cụ thể: không làm tăng thêm nội dung, thời lượng dạy học, không phải là đưa thêm các thông tin, kiến thức làm nặng thêm nội dung mà vẫn đảm bảo được các nội dung và yêu cầu dạy học của môn học. Dựa trên sự tương đồng giữa nội dung bài học Ngữ văn với nhiều vấn đề thực tế phù hợp, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên hiểu biết, kinh nghiệm vốn có của bản thân người học và quá trình đối thoại, tương tác giữa người học với nhau để thực hành, vận dụng linh hoạt vào các tình huống cuộc sống phù hợp với lứa tuổi. 2.3/ Một số nội dung và biện pháp cụ thể: 2.3.1/Lớp 10: *Khi dạy bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ. Giáo viên giáo dục các em tự nhận thức, xác định giá trị chân chính của con người trong cuộc sống và sống -có bản lĩnh, cứng cỏi, dám đương đầu với thử thách mà không sợ “cứng quá thì gãy”. Từ hình tượng nhận vật các em có thể liên tưởng đến nhiều người trong cuộc sống quanh ta qua một vài liên hệ của giáo viên - họ là những người có bản lĩnh, không sợ uy quyền dám đấu tranh cho sự công bằng, tiến bộ của xã. *Bài Tỏ lòng- của Phạm Ngũ Lão. Từ nội dung bài học thể hiện lí tưởng, chí hướng, khát vọng lập công vì đất nước của bậc quân tử xưa, liên hệ mở rộng với thế hệ cha anh thời chống Pháp, chống Mĩ, từ đó liện hệ với bản thân để xác định con đường lập thân, lập nghiệp của mình. *Đoạn trích Nỗi thương mình của Nguyễn Du. Từ nỗi đau đớn, giày vò giằng xé của nàng Kiều trong cảnh lầu xanh. Giáo viên liên hệ mở rộng với số phận nhiều phự nữ khác trong xã hội thời đó, đến thời nay để các em nhận ra và bày tỏ thái độ đồng cảm chia sẻ với những người phụ nữ không may bị sa chân vào chốn lầu xanh.Cũng từ đó nhận định về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, đồng thời có cái nhìn đúng đắn về số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Nhà thơ Tố Hữu đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với những phụ nữ bất đó, ông viết : 6 “Răng không cô gái trên sông Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài Thơm như hương nhụy hoa nhài Sạch như nước suối ban mai giữa rừng” 2.3.2/Lớp 11: *Khi dạy bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến. Từ vẻ đẹp của cảnh thu điển hình ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, chúng ta thấy được tình cảm yêu thiên nhiên, đất nước của nhà thơ Nguyễn Khuyến . Giáo viên liên hệ với nhiều nhà thơ khác cũng miêu tả về thiên nhiên miền quê Bắc Bộ với bốn mùa: Xuân Hạ -Thu -Đông (Nguyễn Trãi cảm nhận về mùa hè với âm thanh sôi động , màu sắc đặc trưng ; cũng nói về mùa thu Xuân Diệu có cái nhìn khác: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai rệt lá vàng,... Hay từ chính kinh nghiệm bản thân là người con của vùng Trung du Bắc Trung Bộ, tôi cảm nhận sâu sắc về khí trời mua thu,về sắc thu. Đó là cái gió heo may, là tiếng xào xạc của lá vàng rơi, là cái điệu trầm, điệu tĩnh khiến lòng người nao nao buồn. Ở bài này khi giảng đến từng chi tiết, từng ảnh liên quan đến đời sống tôi có thể kể rất chân thực hoặc trình chiếu những hình ảnh về làng Bắc bộ, về ao thu, ngõ trúc,...cho các em xem, ví dụ như chi câu cá – bởi chính tôi đã từng chốn học rủ bạn đi câu cá ở ao nhà ông ngoại. Nhiều nội dung, chúng ta có thể liên hệ mở rộng, tuy nhiên cần chọn lọc những vấn đề phù hợp với nội dung, mục đích, yêu cầu bài học.Và điều quan trọng là làm cho những học sinh ở miền Đông Nam Bộ có cảm nhận bao quát, chân thực, đọng lại trong các em một bức tranh mùa thu đặc sắc, điển hình; qua đó thấy được tình yêu làng cảnh của nhà thơ đồng thời nhen nhóm ngọn lửa yêu cảnh đẹp quê hương trong mỗi học sinh. * Bài Từ ấy của Tố Hữu. Giáo dục học nhận thức, xác định giá trị bản thân về một cuộc sống có lí tưởng đúng đắn, gắn bó, hòa nhập với mọi người .Vì vậy, trong quá dẫn giảng giáo viên không ngừng gợi mở những khía cạnh, những con người thực, việc thực trong đời sống xung quanh. Bản thân nhà thơ là một minh chứng, từ một thanh niên thuộc giai cấp tiểu tư sản trở thành một Đảng viên ưu tú của ĐCSVN là cả quá trình chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của Tố Hữu. Đây là kết quả không dễ gì đạt được.Trong bài dạy đến chi tiết tác giả đặt cái tôi cá nhân vào cái ta cộng đồng để tạo thành sức mạnh chung của cả dân tộc, giáo viên có thể liên hệ ngay với học sinh trong lớp về ý thức trách nhiệm của bản thân với tập thể lớp, từ đó các em hình dung, liên tưởng đến vấn đề mà Tố Hữu đề cập, rút ra bài học nhận thức cho bản thân. 2.3.3/Lớp 12 * Khi dạy bài Sóng của Xuân Quỳnh. Giáo viên giáo dục các em về tình yêu trong lứa tuổi học đường: Qua hình tượng Sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa Sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, 7 nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, giúp các em nhận thức rằng: Tình yêu là một tình cảm cao đẹp của con người, là một hạnh phúc lớn lao của con người. Ở lứa tuổi các em, phần lớn các em đã biết rung động, biết để ý và nhiều HS đã yêu. Tuy nhiên, các em còn khá non nớt và hiểu về tình yêu còn bồng bột, nông cạn. Vì vậy, khi dạy đến bài này, tâm lí của HS rất hào hứng. Những HS đã yêu hào hứng đón nhận; những HS đang yêu và cả những HS chưa yêu, nhắc đến đề tài Tình yêu, hầu hết HS đều rất thích và chăm chú. Vì thế, GV một mặt phải dạy bài học để HS hiểu thêm về Xuân Quỳnh, hiểu nội dung và nghệ thuật của Sóng. Một mặt phải trang bị thêm kiến thức về tình yêu học đường. Kể cho các em nghe những câu chuyện liên quan đến tình yêu mang tính giáo dục và học tập. Các em rút ra được gì sau những câu chuyện, sau những lời liên hệ bổ ích của GV . Từ đó các em thấy mình giống và khác trong những câu chuyện như thế nào, thấy môn văn gần gũi với các em . * Qua bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm: - Giáo dục tinh thần yêu nước và hiểu thêm về Đất Nước: ĐN không ở đâu xa mà ở trong căn nhà, trong hạt gạo ta ăn hàng ngày, trong môi trường học tập, sinh hoạt… và ở ngay trong mỗi chúng ta, vì vậy, chúng ta hãy bảo vệ và yêu ĐN như yêu cơ thể chúng ta…chúng ta phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ đất nước… - Giáo dục lòng tự hào về nguồn gốc, về dân tộc, về truyền thống tốt đẹp của con người VN. Từ đó giúp HS thêm yêu cội nguồn và đất nước, phải cố gắng học tập... - GV đặt vấn đề : Bản thân em cần có trách nhiệm và nghĩa vụ gì với ĐN ? Cần ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức... như vậy cũng là cống hiến, là góp sức mình cho ĐN thêm giàu mạnh... * Bài đọc thêm Một người Hà Nội của Nguyễn Khải : +Qua việc dạy con của bà Hiền giáo viên có thể cho học sinh nhận xét về cách dạy. +Bà Hiền dạy con từ những cái nhỏ nhất : ngồi ăn, cầm bát, cầm đũa,..giáo viên đặt câu hỏi gợi mở , chốt lại : đây không phải chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà nó là văn hóa sống. +Bà Hiền dạy con phải có lòng tự trọng. Giáo viên gợi mở học sinh nhận thức : con người phải có lòng tự trọng dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Bởi lòng tự trong không cho phép con người ta sống ích kỷ, hèn nhát.Từ đó giáo viên liên hệ thêm một số tấm gương có lòng tự trọng mà các em biết trong cuộc sống. * Bài Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 của Cô – Phi – An – Nan. Giáo dục các em biết thêm về căn bệnh thế kỷ. Qua bài này giúp HS tự nhận thức: Nhận thức được đây là một căn bệnh thế kỷ có tính chất nóng bỏng của toàn cầu. Từ đó, xác định được trách nhiệm của mỗi cá nhân khi tham gia vào cuộc chiến đấu này, có những hành động thiết thực góp phần ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh thế kỷ. Giao tiếp/ trình bày ý tưởng: Thảo luận, trao đổi với bạn bè, thầy cô,...về hiện trạng cuộc chiến đấu phòng chống AIDS hiện nay, tác hại, nguy cơ lây lan của căn bệnh thế kỷ và những giải pháp để góp phần vào cuộc chiến này. 8 Ra quyết định: Xác định những việc cá nhân và xã hội cần làm để góp phần vào cuộc chiến đấu chống lại căn bệnh thế kỷ. *Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Giáo dục các em biết cảm thông và rung động, biết thêm một số vấn đề mà xã hội đang quan tâm… Đây là bài mới đưa vào trong sgk, nội dung tác phẩm rất gần gũi trong cuộc sống. Những cảnh trong tác phẩm này gần như chúng ta đã bắt gặp đâu đó. Qua tác phẩm này, ngoài nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, GV có thể liên hệ thêm đến vấn đề bạo lực gia đình và tình trạng sinh nhiều con, nguyên nhân và hậu quả của chúng. Từ đó, giúp các em hiểu thêm về tác hại của bạo lực gia đình, của vấn đề sinh nhiều con, gia đình lại nghèo, con cái thất học…đặc biệt, lại sống nhờ trên sông nước. Qua bài này, rèn cho HS có kĩ năng thể hiện sự cảm thông: là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, qua đó hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ. Nói tóm lại, qua bài này, GV giáo dục cho HS : Biết và khắc sâu hơn về tấm lòng của người mẹ. Người đàn bà trong tác phẩm nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung: yêu thương con vô bờ bến, hi sinh và chịu đựng tất cả vì con. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể nào quên được câu trả lời của người đàn bà ở Tòa án huyện: “Vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…” và nhiều vấn đề khác. Từ đó, các em hiểu hơn về tác phẩm, hiểu hơn về cuộc đời. Nhân vật người đàn bà và những gì liên quan sẽ khắc sâu trong tâm trí của các em. Giúp các em biết nhìn đa diện hơn về cuộc đời, hiểu thêm nhiều vấn đề trong cuộc đời, biết cảm thông cho nỗi đau người khác. * Bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt ( trích) của Lưu Quang Vũ. Giáo dục về lối sống của con người. - Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh giữa các mặt khác nhau trong một con người, tác giả muốn nhắn gửi: Con người cần chăm sóc nội dung và hình thức, con người nhu cầu và con người thiên chức, cái cao cả và cái tầm thường để thống nhất, hài hoà giữa hồn và xác. - Lời cảnh báo của tác giả: Khi con người phải sống trong dung tục thì sớm hay muộn những phảm chất tốt đẹp cũng sẽ bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá. Vì thế, phải đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhan văn hơn. - Qua đối thoại giữa hồn với Đế Thích: + Cho thấy cái nhìn quan liêu, hời hợt về cuộc sống của con người. + Khẳng định không thể chữa sai bằng cách vá víu, tạm bợ; nếu không sẽ càng trầm trọng (vì nó không đem lại kết quả tốt đẹp mà gây ra tai hoạ cho nhiều người tốt, tạo cơ hội cho những kẻ xấu sách nhiễu, làm vẫn đục cuộc sống). - Đoạn kết: qua lời thoại của Trương Ba và cái Gái: Kết thúc vở kịch, hồn TB chấp nhận cái chết , một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực. -> GV rút ra giá trị tư tưởng: - Phê phán: 9 + Hai quan niệm sống lệch hoặc chỉ chú trọng đến thân xác, ham muốn vật chất, hoặc chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần. + Lối sống giả tạo làm con người có nguy cơ rơi vào con đường tha hoá, đánh mất mình. + Những tiêu cực trong xã hội: lối sống và cái nhìn hời hợt, sửa cái sai này bằng cái sai khác. - Kêu gọi con người hãy sống là chính mình, biết đấu tranh để hoàn thiện nhân cách. → Giá trị nhân văn của tác phẩm. - Nói tóm lại, đây là vở kịch đầy ý nghĩa, từ tác phẩm, GV định hướng cho các em rút ra những bài học bổ ích cho chính mình. Sau đó, khẳng định lại ý nghĩa của văn bản: Một trong những điều quý giá nhất của mỗi con người là được sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hòa tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn. * Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Trong quá trình dạy học bài này, đặc biệt là phần đọc – hiểu văn bản. GV giúp HS từ việc cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp tự nhiên nên thơ, vẻ đẹp trầm lắng, tích đọng lịch sử - văn hóa bao đời của dòng sông Hương qua ngòi bút tài hoa, tinh tế của Hoàng Phủ Ngọc Tường – người nghệ sĩ nặng lòng với Huế, gợi liên hệ đến tình yêu thiên nhiên, ý thức giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, những giá trị từ môi trường lịch sử - văn hóa. - Cụ thể: Khi tìm hiều : Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế, GV có thể liên hệ và khẳng định: Sự xuất hiện một loạt các địa danh văn hóa vốn gắn liền với xứ Huế thực không vô tình, tác giả muốn nói với bạn đọc: Sông Hương chính là hiện thân, là bộ mặt, là linh hồn của văn hóa Huế. Người Việt nào cũng yêu con sông ngọn suối gắn bó với cuộc đời, với quê hương, với dân tộc mình. Thiên nhiên đã tô điểm cho cuộc sống những màu sắc, hình hài, những giá trị văn hóa lớn lao. - Từ tác phẩm đó, rút ra ý nghĩa của văn bản: Thể hiện những phát hiện , khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương. Giáo viên liên hệ: Tuổi thơ lớn lên, trong cuộc đời mỗi người đều gắn với một con sông. Những con sông đã tô điểm cho cuộc đời và con người, những con sông như chứng nhân của thời gian, của đời người. Vì vậy, hãy yêu và bảo vệ những con sông … Do đặc trưng của môn Văn là tổng hợp nhiều tri thức cả khoa học và đời sống, nó có trong cả ba phân môn của chương trình THPT. Với dung lượng lớn như vậy chúng ta có thể vận dụng liện hệ thực tế bất kì lĩnh vực nào, nhằm giáo dục cho học sinh những nội dung phong phú có ý nghĩa thiết thực trong đời sống và việc hoàn thiện nhân cách của các em. Tuy nhiên cũng cần căn cứ vào điều kiện thời gian, tùy vào hoàn cảnh, đối tượng để giáo viên vận dụng liện hệ thực tế mở rộng vấn đề mang tính giáo dục đạt hiệu quả cao nhất. 10 2.4/ Giáo án minh họa: Đọc văn CÂU CÁ MÙA THU (Thu điếu) - Nguyễn Khuyến – A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT - Cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu điển hình cho mùa thu Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ và vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân. - Tài năng thơ Nôm với bút phát tả cảnh và nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Khuyến. B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG 1. Kiến thức - Vẻ đẻp của bức tranh mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng của tác giả. - Sự tinh tế, tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh và trong cách sử dụng ngôn từ của Nguyễn Khuyến. 2. Kĩ năng - Biết cách đọc- hiểu bài thơ Đường luật - Phân tích, bình giảng thơ. C. NỘI DUNG LÊN LỚP 1. Ổn định, kiểm tra - Ổn định lớp: kiểm tra sĩ số - Kiểm tra bài cũ: Câu 1. Em hãy đọc thuộc bài thơ và em hiểu như thế nào về câu thơ “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”? Câu 2. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương được bày tỏ trong bài thơ Tự tìnhII thế nào? 2. Tiến trình tổ chức dạy học bài mới Hoạt động của Gv và Hs Nội dung * Hoạt động 1: - Tạo tâm thế : giới thiệu bài hay - Tìm hiểu tiểu dẫn Gv gọi học sinh đọc phần tiểu dẫn. Nêu nét cơ bản về tác I. Tiếu dẫn giả? 1. Tác giả Hs: Đọc và suy nghĩ trả lời Nguyễn Khuyến là bậc Gv: Nhận xét, chốt ý túc nho tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm Gv: Em hãy nêu xuất xứ,đề tài và bố cục bài thơ? lòng yêu nước thương Hs: Suy nghĩ trả lời dân nhưng bất lực trước 11 GVBS: -Đóng góp chủ yếu nhất của Nguyễn Khuyến là thơ Nôm viết về làng cảnh Việt Nam. Tuy nhiên trong thơ Nôm của ông đặc biệt nhất là chùm thơ thu. Xuân Diệu nhận xét :“Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm.Mà thơ Nôm của ông nức danh nhất là ba bài thơ thu Thu điếu, Thu vịnh,Thu ẩm ”. thời cuộc; được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. 2. Bài thơ a. Xuất xứ Bài thơ nằm trong - Có hai cách chia: chùm thơ thu (3 bài) của + Chia theo bố cục thơ đường luật gồm 4 phần: đề, thực, Nguyễn Khuyến. luận, kết. b.Đề tài: mùa thu quen + Chia theo nội dung cảm xúc gồm 2 phần: cảnh thu và thuộc tình thu c. Bố cục: đề-thực-luậnỞ bài này chúng ta nên đọc- hiểu theo nội dung cảm xúc . kết.( hoặc 2/4/2) * Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản Gv: Cho học sinh đọc diễn cảm bài thơ - Tìm hiểu hai câu đề :Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo - Sự quan sát của tác giả về cảnh thu như thế nào? - Trong bức tranh thu hoàn hảo ấy, em có thể chỉ ra nét riêng của cảnh thu? - Ấn tượng nhất ở bức tranh thu là gì? GVBS :- Nếu như ở Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa tới gần rồi từ gần đến cao xa thì ở Thu điếu cảnh thu được đón nhận từ gần tới cao xa rồi từ cao xa tới gần. Liên hệ : - Gv trình chiếu cảnh ao cá, ngõ trúc II. Đọc - hiểu văn bản 1.Cảnh thu: * Hai câu đề: Giới thiệu mùa thu với hai hình ảnh vừa đối lập, hài hòa bộc lộ rung cảm tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu. 12 - Kể chuyện câu cá - gắn với tuổi thơ-> hoạt động giải trí bổ ích hiện nay. 13 Gv cho học sinh tìm hiểu hai câu thực: Sóng biếc theo làn hơi gợi tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tác giả tiếp tục miêu tả bức tranh mùa thu với những hình ảnh nào? Hs: Suy nghĩ trả lời *Hai câu thực +Nghệ thuật đối: sóng gợn / lá rơi, xanh / vàng ->màu sắc ,âm thanh đậm nét đường thi => Tiếp tục nét vẽ về mùa thu với hình ảnh sóng biếc gợn thành hình, lá vàng rơi thành tiếng, gợi vẻ tĩnh lặng của mùa thu. Gv cho học sinh tìm hiểu hai câu luận: * Hai câu luận Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt Không gian của bức Ngõ trúc quanh co khách vắng teo tranh thu được mở rộng Không gian bức tranh mùa thu được mở ra theo những cả về chiều cao và chiều chiều nào? sâu với nét đặc trưng của Hs: Suy nghĩ trả lời->Gv chốt ý. cảnh thu đồng bằng Bắc Bộ thanh, cao, trong, nhẹ, Liên hệ: Xuân Diệu cảm nhận : … Đỗ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi động tiếng huyền Tóm lại cảnh thu đẹp => Cách vận dụng các từ đắt, dựng lên một bức tranh nhưng đượm buồn.(mang thu tuyệt đẹp của làng quê Bắc Bộ. Bài thơ không chỉ đặc trưng của vùng quê 14 thể hiện cái hồn của cảnh thu mà còn là cái hồn của cuôc bình lục Hà Nam) sống ở nông thôn xưa, dân dã nhưng vẫn đầy sức sống “Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi” - Xuân Diệu Giáo dục tình yêu thiên nhiên: - Bức tranh thiên nhiên mùa thu Bắc Bộ tuyệt đẹp để lại trong em ấn tượng như thế nào ? - Em có những hiểu biết sâu sắc gì hơn về vẻ đẹp của mùa thu miền Bắc Việt Nam ? 2.Tình thu: Gv : Đằng sau bức tranh thu tuyệt đẹp là tâm tình của con người.Tâm tình đó thể hiện như thế nào ở hai câu cuối bài thơ ? Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo Gv: Từ đâu ởcâu thơ cuối nên hiểu như thế nào? - Đâu có cá (phủ định) (1) - Đâu đó (khẳng định) (2) Cho học sinh chia nhóm thảo luận -> GV hướng dẫn học sinh hiểu cách thứ 2. Gv: Theo em, tác giả nói chuyện câucá nhưng thực chất là để nói điều gì? Học sinh thảo luận trả lời. GVBS:Cõi lòng nhà thơ yên tĩnh trong sự cảm nhận độ trong veo của nước, gợn tí của sóng, rơi khẽ của lá. Đặc biệt: cái tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân gợi lên từ âm thanh tiếng cá đớp mồi. Gv: Em hiểu gì về tình cảm của nhà thơ? Hs: Suy nghĩ trả lời? Giaó dục kĩ năng sống: cho học sinh thảo luận về cách thể hiện cảm xúc của bài thơ, qua đó tìm hiểu vẻ đẹp của mùa thu và tâm sự của Nguyễn Khuyến. ->Từ cách thể hiện cảm xúc cũng như tình cảm của nhà thơ , em có liên hệ gì với bản thân (đối với thiên nhiên, quê hương, đất nước mình) ? * Hai câu kết Hình ảnh của ông câu cá trong không gian thu tĩnh lặng và tâm trạng u buồn trước thời thế. 3. Nghệ thuật - Ngôn ngữ giản dị, trong sáng Gv: Em hãy nêu những nét chính về nghệ thuật của bài - Sử dụng tử vận (vần eo) thơ? - Thủ pháp đối lập góp Hs: Suy nghĩ trả lời? phần diễn tả một không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc của cá 15 nhân. - Lấy động nói tĩnh . * Hoạt động 3: Tổng kết GV yêu cầu học sinh đọc phần ghi nhớ SGK. HS đọc ghi nhớ Gv nêu ý nghĩa văn bản * Hoạt động 4: Luyện tập Gv gợi ý cho học sinh làm bài tập? Học sinh lên bảng làm luyện tập. 1. Phân tích cái hay của nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong bài thơ. 2. So sánh ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến để thấy được nét độc đáo của từng bài thơ. III. Tổng kết - Ghi nhớ SGK - Ý nghĩa văn bản Vẻ đẹp của bức tranh mùa thu, tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng thời thế của tác giả. IV. Luyện tập SGK D. HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP Ở NHÀ 1. Hướng dẫn học bài - Học thuộc lòng bài thơ. - Theo Xuân Diệu, trong ba bài thơ thu chữ Nôm của Nguyễn Khuyến, Thu điếu (điển hình hơn cả). Anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến của nhà thơ./. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI: Trong quá trình vận dụng sự liên hệ mang tính giáo dục cho các em như : giáo dục môi trường, giáo dục tình yêu thiên nhiên, giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khát vọng lập công vì nước, ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng, tính cương trực, thật thà, dũng cảm hành động vì nghĩa, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cung cấp thêm những kiến thức về văn hóa các vùng miền có liên quan đến trong bài học. Đặc biệt, lồng ghép giáo dục tình yêu trong sáng ( một đề tài mà độ tuổi các em rất quan tâm ), nói thêm về bạo hành gia đình nói riêng và bạo lực nói chung để các em hiểu thêm về những vấn đề trong cuộc sống. Trang bị thêm cho các em về vấn đề gia đình như: sinh nhiều con, nạn thất học, cuộc sống khó khăn, túng thiếu về vật chất…sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống…Đây là những kiến thức hình thành kĩ năng sống bổ ích cho các em làm hành trang vững chắc để bước vào đời. Qua quá trình giảng dạy tôi thấy việc liện hệ thực tế có tính giáo dục đạt được kết quả cao: học sinh hứng thú hơn với môn Văn, thích học và lắng nghe hơn, hiệu quả thể hiện rõ rệt qua những bài làm văn, chất lượng môn học được nâng lên đáng kể. IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: - Đề tài là một kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong quá trình dạy môn Văn trong nhà trường, bản thân cũng đã thu nhận được hiệu quả khi việc áp dụng đề tài, nên tôi mạnh dạn đưa ra đây với mong muốn: Tùy vào đối tượng học sinh, tùy theo các 16 giáo viên, chúng ta có thể áp dụng đề tài đưa môn Văn liên hệ thực tế để giúp HS học môn Văn tốt hơn. - Bản thân tôi thấy có hiệu quả đối với việc dạy phân môn Đọc văn, trong năm học tới, tôi sẽ mạnh dạn áp dụng đề tài này ở cả ba phân môn và khối- lớp mà tôi được phụ trách. - Trên đây là kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy, thấy đạt được một số kết quả nhất định và có thể áp dụng trong khi dạy cả ba phân môn. V. KẾT LUẬN Thực hiện đề tài này trong quá trình giảng dạy, tôi đã nhận ra rằng: Môn Văn có liên quan mật thiết đến cuộc sống . Nhà thơ Tố Hữu trong bài Từ ấy đã nêu rõ ý thức cá nhân với cuộc sống : Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình yêu mến, bằng sự giao cảm của trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống … Cùng với mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, văn học chính thức bước vào công cuộc đổi mới ngày càng được triển khai một cách toàn diện, triệt để và hiệu quả đã gần một phần tư thế kỷ. Thời gian như vậy có thể xem là đủ nhằm đạt tới sự bình tâm, tĩnh trí để xem xét lại, xem xét thêm mọi chuyện, mọi điều cho thật thấu tình đạt lý. Hầu như bất cứ ai, dù ở khuynh hướng tư tưởng nào, nếu lương tri còn được thức tỉnh, cũng sẽ dễ đi tới nhất trí với nhau rằng, đã tồn tại những cái bất biến trong dòng chảy liên tục, bất ngờ của đời sống, trong đó có đời sống văn chương . Không thế, mọi chuyện sẽ tự rối tung lên, bất chấp mọi ý định chính đáng nhất cùng mọi ý nguyện tốt đẹp nhất của con người. Một trong những cái bất biến thuộc về nguyên lý đó liên quan tới lĩnh vực quan tâm của chúng ta nằm ngay trong mối quan hệ căn cốt, mối quan hệ máu thịt giữa văn học với đời sống của nhân dân và thời đại mình. Bởi một lẽ thật giản dị: con người và xã hội vốn sinh ra văn học là để thỏa mãn nhu cầu tinh thần giàu có và cao đẹp vô hạn của chính mình, vậy nên, văn học không thể, nếu như không muốn nói là không được phép, ngoảnh mặt lại với con người và xã hội . Vấn đề duy nhất đặt ra chỉ còn là: cần phải đáp ứng nhu cầu của đời sống bằng chính đặc trưng của văn chương. Không thế, thì ngược lại, chính con người và xã hội sẽ ngoảnh mặt lại với văn học, coi là thứ đồ giả, đồ thừa, không chỉ không cần thiết mà còn tốn tài hao lực, cản trở tới sự phát triển tự nhiên, sống động của đời sống. “Văn học là nhân học” – M.Gorki. Nắm được đặc trưng của môn học giúp người dạy có cái nhìn bao quát, toàn diện, đưa ra những giải pháp phù hợp giúp học sinh lĩnh hội được tốt nhất, hiệu quả tự nhiên những tri thức mà môn Văn cung cấp. Có thể khẳng định rằng: trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Văn .Vì đó là môn học vừa giáo dục hình thành nhân cách vừa vun đắp tâm hồn cho học sinh .Trong thời đại hiện nay ,khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng, môn Văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm 17 giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Chính vì vậy, hãy để những nội dung giáo dục thái độ đạo đức, những thái độ đối với môi trường, những bài học về cuộc sống, những giá trị đạo đức cao đẹp của Bác Hồ tự nhiên đi vào lòng các em , tự nhiên biến thành hành vi đạo đức tích cực của các em một cách nhẹ nhàng , khéo léo và tinh tế. Trên đây là một vài vấn đề xung quanh việc liên hệ thực tế có ý nghĩa giáo dục trong giờ dạy Đọc văn . Bài viết chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhân được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp ! VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12 tập 1 – Nhà xuất bản giáo dục. 2. Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11, 12 tập 2 – Nhà xuất bản giáo dục. 3.Tài liệu giáo dục bảo vệ môi trường. 4.Tài liệu Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – Bộ Giáo dục và đào tạo- Hà Nội , tháng 8/2010. 5. Sách chuẩn kiến thức- kĩ năng NXB Giáo dục và đào tạo. Long Thành, ngày 01 tháng 05 năm 2013. Người viết Nguyễn Thị Lê. 18 BM04-NXĐGSKKN SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Long Thành, ngày tháng 05 năm 2013 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học:2012-2013 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: Vấn đề liên hệ thực tế trong giờ dạy Đọc văn ở THPT . Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Lê Chức vụ: Tổ Trưởng tổ Văn Đơn vị: Trường PTTH Nguyễn Đình Chiểu – Long Thành – Đồng Nai Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: ...............................  - Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: ........................................................  Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành  1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có   2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm. XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu) 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan