Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn tổ chức viết bài thu hoạch phương pháp giúp học tập tốt bộ môn giáo dục quố...

Tài liệu Skkn tổ chức viết bài thu hoạch phương pháp giúp học tập tốt bộ môn giáo dục quốc phòng – an ninh

.DOC
22
152
76

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị : TRƯỜNG THPT NAM HÀ Mã số : SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TỔ CHỨC VIẾT BÀI THU HOẠCH PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC TẬP TỐT BỘ MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH Người thực hiện: Dương Thanh Bình Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: GDQP-AN  - Lĩnh vực khác:  Có đính kèm:  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh Năm học : 2011- 2012  Hiện vật khác SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. Họ và tên: DƯƠNG THANH BÌNH Ngày tháng năm sinh: 16 / 03 / 1983 Nam, nữ: Nam Địa chỉ: TỔ 5 , KP 3, P.TÂN HIỆP, BH, ĐN Điệnthoại: 0979661143 Fax: E-mail: [email protected] Chức vụ: Giáo viên. Đơn vị công tác: Trường THPT Nam Hà II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO  Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân GDTC  Năm nhận bằng: 2006  Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục thể chất III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC  Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: TDTT, GDQP - AN  Số năm có kinh nghiệm: 4 TỔ CHỨC VIẾT BÀI THU HOẠCH PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TẬP TỐT BỘ MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH ------------------I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Giáo dục quốc phòng cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục quốc phòng toàn dân. Giáo Dục Quốc Phòng là môn học chính khóa nằm trong chương trình giảng dạy của các trường Trung Học Phổ Thông nhằm rèn luyện hình thành nhân cách, góp phần nâng cao ý thức quốc phòng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nhận rõ vị trí, vai trò của nhiệm vụ trên, những năm qua, Ban Giám hiệu nhà trường, Tổ Thể dục và Giáo dục Quốc Phòng – An Ninh luôn quan tâm chỉ đạo và tổ chức, triển khai thực hiện tốt công tác Giáo Dục Quốc Phòng cho học sinh. Ban Giám Hiệu đã chỉ đạo, xây dựng kế hoạch hướng dẫn các giáo viên chọn nhiều hình thức tổ chức giảng dạy, học tập môn học này. Các Giáo viên bộ môn phải thay đổi giáo án cho phù hợp với chương trình của Bộ giáo dục đề ra. Trong những năm gần đây khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, kĩ thuật thông tin hiện đại, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong trường học là vấn đề đang được các cấp lãnh đạo quan tâm và ủng hộ. Hiện nay, số lượng giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào trong phương pháp giảng dạy của mình rất đa dạng, và sinh động, đã gây hứng thú cho học sinh học tập. Riêng với bộ môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh, chương trình môn học rất đa dạng, vừa có lí thuyết vừa có vận động thực tiễn và liên quan đến nhiều lĩnh vực như: - Lĩnh vực Lịch Sử có bài : Việt Nam đánh giặc giữ nước, lịch sử và truyền thống của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam và Công An Nhân Dân Việt Nam . - Lĩnh vực Địa lý có bài : Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia, thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai. - Lĩnh vực Giáo Dục Công Dân có bài : Tác hại của Ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng chống ma túy. - Lĩnh vực Sinh Học có bài : Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường và Băng bó vết thương, kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương. - Lĩnh vực Hướng Nghiệp có bài: Hệ thống nhà trường quân đội, công an và chế độ tuyển sinh vào các trường quân sự, công an giúp các em học sinh định hướng được nghề nghiệp quân sự, công an… Đồng thời Ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập, khắc phục thói quen học tập thụ động, lối truyền thụ kiến thức một chiều phổ biến hiện nay. Do đó, bản thân Tôi cần hiểu mục tiêu bài dạy và trình độ phát triển tâm sinh lý học sinh để có cách tổ chức hợp lí từng hoạt động học tập, luôn tạo ra những tình huống, nêu vấn đề, những yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kể cả việc sử dụng công nghệ thông tin, đưa ra những đề tài nghiên cứu liên quan đến bản thân học sinh, gia đình, nhà trường, xã hội… nhằm mục đích giúp cho học sinh độc lập suy nghĩ, giải quyết và thể hiện bằng hành động của mình, giúp các em yêu thích và học tốt môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh hơn nên Tôi đã “Tổ chức viết bài thu hoạch” trong quá trình giảng dạy của mình. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Thuận lợi:  Tôi được Ban giám hiệu, các thành viên của Tổ chuyên môn luôn khuyến khích động viên việc giảng dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, và hướng cho học sinh giải quyết vấn đề một cách độc lập.  Tôi may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên hết sức nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên trường Quân sự tỉnh Đồng Nai và một số bạn bè đồng nghiệp khác.  Giờ dạy môn giáo dục quốc phòng thực sự mang lại cho tôi sự cảm hứng và muốn tìm tòi, học hỏi nhiều hơn nữa.  Mỗi năm học Tôi luôn lấy bài học để làm câu hỏi đề tài, từ đó hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và đạt được những thành tích đáng kể, số lượng các em tham gia viết có phần phong phú và sinh động hơn. Mục đích của việc tổ chức viết bài thu hoạch là giúp cho các em học sinh tự tìm tòi, học hỏi, khả năng tư duy sáng tạo. Từ câu hỏi, các em học sinh thu thập thông tin, bên cạnh đó các em có kiến thức về tin học, truy cập mạng tìm kiếm tư liệu là một phần quan trọng đem đến thành công của việc tổ chức viết bài thu hoạch. 2. Khó khăn: - Được Sở giáo dục và đào tạo Đồng Nai cho học lớp Bồi dưỡng Giáo viên Giáo dục Quốc phòng – An ninh ngắn hạn (khoá học chỉ sáu tháng), mới chỉ là bước đầu để làm quen, vì vậy tôi cũng phải tự tìm tòi, học hỏi qua tài liệu và qua bạn bè. - Là môn học mới được triển khai trong vài năm học gần đây nên việc học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ những giáo viên đi trước chưa được nhiều, vì vậy, việc tìm kiếm các tư liệu phục vụ cho việc viết bài thu hoạch cũng gặp nhiều khó khăn… - Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu chương trình, nội dung tập luyện nên việc truyền đạt, giảng dạy của tôi cũng gặp khó khăn. Phần lớn các em chưa hứng thú với môn học . Để thay đổi quan điểm, ý thức học tập của các em, nhằm giúp các em đạt kết quả tốt hơn đối với môn học này, tôi đã mạnh dạn cải tiến phương pháp giảng dạy, tổ chức cho các em viết bài thu hoạch. III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận: Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh trong ngành giáo dục đã có những chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp đến việc tổ chức thực hiện ở từng cơ sở, nhà trường, đơn vị. Các cơ quan quản lý giáo dục đã có sự chỉ đạo kiên quyết để thực hiện tốt nhiệm vụ Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh trong toàn ngành. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng ở cấp trung học phổ thông đã bước đầu được hình thành và phát triển. Sở Giáo Dục Và Đào Tạo Đồng Nai đã từng bước thực hiện biên chế giáo viên theo các văn bản quy định hiện hành; việc tổ chức học theo phân phối chương trình, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cho từng học sinh đã được thực hiện ở nhiều trường trong toàn tỉnh. Giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh các trường ngày càng có chất lượng, hiệu quả đã tạo ra môi trường học tập, rèn luyện cho học sinh. Những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục quốc phòng - an ninh; Định hướng đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động tích cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động, đối với giáo viên tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học, khả năng vận dụng và truyền đạt kiến thức một cách linh hoạt và đặc biệt là ứng dụng của công nghệ thông tin. Từ đó giao nhiệm vụ tìm tòi sáng tạo trong thực tiễn, để giảng dạy tốt, giáo viên giáo dục quốc phòng trước hết phải có kiến thức sâu rộng. Cho nên, việc có ý thức tự trau dồi, tích luỹ kiến thức qua việc tự học, tự nghiên cứu, nhằm làm giàu tri thức phục vụ chuyên môn như tìm tòi trong sách vở, báo chí, mạng lưới thông tin báo đài, internet…. Ngoài ra, việc cập nhật thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng, giúp cho giáo viên có nhiều kiến thức mới, phong phú. Mặt khác, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh , công việc giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu khoa học. Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức tới người học. Chính vì thế, tôi mạnh dạn sử dụng phương pháp “Viết bài thu hoạch” để phần nào có thể thay đổi quan điểm, ý thức tích cực của các em đối với môn học GDQP – AN, giúp các em học tập tiến bộ, yêu thích môn học này hơn nữa và hiểu được tầm quan trọng của môn học đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Nội dung và biện pháp thực hiện: Từ nội dung của chương trình, sự liên quan với các môn học khác, từ những câu hỏi của bài học, với việc đảm nhiệm giảng dạy Quốc Phòng & An Ninh ở 2 khối 10 và 11 tôi đã chọn ra những câu hỏi trọng tâm của bài, của khối để làm đề tài hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu viết bài thu hoạch. Khối 10:  Bài Lịch Sử Truyền Thống Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tôi có thể cho hs thực hiện viết bài thu hoạch tìm hiểu “Tìm hiểu quá trình hình thành Quân đội nhân dân Việt Nam”? cảm nhận của em về người chiến sĩ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam? Khối 11:  Bài Bảo Vệ Chủ Quyền Và Lãnh Thổ Biên Giới Quốc Gia tôi có thể cho học sinh viết bài thu hoạch theo câu hỏi: Anh (chị) hiểu thế nào là toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo Việt Nam; quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc tỉnh nào của nước ta? Trách nhiện của bản thân đối với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo của đất nước  Bài Luật Nghĩa Vụ Quân Sự tôi có thể cho hs viết bài thu hoạch tìm hiểu thêm về Luật Nghĩa Vụ Quân Sự “Em hãy nêu những nội dung cơ bản của Luật Nghĩa Vụ Quân Sự? Trách nhiệm của học sinh trong việc chấp hành Luật Nghĩa vụ quân sự nói chung và đăng kí nghĩa vụ quân sự nói riêng”? Và để tổ chức, thực hiện tốt cho học sinh viết viết bài thu hoạch có hiệu quả, chất lượng cần thực hiện theo trình tự: a) Đối với giáo viên: hướng dẫn học sinh phần trình bày, trình tự bố cục nội dung của bài thu hoạch, xây xựng hệ thống câu hỏi, đáp án, tư liệu cho hs tham khảo.Nếu nhà trường có điều kiện thì có thể tổ chức cho các em đi tham quan hoặc hành trình về nguồn các Bảo tàng di tích chiến tranh hay các khu di tích các mạng nổi tiếng như: Địa Đạo Củ Chi, Chiến Khu Đ…qua đó các em cảm nhận về niềm tự hào dân tộc; khâm phục ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất của quân dân Việt Nam trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để giành độc lập dân tộc; sự vượt khó, sáng tạo, dũng cảm trong chiến đấu, không quản ngại gian khổ, hy sinh.  Ví Dụ: cho hs viết bài thu hoạch “Tìm hiểu quá trình hình thành Quân Đội Nhân Dân Việt Nam? cảm nhận của em về người chiến sĩ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam?” Bước 1: Giáo viên hướng dẫn cách trình bày bố cục bài thu hoạch Một số trang minh họa: Trang thứ nhất: Học sinh sẽ thiết kế trang bìa bằng đánh máy vi tính với nội dung sau: Sở Giáo Dục & Đào Tạo Đồng Nai TRƯỜNG THPT NAM HÀ LỚP 10A1 TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM Năm học 2011-2012 Trang thứ hai: Nhóm thực hiện bài thu hoạch: ghi rõ tên nhóm, họ và tên thành viên của nhóm. Ví dụ: Tên thành viên: 1. Nguyễn Hoàng Anh 2. Trần Hương Dung 3. Đỗ Trung Hiếu 4. Nguyễn Đức Huy 5. Hoàng Kim Ngân 6. Nguyễn Duy Khanh 7. Trần Minh Tài 8. Nguyễn Minh Quân 9. Nguyễn Thái Sơn 10.Phan Toàn Thắng 11.Mai Phương Trang 12.Trịnh Anh Tuấn Trang thứ ba: Học sinh sẽ ghi rõ phần mở đầu (phần giới thiệu, lời giới thiệu, lời mở đầu). Ví dụ: Quân đội ta từ nhân dân mà ra, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, giáo dục, rèn luyện. Chặng đường anh hùng trong 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tô thắm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc, làm rạng rỡ thời đại Hồ Chí Minh. Kỷ niệm 67 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 22 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang, những chiến công oanh liệt của Quân đội và nhân dân ta. Qua đó khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí quật cường, ý thức tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các trang tiếp theo: Nội dung của bài thu hoạch ( các em trả lời câu hỏi chính, những dẫn chứng, những bài học kinh nghiệm, những thông tin mới được cập nhật trên mạng những trang web các em có thể cập nhật, lấy thông tin: http://lichsuvietnam.info, http://lichsuvn.info/, http://laws.dongnai.gov.vn/, http://www.haiphong.gov.vn/bchquansu/, http://www.btv.org.vn/, www.qdnd.vn, www.quansuvn.net/, www.cand.com.vn, www.baodongkhoi.com.vn/, , http://www.vietnamnet.vn, http://www.hcm.edu.vn, http://www.vnexpress.net, http://www.xaluan.com,http://vietnam.vnanet.vn, http://doanthanhnien.vn/article/Thoisu/7765/, hoặc các em có thể tham khảo sách báo, tạp chí… sinh động nhưng không đi quá xa nội dung của bài học; phần nội dung bài thu hoạch học sinh viết từ 8 đến 10 trang đánh máy vi tính). Ví dụ: Cuối tháng 10/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc trở về Hà Quảng, Cao Bằng. Sau khi phân tích tình hình cách mạng ở trong nước, Người trực tiếp giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang để hoạt động và lập đội quân giải phóng. Căn cứ chỉ dẫn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Lê Quảng Ba họp bàn thống nhất tổ chức 1 trung đội, gồm 3 tiểu đội, lực lượng chủ yếu lấy từ các đội vũ trang châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Ngân Sơn...và một số đồng chí đã từng học quân sự ở nước ngoài về. Theo Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Tham dự Lễ tuyên thệ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tại khu rừng giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) có 34 chiến sĩ, được chia thành 3 tiểu đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì buổi lễ thành lập và thay mặt Đoàn thể đọc diễn văn tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đội trưởng. Đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách công tác kế hoạch – tình báo. Thực hiện lời dạy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Trong một tháng phải có hoạt động, trận đầu nhất định phải thắng”, ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tiến công đồn Phai Khắt; ngày 26/12/1944 tiến công đồn Nà Ngần. Cả hai trận đánh đầu tiên, Quân đội ta đều giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của địch mở ra truyền thống quyết chiến, quyết thắng, biết đánh, biết thắng kẻ thù xâm lược của Quân đội ta. Tháng 3/1945, Thường vụ Trung ương họp mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân...) thành Việt Nam giải phóng quân; đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc; phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng. Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam giải phóng quân. Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, Đảng ta đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ Quốc quân. Năm 1946, Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, “đội quân đàn anh”, “đội quân khởi điểm của Giải phóng quân”. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước một tình thế rất phức tạp và chồng chất khó khăn. Cùng một lúc chúng ta phải đối phó với cả “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng vào giải giáp phát xít Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Ở miền Nam, thực dân Pháp được quân Anh giúp sức đã trắng trợn gây hấn ở Nam Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta nhất tề đứng dậy hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Với tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, cuộc chiến đấu ở Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã đã tiêu hao, tiêu diệt và giam chân một lực lượng lớn quân địch, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài. Ngày 7/10/1947, Pháp huy động hơn 12.000 quân có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Quân ta đã liên tiếp phản công tiêu diệt địch, làm nên thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc. Đây là thắng lợi quy mô lớn đầu tiên của quân và dân ta, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp. Tháng 6/1950, ta mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từ 1949 - 1952, Quân đội ta đã thành lập được nhiều đại đoàn chủ lực, như: Đại đoàn 304, 308, 316, 325 và Đại đoàn công pháo 351. Tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 -1954. Với 5 đòn tiến công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ động trên các chiến trường Đông Dương và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Na-va, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi. Kế hoạch Na-va bắt đầu bị phá sản. Trước thời cơ thuận lợi, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác đã góp phần giáng đòn quyết định làm thất bại kế hoạch Na-va, đồng thời có ý nghĩa quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, buộc Pháp phải công nhận độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau năm 1954, miền Bắc hừng hực khí thế cách mạng bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất, phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế đã tạo ra những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, là chỗ dựa và hậu phương lớn của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ở miền Nam, Mỹ ra sức xây dựng ngụy quân, chỉ huy chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp đẫm máu những người yêu nước, hô hào “Bắc tiến”, “lấp sông Bến Hải”; mở các chiến dịch lớn đánh vào nhân dân, trả thù những người kháng chiến, thẳng tay thi hành cái gọi là “Quốc sách tố cộng, diệt cộng”, “Luật 10/59”... Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1 năm 1959) xác định con đường, mục tiêu, phương pháp cách mạng ở miền Nam, mối quan hệ giữa 2 chiến lược cách mạng ở 2 miền Nam - Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 28/8/1959 nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17/1/1960, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong trào “Đồng khởi” lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Khu 5. Từ phong trào “Đồng khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Miền Bắc mở đường bộ 559, đường biển 759 chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam được phát động một cách độc đáo, khéo léo, phù hợp với thời cơ lịch sử. Cách mạng miền Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn, chuyển hẳn sang thế tiến công. Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ vội vàng thay đổi, chuyển sang dùng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ đã thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Chúng đưa tiền của, vũ khí và cố vấn vào miền Nam, chỉ huy quân đội ngụy tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân, theo chiến thuật “tát nước bắt cá”. Với kinh nghiệm đấu tranh, quân và dân miền Nam đã sáng tạo ra hình thức tiến công “hai chân (quân sự, chính trị), ba mũi (quân sự, chính trị, binh vận), ba vùng (rừng núi, đồng bằng, thành thị)”, tiến hành thắng lợi một số chiến dịch quy mô nhỏ và vừa (Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài), tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện kỹ thuật của địch, đẩy ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng khủng hoảng triền miên. Từ tháng 11/1963 đến tháng 6/1965, đã xảy ra 14 lần đảo chính và phản đảo chính ở miền Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ miền Nam Việt Nam về báo cáo trước Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ rằng: “Quân lực Việt Nam cộng hòa đã không còn đủ sức chiến đấu, chế độ Sài Gòn đã thất bại”. Trước những thất bại liên tiếp của ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam, nhằm cứu vãn tình thế, Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”. Ngày 5/8/1964, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, đánh ồ ạt các khu vực sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (thành phố Vinh), Lạch Trường (Thanh Hoá), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ, mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Ngày 5/8 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”: sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; sử dụng quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam. Từ giữa 1965 đến 1967, chúng đưa vào miền Nam hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu, đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch “Sấm rền”, đánh phá ác liệt nhằm “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, ngăn chặn chi viện từ miền Bắc và quốc tế vào miền Nam. Quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, đánh trả không quân, hải quân địch, giành những thắng lợi lớn. Trong 4 năm (1964 - 1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy 143 tàu chiến. Hội nghị lần thứ 11(3/1965), lần thứ 12 (12/1965), Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” miền Bắc đã phát động nhiều phong trào thi đua ái quốc, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay búa, tay súng” của công nhân, “Ba quyết tâm” của trí thức tạo nên ý chí mới, sức mạnh mới cổ vũ toàn dân đánh giặc. Trên chiến trường miền Nam, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang quân giải phóng đã tổ chức các đợt tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy. Mở đầu là chiến thắng Núi Thành, Quảng Nam (26/5/1965), tiếp đó là các chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta thực sự là “một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm chấn động dư luận thế giới. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của dân tộc ta đã có điều kiện mở ra mặt trận tiến công mới về ngoại giao “vừa đánh, vừa đàm”. Thất bại trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã nham hiểm thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, dùng người Việt đánh người Việt, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Quân và dân ta đã phối hợp với quân đội và nhân dân Lào, Campuchia, đánh địch trên khắp chiến trường, đập tan quá trình tiến công, phản kích bằng các cuộc hành quân lớn của địch. Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm trọng hơn. Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ hai bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” tại bầu trời Hà Nội bắn rơi hơn 600 máy bay, trong đó có chiếc thứ 4.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắn chìm và bắn cháy gần 100 tàu chiến Mỹ. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc, buộc Mỹ phải ký kết “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” (27/1/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam. Hiệp định Pari được ký kết, nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Chúng tăng cường viện trợ quân sự, điều khiển chính quyền của Nguyễn Văn Thiệu, ra sức củng cố ngụy quân, ngụy quyền, mở các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm vùng giải phóng. Nắm được âm mưu của địch, tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975, Đảng ta đã đánh giá so sánh lực lượng và đề ra quyết tâm giải phóng miền Nam. Để giành thắng lợi quyết định, chúng ta đã tập trung xây dựng các đơn vị chủ lực Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232, đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội ta cả về quy mô tổ chức, trang bị, vũ khí, kỹ thuật, có đủ khả năng mở các chiến dịch với quy mô lớn trên các hướng chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải phóng miền Nam. Với thế và lực mới, quân và dân ta đã chủ động tiến công giải phóng Phước Long (6/1/1975). Ngày 4/3/1975, bí mật, bất ngờ mở Chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 10/3/1975, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó từ ngày 14/3/1975 đến ngày 3/4/1975 quân ta tiến công tiêu diệt nhiều vị trí quan trọng giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Ngày 19/3/1975, quân và dân ta tiến công giải phóng Quảng Trị. Ngày 24/3/1975, giải phóng Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngày 25/3/1975, giải phóng Huế. Ngày 29/3/1975, giải phóng Đà Nẵng. Ngày 1/4/1975, giải phóng Bình Định, Phú Yên. Ngày 3/4/1975, giải phóng Khánh Hoà nối liền vùng giải phóng từ Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ. Trên cơ sở những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên chiến trường, ngày 14/4/1975 Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn - Gia Định và giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, các đơn vị chủ lực của quân đội ta đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc, từ các hướng tiến về giải phóng Sài Gòn. Bằng sức mạnh tiến công mạnh mẽ của 5 cánh quân chủ lực, 17 giờ ngày 26/4/1975, các lực lượng của ta trên tất cả 5 hướng chiến dịch đều nổ súng tiến công. Ngày 29/4/1975, quân và dân ta tiến hành tổng tiến công trên toàn mặt trận. Quân địch hoang mang cao độ, tan rã, rút chạy, đầu hàng từng bộ phận. Tướng, tá ngụy tranh nhau di tản, chỉ huy bị rối loạn. Quần chúng nhân dân ở từng hướng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang nổi dậy giành quyền làm chủ, truy quét tàn quân địch. Ngày 30/4/1975, các binh đoàn chủ lực của quân đội ta đột kích thọc sâu kết hợp với lực lượng bên trong nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch ở nội thành. Binh đoàn hỗn hợp của Quân đoàn 2 chiếm “Dinh Độc Lập” lúc 10 giờ 45 phút, bắt toàn bộ ngụy quyền Trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Vào 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ giải phóng đã tung bay trước tòa nhà chính “Dinh Độc Lập”. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng. Trong hai ngày 30/4 và mùng 1/5/1975, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các Quân khu 8, 9 nắm thời cơ phát động quần chúng nhân dân nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, giải phóng vùng biển, đảo của Tổ quốc. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới do đế quốc Mỹ xây dựng ở miền Nam đã hoàn toàn sụp đổ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân và dân ta toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước sau nhiều năm bị chia cắt nay đã thống nhất. Ước nguyện của Bác Hồ năm 1969: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” đã trở thành hiện thực. Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, Quân đội ta đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị trên mặt trận xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng: bước đầu giữ quân số thích hợp; thi hành Luật nghĩa vụ quân sự kết hợp với nghĩa vụ lao động; triển khai quân đội làm hai nhiệm vụ chiến lược sẵn sàng chiến đấu và xây dựng kinh tế; tăng cường bố trí phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu; nâng cao chất lượng cán bộ, chiến sỹ; xây dựng nền nếp chỉ huy chặt chẽ để nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu; từng bước tự lực sản xuất được một số loại vũ khí cần thiết. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó: Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị đất nước; ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VI) quyết định lấy ngày 22/12 là ngày thành lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, đồng thời là Ngày Hội Quốc phòng toàn dân… Trang tiếp tneo: Ý kiến từng thành viên của Nhóm (trang này tất cả các thành viên của nhóm sẽ nêu lên ý kiến của mình, mỗi ý kiến sẽ mang một thông điệp nhắn gởi những cảm xúc, cảm nhận, đóng góp, chia sẽ…) Ví dụ: cảm nhận của từng thành viên về người chiến sĩ trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Minh Quân Nhân dân ta, khi nói về bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, về những người con em trung hiếu của mình đã khen ngợi bằng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, “Bộ đội của dân”. Hình ảnh đẹp đẽ về “Bộ đội Cụ Hồ”, “Bộ đội của dân” không chỉ khắc sâu trong lòng mọi người qua những tấm gương anh dũng trong chiến đấu giành độc lập, tự do, mà cả trong xây dựng hòa bình, bảo vệ Tổ quốc. Bộ đội ta luôn là lực lượng đi đầu ở những nơi khó khăn gian khổ nhất, ở hải đảo và biên cương xa xôi, luôn sát cánh cùng nhân dân chống chọi với bão lũ và thiên tai, tham gia xóa đói giảm nghèo, xây dựng kinh tế và giữ gìn an ninh trật tự. em ước mơ khi đến tuổi nhập ngũ, em sẽ tham gia nghĩa vụ quân sự để được tham gia bảo vệ tổ quốc và tiếp nối truyền thống anh “Bộ Đội Cụ Hồ” Kim Ngân Từ ngày thành lập đến nay, dù trong gian khổ hy sinh, đầy bom đạn của chiến tranh, hay trong lao động sáng tạo của hòa bình, quân đội ta luôn phấn đấu thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sức mạnh đó được thể hiện cụ thể ở danh hiệu mà đồng bào ở mọi miền đất nước đã tặng cho quân đội ta “Bộ đội Cụ Hồ”. Phương Trang Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước, giữ nước hào hùng của dân tộc ta là lịch sử của một dân tộc luôn phải đánh trả những thế lực ngoại xâm hùng mạnh của các thời đại, lập nên những chiến công bất hủ. Với tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam đặc sắc “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”; “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”; “trăm họ đều là binh”, “toàn dân đánh giặc”. Truyền thống đó được nhân dân ta, quân đội ta kế thừa, nâng cao bội phần trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong 67 năm qua. Trung Hiếu Qua nội dung bài học và tham gia viết bài thu hoạch em đã hiểu biết thêm về lịch sử hình thành và truyền thống của quân đội nhân dân việt nam. Qua đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, em sẽ cố gắng hết sức mình góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc việt Nam xã hội chủ nghĩa Trang tiếp theo: Kết luận chung (ý kiến chung của nhóm) Ví dụ:  KẾT LUẬN CHUNG: Ngay từ những ngày đầu cách mạng, quân đội nhân dân Việt Nam đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, được Nhà nước chăm lo xây dựng, được nhân dân tin yêu đùm bọc, nuôi dưỡng, đã không ngừng trưởng thành, góp phần xứng đáng làm nên những chiến công hiển hách trong lịch sử hào hùng chống xâm lược, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nhân dân đã gọi bộ đội ta bằng cái tên thân yêu: “Bộ đội Cụ Hồ”. Có thể thấy, từ ngày thành lập đến nay, dù trong gian khổ hy sinh, đầy bom đạn của chiến tranh, hay trong lao động sáng tạo của hòa bình, quân đội ta luôn phấn đấu thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sức mạnh đó được thể hiện cụ thể ở danh hiệu mà đồng bào ở mọi miền đất nước đã tặng cho quân đội ta “Bộ đội Cụ Hồ”. “Bộ đội Cụ Hồ” một lòng một dạ phục vụ nhân dân, đi dân nhớ, ở dân thương. “Bộ đội Cụ Hồ” là một hình mẫu rất đẹp về lối sống. Đối với đồng đội, đồng chí thì quý trọng như ruột thịt, hết lòng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. “Bộ đội Cụ Hồ” là tình sâu, nghĩa nặng đối với nhân dân, coi việc giữ gìn tình đoàn kết quân dân như bảo vệ sự sống của mình; là biểu tượng của sức mạnh và niềm tin chiến thắng; là một di sản, một giá trị tinh thần và đạo đức cao quý, một thành tựu tốt đẹp mà lớp lớp các thế hệ cha anh đã dày công vun đắp xây dựng. Kế thừa truyền thống của một dân tộc Việt Nam anh hùng đã bao phen đánh tan các thế lực phong kiến xâm lược, “Bộ đội Cụ Hồ” là một đội quân có tinh thần quyết chiến và quyết thắng. Đúng như lời tiên đoán của Bác Hồ khi chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên của quân đội ta “tuy lúc đầu quy mô nhỏ nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang”, “nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta”. Từ 34 chiến sĩ giải phóng quân, vũ khí trang bị hết sức thô sơ, thiếu thốn nhưng vẫn quyết đánh và đã lập nên những chiến công hết sức quan trọng. Đặc biệt là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu với “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”. Ngay cả trong kháng chiến chống Mỹ, ý chí quyết chiến quyết thắng của quân đội ta là “Dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành kỳ được độc lập”, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phấn đấu hy sinh, nhiệm vụ thiêng liêng của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị quan trọng đó, Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy truyền thống vẻ vang, huy động cao nhất nội lực, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, trong đó coi xây dựng quân đội về chính trị là vấn đề cơ bản nhất, làm cơ sở để xây dựng quân đội về mọi mặt. Đây còn là một yêu cầu cấp bách để xây dựng một sức mạnh chiến đấu trực tiếp của quân đội trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Do đó, các đơn vị lực lượng vũ trang đã quan tâm xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo đảm sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trong thời bình và khi có tình huống xảy ra, nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu cho bộ đội trong điều kiện chiến tranh hiện đại, kỹ thuật cao. Nghiên cứu phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn trong quân sự. Quân đội nhân dân là lực lượng trung kiên của Đảng, một công cụ sắc bén của Nhà nước bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Quân Đội Nhân Dân thực hiện chức năng đó không phải chỉ bằng sức mạnh của lực lượng cầm súng, bằng sức mạnh ở quân sự, mà còn ở sức mạnh chính trị bằng bản lĩnh chính trị vững vàng, ở phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; từ đó làm cơ sở xây dựng sức mạnh về mọi mặt, chiến thắng mọi quân xâm lược và đập tan mọi âm mưu và hành động của kẻ thù. Đối với học sinh: Một lớp chia thành 4 nhóm cụ thể, mỗi nhóm sẽ cử 1 bạn làm trưởng nhóm. Khi một nhóm viết bài thu hoạch: Nhóm trưởng sẽ phân công các thành viên khác trong nhóm thu thập thông tin, các em sử dụng USB để lấy thông tin, hình ảnh từ trên mạng, nếu em nào không có điều kiện thu thập thông tin trên mạng thì lấy thông tin trên sách, báo, tạp chí…trong nhóm chọn ra em nào giỏi vi tính nhất sẽ chịu trách nhiệm thiết kế bài thu hoạch, và mỗi em đều bắt buộc phải nêu ý kiến cá nhân về chuyên đề, trong quá trình lấy thông tin các em sẽ chọn lọc thông tin cho phù hợp với chuyên đề và nhóm trưởng sẽ cùng các thành viên nhóm đưa ra ý kiến cuối cùng để làm Kiểm tra, đánh giá: Giáo viên nhận bài thu hoạch và chấm điểm:  Cách trình bày bài thu hoạch  Nội dung bài thu hoạch.  Kết luận  Ý kiến của từng thành viên nhóm.  Ban biên tập bài thu hoạch (nêu rõ nhiệm vụ của từng thành viên trong nhóm – nếu có).  Giáo viên chấm điểm bài thu hoạch có thể lấy điểm 15 phút  Sau đó, tất cả các bài thu hoạch được thẩm định có thể đưa về phòng thư viện trường, tủ sách phòng đoàn để tất cả các em có thể đến xem và tham khảo… khi cần. IV. KẾT QUẢ Sau thời gian giảng dạy và áp dụng phương pháp viết bài thu hoạch, ngoài các kiến thức SGK mà gv truyền đạt trên lớp thì hs nắm được thêm các kiến thức ngoài chương trình, đồng thời tạo điều kiện cho các em chịu khó tìm tòi, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo. Kiến thức lĩnh hội được hs có thể áp dụng vào trong học tập và trong thực tiễn. Qua đó tạo hứng thú cho hs sinh yêu thích môn học. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Với việc tổ chức viết bài thu hoạch như trên, tôi rút ra được những bài học kinh nghiệm từ phương pháp này: - Giúp học sinh phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “HỌC” là quá trình kiến tạo học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, dạy học sinh cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực (tự học, sáng tạo, hợp tác). - Từ những việc nắm vững công nghệ thông tin, kiến thức, giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm tòi học hỏi và nghiên cứu thêm nội dung của môn học, học sinh sẽ thấm nhuần bài học hơn bởi nguồn thông tin mà học sinh tìm tòi từ các trang web, báo chí và các mạng lưới thông tin khác … góp phần tạo cho nội dung bài học càng phong phú hơn, thực tế hơn và sinh động hơn… từ những bài thu hoạch học sinh tự làm, tự tìm tòi sáng tạo và dưới sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn nhưng không đi quá xa nội dung của bài học… trong các bài thu hoạch mỗi em đều thể hiện, bày tỏ những ưu tư, cảm xúc, và những ý kiến chân thành được rút ra từ việc nhận thức sâu sắc trong quá trình viết bài thu hoạch. Chẳng hạn:  Đối với chuyên đề “Bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ biên giới quốc gia Việt Nam”, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức và trách nhiệm về độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, các em học sinh bày tỏ niềm tin, lòng yêu nước, hiểu sâu sắc hơn biển đảo của Việt Nam, từ đó hình thành nhân cách sống và bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp và càng cảm thấy yêu thương đất nước mình hơn…  Đối với chuyên đề “Tác hại của Ma túy”, tất cả các em học sinh đều nói không với ma túy, các em phải hiểu sâu hơn về tác hại của Ma túy, nguyên nhân dẫn đến ma túy và cách đề phòng việc ma túy xâm hại học đường… qua những hình ảnh sinh động những thước phim quý giá mô tả xoay quanh chuyên đề.  Đối với chuyên đề “Luật nghĩa vụ quân sự”, ngoài kiến thức có được từ bài học các em tìm tòi thêm những ý kiến của các bạn, những thông tin hình ảnh từ tạp chí báo đài, và thông tin trên mạng… từ đó những suy nghĩ về nghĩa vụ quân sự đối với các em sau khi làm chuyên đề, mỗi em đều bày tỏ ý kiến của mình rất chân thành, thể hiện tinh thần xung phong, tự giác, tự nguyện khi đến tuổi nhập ngũ… Từ việc viết bài thu hoạch buộc học sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức. Cải tiến phương pháp học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của thầy thì việc kiểm tra, đánh giá là một công cụ hữu hiệu. Việc kiểm tra, đánh giá đối với học sinh là sự tự kiểm tra và đánh giá của học sinh về quá trình học tập của mình. Có như vậy, chúng ta mới thực sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Ngoài mục đích đánh giá về kiến thức của học sinh, phải đánh giá được kỹ năng của học sinh, từ đó điều chỉnh việc học của học sinh, việc dạy của thầy. VI. KẾT LUẬN: Kết quả các lớp được hướng dẫn viết bài thu hoạch có thái độ học tập tốt hơn, ý thức cao trong học tập, giờ học môn giáo dục Quốc Phòng – An Ninh đối với những lớp viết bài thu hoạch rất sôi nỗi, trao đổi những thông tin mà các em biết, đồng thời những bài thu hoạch khi hoàn tất xong sẽ được thẩm định và đưa vào thư viện trường để làm những bài tham khảo cho các lớp sau học tập và nghiên cứu. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài viết, những vấn đề mà tôi đưa ra mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu, với hy vọng sẽ nhận được những đóng góp thiết thực và quý báu của các nhà quản lý, của đội ngũ những người làm công tác giáo dục quốc phòng, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh ở các trường THPT, thực hiện tốt việc hướng dẫn học sinh ứng dụng công nghệ thông tin viết bài thu hoạch, tiểu luận ... áp dụng cho môn học giáo dục Quốc Phòng – An Ninh. VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn dạy học Giáo Dục Quốc Phòng Trung Học Phổ Thông - Trần Chính, Nguyễn Đình Lưu, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Thanh Nhị, Đồng Xuân Quách, Nguyễn Đăng Thanh, Nguyễn Đình Thứ – Nhà xuất bản Giáo Dục. 2. Sách giáo viên lớp 10, 11, 12 NGƯỜI THỰC HIỆN Dương Thanh Bình
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất