Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn vài biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh qua môn ngữ văn (thcs)...

Tài liệu Skkn vài biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh qua môn ngữ văn (thcs)

.PDF
15
1558
152

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “VÀI BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA MÔN NGỮ VĂN (THCS)” 2 Sáng kiến kinh nghiệm: VÀI BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA MÔN NGỮ VĂN (THCS) PHẦN I: CƠ SỞ VẤN ĐỀ I1. ĐẶT VẤN ĐỀ “Kỹ năng sống” (được nhắc đến như một thuật ngữ) là cụm từ hay “xuất hiện” những năm gần đây trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, cộng đồng. Kỹ năng sống là gì? Đó “là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người” (Bách khoa toàn thư mở Wkipedia). Theo Tổ chức y tế Thế giới WHO định nghĩa, kỹ năng sống là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Theo các định nghĩa trên và với mục tiêu giáo dục là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người…thì các nhà trường phổ thông hoàn toàn có thể và cần thiết, thậm chí cấp bách để đưa giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện một cách hợp lý, nhẹ nhàng và hài hòa hơn. Tuy vậy, vấn đề trên không phải lúc nào cũng được chú trọng thường xuyên, kỹ lưỡng và hiệu quả thiết thực, rõ nét. Nói cách khác, nhà trường phần lớn chỉ thiên về kỹ năng học tập và giáo dục tư tưởng đạo đức, đơn thuần là “dạy chữ”, “dạy văn hóa” chứ chưa đi sâu vào “dạy kỹ năng sống” theo đúng nghĩa của nó dù là qua các môn học được lồng ghép. Chính vì thế, theo chuyên viên tâm lý Huỳnh văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: “hiện nay, thuật ngữ kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị “lạm dụng” khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu về nó”. Xét thực tế, theo chúng tôi (người viết đề tài này), đã có quá nhiều vụ việc đau lòng, đáng tiếc, bức xúc xảy ra – đối với lứa tuổi học sinh,sinh viên; cũng do một phần các em thiếu kỹ năng sống một cách cần thiết như một “hành trang” cho cuộc sống, không phải lúc nào cũng suông sẻ mà trong đó những nguy cơ, chướng ngại, 3 rắc rối, tình huống… luôn tiềm ẩn để sẳn sàng lấn tới khi con người không biết “ứng phó, thích nghi” và giải quyết chúng. Xuất phát từ vấn đề thiết thực đó, một lần nữa chúng tôi muốn đưa ra “ Một vài biện pháp rèn kỹ năng sống (KNS) cho học sinh qua môn ngữ văn (THCS)” nhằm giúp các em bổ trợ một số kiến thức về kỹ năng sống thông qua môn học và một phần thực tế cuộc sống liên quan đến bài học; qua đó có thể giúp các em có điều kiện ứng phó, thích nghi và tiếp tục tự rèn luyện từ bài học trên lớp, trong sinh hoạt, hoạt động và trong cuộc sống nói chung ở hiện tại và tương lai, điều mà không một ai khó tránh khỏi! Đó cũng là nguyên nhân, lý do chọn đề tài nói trên. I2.CƠ SỞ LÝ LUẬN: Như đã trình bày từ các định nghĩa trên, KNS là các khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực; giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày. Đó là năng lực ứng xử tích cực của mỗi người đối với tự nhiên, xã hội và chính mình; là khả năng tâm lý xã hội của mỗi cá nhân trong hành vi tích cực để xử lý hiệu quả những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống. Nói cách khác KNS là khả năng thực hiện một hành động hay hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành động phối hợp với mục đích và điều kiện thực tế. Cùng với ý nghĩa đó, có và rèn luyện kỹ KNS tức là đã có một “vốn liếng” (theo một nghĩa nào đó) trên bước đường học tập và công việc của đời sống, trước mắt và lâu dài cho một người. Điều đó càng ích lợi và thiết thực hơn đối với lứa tuổi học sinh khi các em còn quá ít ỏi kinh nghiệm sống; đó cũng là mục tiêu giáo dục toàn diện, phù hợp mà theo quan niệm của UNESCO: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống. KNS giúp học sinh thích ứng được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường, những tác động của tự nhiên và xã hội, nhất là xã hội hiện đại, phát triển. Trên cơ sở đó, có thể nói KNS thúc đẩy những hoạt động mang tính xã hội, phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng môi trường trường học thân thiện, học sinh tích cực. Điều đó còn góp phần hiệu quả cho việc đổi mới phương pháp học tập của các em hiện nay. I3.CƠ SỞ THỰC TIỄN: Rõ ràng, KNS cần cho mọi người, mọi lứa tuổi, ngành nghề khác nhau trong đời sống xã hội. Tuy nhiên hơn ai hết, điều đó đặc biệt cần thiết đối với lứa tuổi học sinh (đặc biệt là Tiểu học và THCS); bởi các em còn là lứa tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”, khả năng và điều kiện sống gần như hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ, người lớn và gia đình. Thậm chí có khi cha mẹ, người lớn vẫn không theo kịp 4 những biến động xã hội ngày càng dồn dập và diễn biến phức tạp, khó lường. Thêm nữa, với sự bùng nổ thông tin, các em tiếp cận với đủ thứ loại tác động tốt lẫn xấu; có khi các em phải rời bỏ gia đình để bươn chải kiếm sống, phải làm cả trách nhiệm của người lớn. Lúc đó có nhiều việc các em phải một mình quyết định nên không thể biết được thế nào là điều hay lẽ phải…Lúc đó, các em sẽ cần đến KNS nhiều hơn để có thể có khả năng hành động đúng theo nhận thức. Chính lẽ đó nhà trường sẽ là nơi dẫn dắt, định hướng, tạo điều kiện giúp đỡ các em “tham gia cuộc sống” một cách tích cực để giải quyết những nhu cầu và thách thức của đời sống xã hội, nhất là xã hội hiện đại, phát triển. Vấn đề giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh không phải là điều hoàn toàn mới lạ. Song, có lẽ do “sức ép” thực tế quá lớn của chương trình, điểm số, thi cử, thành tích, lối học “hàn lâm”…,việc giáo dục KNS không phải không bị xao lãng, hời hợt ở từng lúc, từng nơi. Điều đó làm cho các em vốn không có KNS lại càng hạn chế, bất lợi hơn và thuật ngữ KNS đôi khi trở thành…xa lạ với các em. Điều đó cho thấy cách dạy và học theo kiểu cũ (giảng suông, sáo mòn, máy móc, áp đặt, học vẹt) sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với việc giáo dục và rèn luyện KNS, như một rào cản khiến các em càng trở nên thụ động. Với ý nghĩa và quan niệm đó, qua thực tế giảng dạy cũng như việc học tập của học sinh, chúng tôi mong muốn từng bước đưa việc giáo dục KNS (bằng cách lồng ghép) vào bộ môn ngữ văn (THCS) theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhiều năm qua. Như đã nói, dù đó không phải là điều hoàn toàn mới lạ, nhưng vấn đề là tiềm năng để thực hiện, nhằm khắc phục những hạn chế đã nêu, phần nào cải thiện được tình hình mà chúng tôi cảm thấy chưa hài lòng với bản thân trong quá trình dạy học bộ môn ngữ văn, nhất là việc giáo dục, rèn luyện KNS cho các em như thực tiễn đã nêu. Cũng nói thêm, với đặc trưng khá “nhạy cảm”, môn ngữ văn có phần thuận lợi hơn trong việc giáo dục, rèn KNS cho học sinh so với các môn học khác. Bởi bản thân môn ngữ văn đã chứa đựng trong đó yếu tố có thể bao hàm KNS. Thậm chí, việc tưởng như đơn giản, chỉ một câu chào hỏi thân thiện, chỉ một lời “cảm ơn, xin lỗi”, một cử chỉ, hành động thích hợp trong tình huống nào đó…đều chứa đựng nội dung ít nhiều từ KNS. Nói cách khác, môn ngữ văn dạy cho các em biết nói “không” với sự “vô cảm”. Đó là tính nhân văn, “dạy người” mà bản thân đặc trưng môn học có được. 5 PHẦN II: NỘI DUNG VẤN ĐỀ. Như đã trình bày,với đặc trưng của một môn học khá nhạy cảm (khoa học xã hội và nhân văn, mang tính thẩm mỹ cao…), ngoài kiến thức cơ bản, môn ngữ văn có điều kiện, “thế mạnh” riêng trong việc bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mỹ và định hướng “thị hiếu lành mạnh, trong sáng” trong tâm hồn và cảm xúc các em để từ đó dần hoàn thiện nhân cách. Tóm lại, với “khả năng đặc biệt” đó, người dạy có thể có điều kiện thuận lợi hơn trong việc giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh như nội dung, mục đích đề tài đã nói trên. Đó là việc làm mà bước đầu chúng tôi đúc kết được (và tiếp tục nghiên cứu, đầu tư, rút kinh nghiệm…) cho những năm học tiếp theo với mong muốn giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh qua môn ngữ văn THCS. Như đã biết, KNS là một chuỗi các hoạt động rộng lớn bao gồm nhiều hoạt động khác nhau và trong các lĩnh vực cũng khác nhau (theo các lứa tuổi, nghề nghiệp,môi trường sống và làm việc...) Ở phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ đề cập, nhấn mạnh đến một vài biện pháp trong việc giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh qua môn ngữ văn; từ đó các em có thể vận dụng thích ứng cho nhiều kỹ năng khác liên quan. 1.Kỹ năng tự nhận thức: Đối với học sinh THCS điều này là cần thiết bởi lứa tuổi các em dù không còn nhỏ nhưng cũng chưa gọi là lớn. Nhận thức ở đây là nhận thức chính mình và nhận thức qua bài học; nhận thức về con người và xã hội. Cần biết mình là ai, đứng ở đâu, đang và sẽ làm gì cho bản thân, gia đình và xã hội…là điều rất quan trọng. Muốn thế trong quá trình giảng dạy, chúng tôi luôn tìm cách khơi gợi, xác định trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với bản thân và đối với mọi người. Từ đó có những hành động thiết thực, hữu ích góp phần vào cuộc sống chung tốt đẹp. Bởi về bản chất thì rèn luyện KNS là quá trình đưa nhận thức (qua kiến thức và thái độ) thành hành động (hành vi tích cực). Kết hợp với bài học và thực tế cuộc sống (qua phương tiện thông tin đại chúng chẳng hạn), giáo viên đưa ra những tấm gương vượt khó học tập, gương cứu người quên mình với một tinh thần nhân ái đáng trân trọng và khâm phục, thậm chí có cả những “tấm gương” xấu, mặt trái xã hội, những nhân vật phản diện trong tác phẩm…để qua đó các em có ý thức tự nhìn và tự đánh giá bản thân mình đã... “sống” đến đâu, tự thấy được những nhược điểm và ưu điểm của mình nhằm tự soi rọi lại mình mà có thái độ và hành động sống tích cực hơn nữa. Đặc biệt những em học sinh cá biệt, yếu kém cũng sẽ dần chuyển biến theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, ít nhất là trong nhận thức con non trẻ của các 6 em. Đó là một trong những cách giáo dục, rèn kỹ năng tự nhận thức cho các em từ thực tế cũng như sự lồng ghép thích hợp mà chúng tôi thường làm. Về các bài học trong chương trình, có thể nói toàn cấp (ngữ văn THCS) đều là những bài khá đặc sắc để nâng cao nhận thức của học sinh. Vì phạm vi có hạn chúng tôi không thể nêu đầy đủ và chi tiết, chỉ xin nhắc đến một vài tác phẩm tiêu biểu để giáo dục nhận thức (GDNT) cho các em: + Ở lớp 9: -Bài “Phong cách Hồ Chí Minh” giáo dục nhận thức vể một con người vĩ đại mà giản dị, gần gũi mà cao sâu, uyên bác… - Bài “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền bảo vệ và phát triển của trẻ em” GDNT về vai trò, giá trị và quyền hạn của trẻ em đối với nhân loại. - Bài “Chuyện người con gái Nam xương; tác phẩm Truyện Kiều” GDNT về số phận con người trong xã hội phong kiến mong manh và oan trái, để từ đó các em liên hệ tới mặt tốt của xã hội đang sống… - Bài “Đồng chí; Bài thơ về tiểu đội xe không kính” GDNT về những người lính với lý tưởng chiến đấu cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc, về tình đồng chí đồng đội keo sơn giúp họ thêm sức mạnh… - Bài “Ánh trăng” GDNT về đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống ân tình thủy chung, không lãng quên quá khứ gian lao mà hào hùng mới có được hôm nay… - Bài “Lặng lẽ Sa Pa” GDNT về lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm đối với công việc và cuộc sống… - Bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” GDNT về vai trò và giá trị quyết định của con người đối với xã hội và đất nước, thấy được điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam để khắc phục mà tiến lên. v.v... Ở nhiều bài học khác và các lớp khác cũng tương tự. Mục đích là để các em tự nâng cao nhận thức qua từng bài học khác nhau (có sự khơi gợi, kích thích, dẫn dắt của giáo viên hoặc qua bài tập…). Qua đó chẳng những kiến thức bài học được khắc sâu hơn mà kỹ năng tự nhận thức của các em luôn được củng cố, nâng cao. Từ đó có thể đề ra phương châm hành động và quan niệm sống tích cực cho mình. 2. Kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ: Đây cũng là một trong những “thế mạnh” khác của môn ngữ văn cần được khai thác, vận dụng. Bởi văn học là nhân học. Tính nhân văn và giáo dục thẩm mỹ đã luôn nằm trong tác phẩm rồi. Trước hết bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước và lòng tự hào dân tộc; nâng cao ý chí tự lập tự cường; thậm chí đến những điều bình thường tưởng như đơn giản nhất như tình bạn, lẽ sống, lòng thương yêu, sự bao dung tha 7 thứ…Tinh thần đó gần như có tất cả ở các bài học trong chương trình ngữ văn THCS. Vấn đề là xây dựng, củng cố và định hướng thị hiếu, năng lực cảm thụ thẩm mỹ của các em qua các bài học. Đây là việc làm khó bởi sự nhạy cảm, tinh tế, rung động qua từng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật và nhiều yếu tố khác không phải dễ dàng khai thác, khám phá hết một lúc mà đòi hỏi thời gian và đặc biệt là khả năng cảm thụ của các em cũng khác nhau. Vì đó là “sợi dây” tình cảm, tâm hồn. Tuy nhiên cũng xin nêu một vài ví dụ: - Ở bài “Bài học đường đời đầu tiên” (lớp 6) khai thác cái đẹp không chỉ có thân hình cường tráng khỏe đẹp của Dế Mèn mà cái đẹp nằm ở bài học hối hận, ăn năn, ray rức. Ở Dế Choắc, dù dưới một thân hình gầy còm ốm yếu nhưng lại ẩn chứa bên trong một lòng vị tha hiếm có, làm Dế Choắc đẹp hơn lên. Lúc đó cái đẹp lại nằm trong bản chất, tâm hồn chứ không chỉ là ngoại hình, thể chất! - Ở bài “Bức tranh của em gái tôi” (lớp 6) cái đẹp trong tâm hồn của nhân vật Kiều Phương (người em) là điều dễ thấy, nhưng cái đẹp bên trong của nhân vật người anh mới là điều đáng nói khi ta (nhân vật này) biết tự nhìn lại mình và nhìn lại người khác lúc mà sự hối hận rưng rức cứ bao quanh, bào mòn nội tâm ta. Nếu không có một tâm hồn đẹp và cảm xúc đẹp, một cách sống và suy nghĩ đẹp thì làm gì có những con người như thế (dù là nhân vật). Văn học đã hướng cho các em một cách sống đẹp!… - Ở bài “Buổi học cuối cùng” (lớp 6), vì tình yêu tiếng mẹ đẻ đã khiến cho cậu bé học trò Phrăng nghịch ngợm rong chơi la cà trở nên “người lớn”, suy nghĩ già dặn và đẹp hơn biết bao. Vì tình yêu tiếng mẹ đẻ mà người thầy Hamen tội nghiệp đã xúc động nghẹn ngào day dứt không nói được nên lời, phải đứng dựa vào tường mới đủ sức viết lên dòng chữ cuối cùng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”! 3. Kỹ năng tư duy sáng tạo: Với kỹ năng này, thường chúng tôi rèn luyện qua phân môn tập làm văn, đặc biệt là văn nghị luận và văn tự sự. Bởi tập làm văn là môn tổng hợp kiến thức, đòi hỏi khả năng tư duy và sáng tạo rất cao. Thông thường các em làm bài theo một “lối mòn” có sẵn (do lười suy nghĩ, thiếu cố gắng,máy móc, rập khuôn, không sáng tạo…) Trong khi đó đã là văn nghị luận thì phải bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, tư tưởng và trình bày những nhận xét, đánh giá của cá nhân trước một vấn đề nào đó, nên thiếu khả năng tư duy, sáng tạo (dù là về bài học trên lớp chứ chưa nói xa hơn) thì khó đạt được yêu cầu của một bài làm trọn vẹn, chặt chẽ. Để rèn luyện và nâng cao kỹ năng này, ngoài phần lý thuyết cơ bản khi dạy và học tập làm văn; chúng tôi thường chú ý những yêu cầu sau đối với học sinh: 8 -Ví dụ đối với “nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống” (lớp 9) học sinh cần nắm: + Những sự việc, hiện tượng nào trong đời sống có thể nghị luận? + Ý kiến, suy nghĩ của em như thế nào về vấn đề đó (đồng ý, tán thành hay không, vì sao?) + Tìm ở ngay địa phương em (thôn xóm, khối phố, xã phường..) những sự việc, hiện tượng đời sống (đáng biểu dương, học tập hoặc đáng chê trách) và viết bài nghị luận về vấn đề đó.v.v… -Đối với nghị luận văn học (tác phẩm truyện, thơ), yêu cầu: +Nêu những điều em tâm đắc hoặc thích thú, xúc động nhất về tác phẩm. +Tác phầm có điều gì gây cho em sự chú ý, ấn tượng? +Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào, có gì đặc biệt về tác giả; điểm thành công của tác phẩm nằm ở đâu?... Đối với các dạng nghị luận khác và tự sự cũng tương tự như thế. Làm thế nào để khơi gợi sự tư duy, sáng tạo của các em càng nhiều càng tốt nhằm tránh sự máy móc, rập khuôn, học vẹt khi làm bài. Qua đó còn rèn kỹ năng nhận thức, khiến các em bày tỏ quan điểm của mình về lẽ sống, tình cảm yêu thương, đồng cảm, chia sẻ, nghĩa tình trong cuộc sống. 4.Kỹ năng giao tiếp: Mục đích của giao tiếp là truyền tải được các thông điệp, những điều mình muốn nói (qua suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận..) đến với người nghe, người tiếp nhận. Nếu không, những ý tưởng ấy sẽ không được phản ánh, thậm chí gây hiểu lầm và tạo ra những rào cản khiến ta không đạt được mục tiêu. Đó cũng là một trong những KNS nói chung. Riêng môn ngữ văn, có thể giúp các em rèn luyện từng bước kỹ năng này, trước hết trong học tập và sau nữa là trong cuộc sống tương lai. Chúng tôi chú ý rèn luyện kỹ năng này cho học sinh bằng những hoạt động sau: +Thuyết trình trước lớp, trường… +Truyền đạt thông tin từ một bài học, sự việc, sự kiện nào đó. +Lắng nghe và thu thập thông tin hoặc nhận xét (ví dụ sau một lần tham quan, dã ngoại, di tích lịch sử, văn hóa nào đó) + Hoạt động nhóm. + Tiết luyện nói. Hoặc rải rác qua các bài học trên lớp mà nội dung có thể lồng ghép kỹ năng này. -Ví dụ qua bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” (lớp 7) có thể cho học sinh trình bày suy nghĩ, ý kiến, nhận xét…của các em về cách ứng xử, giải quyết 9 của người lớn, các bậc cha mẹ?- hoặc có thể hỏi: “Nếu em là nhân vật trong câu chuyện, em sẽ nói với ba mẹ thế nào trong cuộc chia tay đầy nước mắt đó mà lỗi không do ở các em?” -Bài “bức tranh của em gái tôi”(lớp 6):- Em hãy tranh luận và cho biết, người anh cảm thấy mình dằn vặt điều gì nhất khi đứng trước bức tranh em gái vẽ mình rất giống và đẹp? -Bài “Lặng lẽ Sapa”( lớp 9):- Em thích điểm nào nhất trong quan niệm sống của “anh thanh niên” mà em cho là rất đẹp, thử trình bày suy nghĩ trên cùng các bạn? Ngoài ra, các bài học Tiếng Việt (Lớp 9) như “Các phương châm hội thoại”-“Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ý”- “Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự” (TLV) cũng là những văn bản có lợi thế để chúng tôi khai thác việc rèn kỹ năng giao tiếp một cách hiệu quả. Song vì dung lượng của đề tài, không thể đưa hết ví dụ. 5.Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết: Đây là loại kỹ năng cơ bản (không phải loại kỹ năng nâng cao như tư duy, sáng tạo,phản biện, phân tích, tổng hợp…). Kỹ năng này tưởng như đơn giản nhưng thực sự cần thiết cho mọi môn học và cho cả cuộc sống sau này. Một lần nữa môn ngữ văn lại có thế mạnh riêng do đặc trưng môn học. Ví dụ chỉ riêng kỹ năng “đọc” thôi (việc tưởng như đơn giản, dễ dàng) nhưng cũng cần phải rèn luyện lâu dài, bởi không phải học sinh nào cũng đọc tốt. Đọc đúng ngữ điệu, diễn cảm, đọc có cảm xúc, sự say mê…thì tác phẩm sẽ được nâng lên rất nhiều.Để làm được bốn kỹ năng trên, chúng tôi rèn luyện qua các giờ học trên lớp là chủ yếu. Có thể vận dụng thêm trong các tiết ngoài chính khóa để nâng cao kỹ năng này cho các em được thành thục hơn. Ngoài những việc thường làm trong kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của môn ngữ văn qui định trên lớp, có thể nâng cao kỹ năng này qua các hoạt động ngoại khóa, các cuộc thi đố vui, sinh hoạt tập thể, câu lạc bộ văn học,các cuộc thi sáng tác, các tiết tập làm thơ, các lần thuyết trình văn học, hoạt động nhóm (biết lắng nghe và nhận xét, đánh giá)… 6. Kỹ năng tự học: Tự học là một nhu cầu cần thiết và tự giác của con người. Sự tiến bộ và kết quả trong học tập và công việc nói chung, bộ môn văn hóa nói riêng có được là nhờ một phần lớn do công sức, ý thức cao trong việc tự học của người học. Điều đó càng cần hơn đối với học sinh. Do vậy, “tự học” cũng cần có kỹ năng trong chuỗi các KNS. Tự học đối với môn ngữ văn cũng không ngoại lệ như những môn 10 học khác. Vấn đề là biết thúc đẩy và rèn kỹ năng này một cách chủ động, thường xuyên và tích cực thì mới đem lại hiệu quả. Sau đây là một số kỹ năng tự học mà chúng tôi thường rèn cho học sinh trong môn ngữ văn: -Tự vạch kế hoạch: Tức là học tập có hệ thống, có nghiên cứu, sắp xếp điều gì nên làm trước, điều gì làm sau. Khuyên các em đừng ngại tốn thời gian cho việc vạch kế hoạch, bởi bù lại sẽ tiết kiệm được thời gian rất nhiều khi thực hiện nó. - Học vào lúc nào cảm thấy có lợi nhất cho môn học: ví dụ đối với tác phẩm văn học (giảng văn,văn bản) thì hãy học ngay sau khi nghe giảng bài (về nhà). Đối với bài học thuộc lòng hoặc trả lời câu hỏi thì nên học trước khi đến lớp. Sau khi nghe giảng nên chọn lại và tổ chức ghi chép, xem lại các dữ kiện, chuẩn bị câu hỏi cho bài cũ. Trước khi đến lớp (học ở nhà) cũng nên biết tự đặt câu hỏi vì nó giúp ta đào sâu vấn đề.. - Hiểu rõ các ghi chép: Tức là tìm ra những ý quan trọng mà thầy cô đã nhấn mạnh, có thể dùng các kí hiệu riêng cần thiết (trừ trong bài làm) để tiết kiệm thời gian, tập trung cho ý khác. - Học một cách chủ động chứ không thụ động: Có chủ động thì mới sáng suốt và thoải mái để học. Tránh học vẹt mà phải tìm cách suy nghĩ, liên tưởng những điều có liên quan để khắc sâu.. - Luôn học tại bàn: Đây là một thái độ nghiêm túc và tự giác cao. Hơn nữa tốt cho cả hai ưu thế : trí tuệ lẫn thể hình. Càng không được nằm trên giường để học sẽ khiến buồn ngủ và lâu dần tạo thói quen lười biếng. 7. Kỹ năng thực hành, ứng dụng: Thực hành, ứng dụng trong môn ngữ văn chính là qua hệ thống các bài tập, bài làm, bài viết..mà các em thực hiện trong quá trình học tập. Chỉ có chủ động và tích cực thì các em mới có thể làm tốt việc này. Các em có thể hiểu bài, có kiến thức bài học nhưng chưa hẳn sẽ làm bài tập tốt, viết tốt, vận dụng đúng…Để rèn được kỹ năng này, chúng tôi thường thực hiện các dạng sau (từ mức độ thấp đến cao, dễ đến khó hơn và chú ý đến các đối tượng học sinh): -Ví dụ : + Cho vd về các tình huống giao tiếp trong các bài “Các phương châm hội thoại (lớp 9). + Cho vd tình huống về cách sử dụng nghĩa hàm ý (trong bài “nghĩa tường minh và nghĩa hàm ý”) + Các bài tập viết ngắn về lời dẫn trực tiếp và lời dẫn gián tiếp. + Các bài tập luyện nói; thuyết minh; thuyết trình, hùng biện… + Nhấn mạnh các phương thức biểu đạt đan xen trong văn tự sự. 11 + Thi sáng tác thơ, văn… Những hình thức trên được thực hiện lồng ghép, đan xen trong các tiết học,tiết ôn tập hoặc ngoại khóa dưới cờ…Qua đó có điều kiện rèn và nâng cao kỹ năng thực hành, ứng dụng từ lý thuyết các bài học mà các em đã được học. Hơn nữa giúp các em có dịp cọ xát với những tình huống sẽ gặp trong thực tế sau này khi ra đời, dù chỉ là viết một biên bản trong cuộc họp, một báo cáo thông thường khi làm việc. Đó cũng là một trong những đặc trưng mà môn ngữ văn làm được. 8. Kỹ năng giải quyết vấn đề: Đây là kỹ năng cần có trong mọi lĩnh vực đời sống, mọi môn học. Mặc dù cách giải quyết vấn đề trong đời sống và cách GQVĐ trong môn học không phải hoàn toàn trùng khớp nhưng cũng là “một cách thức suy nghĩ nhằm làm rõ và đưa ra giải pháp thực thi…” để giải quyết, đáp ứng một yêu cầu nào đó. Với môn ngữ văn, giải quyết vấn đề không ngoài các tình huống, các vấn đề, các yêu cầu đặt ra từ bài học và theo khả năng ứng xử, quan điểm của mỗi cá nhân. Cũng trong thực tế cuộc sống, khi đứng trước một tình huống nào đó, mỗi người sẽ giải quyết, ứng xử một cách khác nhau tùy theo “kỹ năng” của họ. Học sinh cũng thế, từ cách giải quyết của các nhân vật, tư các tình huống khác nhau các em cũng sẽ tìm và chọn cách giải quyết tối ưu cho mình một khi có…kỹ năng. PHẦN III: KẾT QUẢ Bằng những cách làm khác nhau (qua dạy và học bộ môn ngữ văn và qua các hoạt động đan xen…) nhằm giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh, chúng tôi nhận thấy một số kết quả như sau: - Các em nhận biết được một số KNS mà qua môn ngữ văn và một số hoạt động đã chuyển tải. không còn rụt rè, thụ động mà tỏ ra tích cực, linh hoạt, sôi nổi hơn trong học tập và sinh hoạt. - Hạn chế được những em có cuộc sống “khép kín” (do nhiều nguyên nhân) hoặc quá say mê “thế giới ảo” của Internet, game…mà quên đi những hoạt động chung quanh của bạn bè, của cộng đồng và xã hội. Qua đó còn hạn chế được những tác nhân tiêu cực, xây dựng môi trường trường học thân thiện, học sinh tích cực. - Giúp các em thích ứng được với cuộc sống mà đôi khi những biến động, bất trắc khôn lường có thể xảy ra, dù là tự nhiên hay xã hội, nhất là xã hội ngày càng hiện đại, phát triển. - Góp phần tích cực cho việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh, tăng năng lực thích nghi và điều khiển chính cuộc sống của mình. 12 THỐNG KÊ KẾT QUẢ CỤ THỂ (nhóm thực nghiệm) TS HS 80 Giỏi Khá T Bình > T Bình Yếu Kém SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 21 2.6.3 24 30 27 33.7 72 90 8 10 (Nhóm đối chứng) TS Giỏi Khá T Bình > T Bình Yếu Kém HS SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 80 11 13.8 7 8.7 20 25 38 47.5 30 37.5 12 15 PHẦN IV: KẾT LUẬN Kỹ năng sống là một hoạt động, nhu cầu cần thiết, bổ ích…đối với mọi người. Trong đó học sinh cũng không ngoại lệ, ngược lại, cần tăng cường và thường xuyên rèn luyện KNS nhiều hơn bởi đó là lứa tuổi “giao thoa” giữa cái tốt và xấu, đúng và sai,tiêu cực và tích cực, giữa thích nghi, năng động và khép kín. Giáo dục và rèn luyện KNS là một quá trình đòi hỏi con người phải biết đối diện với rất nhiều tình huống khác nhau và phải thích nghi, lựa chọn, quyết định và tìm cách giải quyết chúng một cách tối ưu nhất để tồn tại, phát triển và thành công. KNS bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không phải chỉ để sống mà là “công cụ” rất hữu hiệu để đạt đến thành công, hạnh phúc trong cuộc sống nói chung. Nếu không được sớm giáo dục và rèn luyện học sinh KNS thì các em sẽ “chơ vơ, lạc lõng” và thụ động trong bất kỳ một công việc, tình huống nào dù nhỏ nhất sau này. Với ý nghĩa tích cực, thiết thực và khoa học trên, KNS rất cần và “xứng đáng” kịp thời đưa vào chương trình trường phổ thông như nhiều môn học hỗ trợ khác. Tuy nhiên thực trạng của việc giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh không phải lúc nào cũng được ưu tiên chú ý, bởi những “áp lực” khác đã và đang lấn áp mà các em phải chuyển tải. Hy vọng bằng một số giải pháp ít ỏi, bước đầu có thể giúp các em có được ít “vốn liếng” để dùng và phát huy KNS của mình 13 trong học tập, cuộc sống đạt kết quả mong muốn hơn, đúng với tính chất, ý nghĩa KNS mà chúng ta kỳ vọng. PHẦN V: ĐỀ NGHỊ. -Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn hoặc trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém, qua đó góp phần tích lũy KNS cho các em. - Đối với nhà trường, Tổ chuyên môn, Đoàn đội, lớp..,cần tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa , các “diễn đàn”, “câu lạc bộ”…để các em có điều kiện rèn KNS qua các hoạt động này (theo các chủ đề…) - Cần thay đổi cách tổ chức, nội dung buổi chào cờ đầu tuần, nhằm tăng cường, chú ý các hoạt động của các em hơn nữa như giao lưu, văn nghệ, trò chơi… - Chú ý xây dựng trường, lớp an toàn – xanh-sạch-đẹp, tạo môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống, qua đó giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở các em. 14 MỤC LỤC PHẦN I: CƠ SỞ VẤN ĐỀ.......................................................................................2 I1. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................... 2 I2.CƠ SỞ LÝ LUẬN:......................................................................................... 3 I3.CƠ SỞ THỰC TIỄN: ..................................................................................... 3 PHẦN II: NỘI DUNG VẤN ĐỀ. ............................................................................5 1.Kỹ năng tự nhận thức: ..................................................................................... 5 2. Kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ:.............................................................................. 6 3. Kỹ năng tư duy sáng tạo: ................................................................................ 7 4.Kỹ năng giao tiếp: ........................................................................................... 8 5.Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết:............................................................................ 9 6. Kỹ năng tự học: .............................................................................................. 9 7. Kỹ năng thực hành, ứng dụng:...................................................................... 10 8. Kỹ năng giải quyết vấn đề:............................................................................ 11 PHẦN III: KẾT QUẢ............................................................................................11 PHẦN IV: KẾT LUẬN..........................................................................................12 PHẦN V: ĐỀ NGHỊ...............................................................................................13 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tên tác giả Tên tài liệu Nhà xuất bản Năm xuất bản Dale Camegie Đắc nhân tâm NXB Trẻ 2012 Dean Cunningham Sống sáng suốt NXB Trẻ 2013 M.T.Lederman NguyễnTuấn Quỳnh 11 bí quyết giao tiếp NXB Lao động- xã hội để thành công 2013 Hãy sống ở thể chủ động 2010 NXB Lao động-xã hội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan