Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn tính liên văn bản trong bồi dưỡng học sinh giỏi văn thpt ...

Tài liệu Skkn tính liên văn bản trong bồi dưỡng học sinh giỏi văn thpt

.DOCX
42
849
99

Mô tả:

Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Mã số: ................................ ********** (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Chuyên đề SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT Chuyên đề: TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT Người thực hiện: NGUYỄN THỊ KIM HUY Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: NGỮ VĂN  (Ghi rõ tên bộ môn)  - Lĩnh vực khác: ....................................................... Người thực hiện: VÕ THỊ LÊ Nghiên cứu: Phương pháp dạy học môn Vật lý (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN NĂM HỌC 2014 – 2015  Phim ảnh  Hiện  Mô hình  Đĩa CD (DVD) vật khác (các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm) Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 0 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Huy 2. Ngày sinh: 23 – 11 – 1975 3. Nam, nữ: 4. Địa chỉ: Tổ 12 , khu phố 2, Phường Trảng Dài , Biên Hòa, Đồng Nai 5. Điện thoại: 0986824994 6. Email : [email protected] 7. Chức vụ: giáo viên 8. Nhiệm vụ được giao: - Giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 12A3, 12A6,11B1. - Chủ nhiệm lớp 12A6 9. Đơn vị : II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Trình độ chuyên môn: CỬ NHÂN NGỮ VĂN Nữ Trường THPT Lê Hồng Phong THẠC SĨ LÍ LUẬN VĂN HỌC - Năm nhận bằng : Cử Nhân 1998, Cao Học năm 2014 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ Văn III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn Ngữ Văn - Số năm kinh nghiệm: 19 năm Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 1 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” MỤC LỤC I. II. III. IV. V. VI. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:..........................................................Trang 03 CƠ SỞ LÝ LUẬN:...................................................................Trang 04 TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIẢI PHÁP:...................................Trang 6 1. Giải pháp 01:........................................................................Trang 06 2. Giải pháp 02:........................................................................Trang 10 3. Giải pháp 03:........................................................................Trang 16 4. Giải pháp 04:……………………………………………. Trang 18 5. Giải pháp 05: ……………………………………………. Trang 22 HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI:...............................................................Trang 38 ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:.......Trang 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO:.....................................................Trang 40 Đề tài: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tính liên văn bản được đưa vào hệ thống phương pháp luận nghiên cứu văn học thế giới từ nửa đầu thế kỉ XX, nhưng với Việt Nam cho đến nay thì vẫn còn mới mẻ. Thực ra thì đã có áp dụng xuyên suốt trong lịch sử nghiên cứu văn học nhưng còn tồn tại dưới hình thức tản mác, vô danh. Đặc biệt trong phương pháp Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 2 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” giảng dạy Ngữ Văn bậc THPT và cụ thể hơn là trong công tác dạy bồi dưỡng học sinh giỏi rất cần thiết con đường được soi chiếu từ hệ thống phương pháp luận trong tính liên văn bản. Chúng ta đang sống trong một “thế giới phẳng”, ai cũng có điều kiện để vươn đến với những điều kì diệu trong nền văn minh nhân loại. Trong thế giới đó, khi đọc một cuốn tiểu thuyết hay một bài thơ nổi tiếng, chiêm ngưỡng một bức tranh hay một tượng điêu khắc tuyệt tác, xem một bộ phim hay lắng nghe một bản giao hưởng, xem một vở kịch lừng danh…chắc hẳn sẽ luôn có một trường liên tưởng về những bối cảnh mà nó được ra đời. Đó là nền tảng căn bản giúp cho người đọc liên tưởng, so sánh, đối chứng và phản biện. nhờ đó mà ý nghĩa văn bản cứ triển hạn mãi đến vô cùng. Hành động đọc đó gọi là phương pháp liên văn bản. Xuất phát từ tình hình thực tế của ngành giáo dục nước ta trong những năm gần đây là đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức ra đề thi môn Ngữ Văn, đặc biệt ở đề thi học sinh giỏi xưa nay đều đề cao tính tư duy sáng tạo, khả năng hệ thống, đánh giá khái quát, so sánh, đối chiếu, liên hệ để làm rõ một vấn đề Văn học. Vậy nên, việc đưa lý thuyết liên văn bản vào trong phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi là một cần thiết. Hệ thống phương pháp luận này giúp học sinh nâng cao khả năng cảm thụ văn học và cảm thụ văn học từ nhiều góc nhìn khác nhau. Để học sinh có cách tư duy theo chiều sâu dựa trên vốn kiến thức đã của mình. Sự kết hợp các phương pháp trong thuyết liên văn bản cũng mang đến cho những buổi dạy bồi dưỡng học sinh giỏi trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ, thoải mái. Giáo viên kết hợp thi – ca - nhạc – họa – điện ảnh để dẫn dắt học sinh cảm thụ một vấn đề văn học. Vì thế học sinh dễ tiếp thu bài hơn, có cảm hứng sáng tạo nghệ thuật hơn. Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 3 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: 1. Trình bày tóm tắt các quan điểm: Liên văn bản (intertextuality) là một trong những thuật ngữ được sử dụng nhiều nhất nhưng đồng thời cũng khó xác định nhất trong lý thuyết văn học nửa sau thế kỉ XX. Theo nghĩa rộng, khái niệm này có thể được xác định như là “sự tương tác giữa các văn bản”. Nhưng tùy thuộc vào các lập trường triết học và nghiên cứu của các nhà khoa học mà nội dung cụ thể của nó có thể biến đổi. Từ giữa thập niên 1960, khái niệm về tính liên văn bản mới bắt đầu xuất hiện trong lĩnh vực ngôn ngữ học, được xem như vụ nổ khai thiên (Big Bang). Nó làm phá vỡ khái niệm văn bản truyền thống và làm cho hai khái niệm văn bản và liên văn bản trở nên đồng nghĩa. Hơn nữa, nó còn tạo nên phản ứng dây chuyền: sự ra đời của khái niệm liên văn bản và cách hiểu mới về văn bản làm thay đổi hẳn trọng tâm của phê bình và nghiên cứu văn học: trước, trọng tâm nằm trong quan hệ giữa tác phẩm văn học và hiện thực; sau, giữa tác phẩm này với tác phẩm khác. Nó cũng làm thay đổi mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và độc giả; giữa văn học và các yếu tố phi văn học; giữa tính sáng tạo và sự mô phỏng; giữa truyền thống và cách tân… Nhà lý thuyết tân hậu hiện đại Marxist đã biện luận: “Văn bản đến với chúng ta như những dòng văn học đã được đọc bởi người khác; chúng ta tiếp nhận chúng thông qua những lớp trầm tích của sự diễn dịch trước đấy; hay cứ cho là chúng ta cơ may tiếp xúc với một văn bản hoàn toàn mới đi chăng nữa, cách đọc của chúng ta vẫn mang tính chất liên văn bản. Vì ngay khi chúng ta đọc chúng, chúng ta phải sử dụng những thói quen và những phương pháp đọc để lại từ di sản của truyền thống thu nhận được qua kiến thức của chúng ta.” [1,259] Theo Barthes, “Mọi văn bản đều là liên văn bản với một văn bản khác… văn học là thế giới của các kí hiệu, văn bản tất yếu luôn mang tính đa nguyên, tức là không giới hạn trong một ý nghĩa nhất định, nó luôn gợi ra những điều vô tận - ngoài văn bản, vừa hiện hữu, vừa vắng mặt, vừa ở ngoài, vừa ở trong văn bản…Bất kì văn bản nào cũng được hiểu như một không gian đa chiều, nơi có rất nhiều văn bản va đập và xáo trộn vào nhau…” [1,389]. Và khi đó người đọc chính là người tái lập mối quan hệ giữa văn bản và liên văn bản. Xưa nay, nói đến bản chất của văn học là nói đến quan hệ giữa vũ trụ và con người. Nói đến chức năng văn học là nói đến quan hệ giữa văn học và đạo đức và chính trị, mà biểu hiện của đạo đức và chính trị lại được tìm thấy trong quan hệ giữa người với người. Chúng ta đã từng quen với những quan niệm từ xưa:“Văn dĩ tải đạo, Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 4 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ minh đạo”…Vậy nên tính liên văn bản rất cần thiết cho việc tìm hiểu và hiểu đúng giá trị của một tác phẩm văn học và người đọc có thể tiếp nhận được những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm qua thế giới ngôn từ. Theo PGS.TS. Hồ Thế Hà, giảng viên trường Đại Học Khoa Học Huế cho rằng: “không có một văn bản nào không phải là một liên văn bản và ngược lại… Tính liên văn bản trở thành yếu tính và điều kiện tồn tại của văn bản, chúng ta sẽ không hiểu bất cứ một văn bản nào nếu trong đó không có yếu tố liên văn bản”[7,116]. Ý kiến trên đã khẳng định tính tất yếu của liên văn bản trong quá trình tìm hiểu bất cứ một tác phẩm văn học nào. Theo TS. Nguyễn Nam trong bài viết được đăng trên tạp chí Văn học số 3 (741) thì: “bất cứ văn bản nào cũng được tạo nên như một bức tranh khảm chứa cả một thiên hà các trích dẫn, bất cứ văn bản nào cũng mang dấu vết của sự hấp thụ và chuyển thể từ các văn bản khác”. [8,53] Những quan niệm trên đều cho thấy tính cần thiết trong việc áp dụng tính liên văn bản vào trong quá trình nghiên cứu văn học. 2. Hạn chế: Ở văn học Việt Nam, không phải chỉ đến văn học đương đại người ta mới đặt ra vấn đề liên văn bản. Thực chất, liên văn bản đã có từ văn học trung đại. Tuy nhiên chỉ tồn tại như việc trích dẫn các uy tín, sử dụng các điển cố, điển tích. Đến văn học hiện đại, dạng thức của liên văn bản chủ yếu được vận dụng như thủ pháp, kĩ thuật viết, và nhiều hơn cả là sự ngưỡng vọng hoặc trích dẫn, giễu nhại. Văn học đương đại Việt Nam đã đem đến một sắc thái mới trong hành trình tiếp cận liên văn bản. Liên văn bản đã được sử dụng một cách có ý thức và mang lại tính tự giác, mang lại diện mạo mới cho văn học. Văn học Việt Nam trở nên gần gũi hơn với văn học thế giới trong cảm quan hậu hiện đại, trong trường nhìn liên văn bản. Tuy nhiên, mặc dù thuyết liên văn bản đã phổ biến ở phương Tây, nhưng Văn học Việt Nam mới bước đầu sử dụng trong chương trình đại học, nâng cao hơn ở chương trình Cao học, trường THPT còn rất hạn chế. Với giới hạn của sáng kiến kinh nghiệm, đề tài này chỉ chia sẻ một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc áp dụng tính liên văn bản vào việc dạy bồi dưỡng học sinh giỏi văn THPT, mà chủ yếu ở lớp 12. Đây chỉ là ý tưởng mang tính chủ quan của cá nhân người Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 5 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” viết, chắc hẳn sẽ có nhiều thiếu sót, rất mong sự góp ý chân thành từ các quý đồng nghiệp để đề tài trở nên thiết thực hơn. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP: III.1. Giải pháp 1: Cảm thụ tác phẩm văn học từ góc nhìn lịch sử văn hóa – xã hội 3.1.1.Khái luận chung: Xưa nay, giới nghiên cứu văn học vẫn thường quan niệm:“Văn Sử - Triết, bất phân”. Tức là ba lĩnh vực này luôn có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Còn nhà văn Tô Hoài thì cho rằng: “Mỗi trang văn soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Thật vậy, văn học và nghệ thuật luôn vận động phát triển không ngừng theo dòng chảy của lịch sử. Ở mỗi thời đại, người đọc sẽ có những con đường riêng để khám phá giá trị của tác phẩm văn học. Trong chương trình Ngữ Văn THPT, trước khi học một giai đoạn văn học mới luôn có một bài học Văn học sử. Đó là bài khái quát về tình hình lịch sử, văn hóa, xã hội của giai đoạn đó. Bởi những tình hình đó luôn tác động và dẫn đến sự thay đổi trong văn học. Mỗi bước ngoặt lịch sử luôn tạo nên một mốc son cho một giai đoạn văn học mới. Vậy nên, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm văn học ở giai đoạn văn học nào rất cần thiết việc đặt tác phẩm đó trở về đúng hoàn cảnh mà nó ra đời để hiểu đúng giá trị của tác phẩm. Văn học thời chiến thì nhiệm vụ hàng đầu phải là tiếng nói ngợi ca về tinh thần cách mạng, khơi dậy tinh thần yêu nước. Văn học phải phục vụ cho cách mạng và tất cả vì nhiệm vụ hàng đầu là đấu tranh bảo vệ đất nước, là khát vọng tự do, hòa bình, là niềm tin chiến thắng…Văn học thời hậu chiến, thì mang âm hưởng từ chiến tranh, vẫn ngợi ca chiến tranh, ngợi ca những tấm gương anh dũng đã hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Nhưng bên cạnh đó vẫn viết về những mất mát, đau thương, những vết thương vẫn còn âm ĩ, những nhọc nhằn của con người khi đối mặt với những khó khăn khi đất nước vừa hòa bình độc lập…Ngôn ngữ văn chương sẽ mang những phép nhiệm màu, xoa dịu những nỗi đau từ chiến tranh và vực con người đứng dậy. Văn học thời bình với cảm hứng thế sự đời tư thì đi sâu vào cuộc sống của con người với những lo toan thường nhật trong xã hội mới với dòng chảy của đa nền văn hóa …Mỗi thời đại sẽ in dấu rõ nét trong những trang văn. Văn chương cũng vì thời đại mà lên tiếng, vì thời đại mà thực hiện “thiên chức” muôn thuở của mình. Cụ thể, trước khi đọc hiểu một văn bản văn học, bao giờ giáo viên cũng hướng dẫn học sinh tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác. Trong đó có Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 6 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” hoàn cảnh rộng (lịch sử, văn hóa, xã hội…) và cả hoàn cảnh hẹp (tác giả, gia đình, sự nghiệp…). Đối với học sinh trên lớp bình thường, giáo viên có thể chỉ cần hướng dẫn học sinh nắm sơ nét về hoàn cảnh sáng tác. Nhưng đối với học sinh giỏi đòi hỏi phải có kiến thức sâu rộng hơn về lịch sử, văn hóa, xã hội có tác động trực tiếp đến sự ra đời của tác phẩm văn học, sự ra đời của một quan điểm nghệ thuật… Hơn nữa, các đề thi học sinh giỏi đều đề cập đến những vấn đề này. 3.1.2.Ví dụ minh họa: Trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, trước khi học Văn học dân gian đã có bài khái quát Văn học dân gian. Trước khi học Văn học trung đại thì có bài khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X – hết thế kỉ XIX. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 11, có bài khái quát Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX – cách mạng tháng tám 1945. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 12, bài đầu tiên là khái quát Văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 – hết thế kỉ XX. Với đối tượng học sinh giỏi, giáo viên bồi dưỡng cần yêu cầu học sinh đọc kĩ những bài khái quát này. Bởi đây là nền tảng kiến thức quan trọng giúp các em có phương pháp cảm thụ tác phẩm văn học từ góc nhìn lịch sử- văn hó - xã hội. Đây cũng là kiến thức quan trọng giúp các em có thể giải quyết những đề thi học sinh giỏi. Đề thi chọn học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm 2010-2011, câu 12 điểm như sau: “…Được giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ của văn học trung đại, mỗi nhà thơ bằng giác quan của chính mình, như lần đầu tiên khám phá ra thế giới: thế giới muôn màu sắc của ngoại cảnh và thế giới phong phú, tinh vi của nội tâm con người.” Hãy giải thích và chứng minh nhận định trên. Vậy để giải quyết đề thi này, đòi hỏi học sinh giỏi phải có kiến thức về văn học trung đại và văn học hiện đại, đặc điểm lịch sử - văn hóa – xã hội của mỗi giai đoạn văn học sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiếng nói của văn học và dẫn đến quan niệm thẩm mĩ của người cầm bút cũng khác nhau. Văn học trung đại là nền văn học ra đời trong xã hội phong kiến, nền văn học chủ yếu của vua, quan, tướng, các tao nhân mặc khách…Nền văn học là tiếng nói mang tính giai cấp, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng, lễ giáo phong kiến. Văn học giai đoạn này vì thế mang tính quy phạm chặt chẽ, mang tính ước lệ tượng trưng…Cuối thế Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 7 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” kỉ XVIII, nhà nước phong kiến suy yếu, nội bộ mâu thuẫn và mất dần vai trò lịch sử. Đến cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, bước sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Tình hình đó dẫn đến văn học hiện đại ảnh hưởng văn hóa phương Tây mà cụ thể là văn hóa Pháp. Phong trào thơ mới ra đời là dấu hiệu rõ nét nhất cho thấy “Giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ..” để tạo nên thế giới muôn màu của văn học hiện đại. Đến với bài thơ Đàn ghita của Lorca của nhà thơ Thanh Thảo, giáo viên phải hướng dẫn học sinh giỏi tìm hiểu kỹ hơn về tình hình lịch sử Tây Ban Nha những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, dưới chế độ phản động cực quyền thân phát xít, với chế độ độc tài của bè lũ Phrăngco. Đó là hoàn cảnh xã hội đã sản sinh ra một người con thiên tài của đất nước Tây Ban Nha – Phê-đê-ri-co Gaxia Lorca với tài năng sáng chói. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã có sức lan tỏa không chỉ Tây Ban Nha, Tây Âu mà cả nền văn minh nhân loại. Đồng thời học sinh cũng phải nắm vững về văn hóa Tây Ban Nha để hiểu đúng ý nghĩa của những hình ảnh thơ tượng trưng siêu thực trong những câu thơ: “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt…chàng ném lá bùa cô gái Di gan vào xoáy nước…”. Tất cả các dữ liệu trên đều được soi sáng từ thuyết liên văn bản, sự nối kết giữa lịch sử - văn hóa – xã hội và văn học. Cảm nhận thơ Tố Hữu không thể không biết gì về lịch sử dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì, chống Pháp và chống Mĩ. Bởi các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc. Đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Học sinh giỏi cần nắm vững kiến thức lịch sử - văn hóa – xã hội tác động đến sự chuyển biến đáng kể trong hồn thơ Tố Hữu từ Từ ấy đến Việt Bắc, Gió lộng… Cụ thể, sự chuyển biến ấy dẫn đến cách cảm thụ đúng những câu thơ của Tố Hữu như: Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi Nhẹ nhàng như con chim cà lơi Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 8 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” Say đồng hương nắng vui ca hát Trên chín tầng cao bát ngát trời… (Nhớ đồng – Tố Hữu) Phải chăng, sự khác nhau trong hai tâm trạng ấy, hai hình ảnh của cái tôi nhân vật trữ tình ấy được phân định rõ ràng bởi mốc thời gian: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Đó là mốc thời gian đánh dấu bước trưởng thành của chàng thanh niên trẻ tuổi khi vừa giác ngộ được lí tưởng cộng sản và đã tìm ra hướng đi đúng cho cuộc đời khi hòa mình cùng vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải đến trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Tôi đã là con của vạn nhà. Là em của vạn kiếp phôi pha. Là anh của vạn đầu em nhỏ. Không áo cơm cù bất, cù bơ…” 3.1.3. Kết luận: Từ các ví dụ trên đã cho chúng ta thấy rằng, tính liên văn bản sẽ giúp người giáo viên có những hướng tiếp cận mới trong văn học mà ban đầu đó là từ góc nhìn lịch sử - văn hóa – xã hội. Chúng ta không thể phân tích một tác phẩm văn học đúng hướng nếu thoát li hoàn toàn với hoàn cảnh mà nó đã ra đời. Tác phẩm văn học có thể được tạo nên từ nhiều nguyên tắc khác nhau ở phạm vi ngữ cảnh rộng lớn, trong đó, lịch sử - văn hóa – xã hội trở thành những nguồn cung cấp chất liệu. Văn học thời kì nào sẽ mãi là tiếng nói xuất phát từ thời đại ấy và bàn đến những vấn đề của con người ở mọi thời. Có như vậy thì tác phẩm văn học mới trở nên bất tử, vượt qua sự rào cản của cả không gian và thời gian để lưu lại mãi trong trái tim bạn đọc. Vậy khi dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, trong các chuyên đề dạy, giáo viên phải có riêng một chuyên đề về văn học sử, một bảng phân chia tác phẩm, tác giả theo giai đoạn để học sinh nắm vững và định hướng Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong Trang: 9 Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” đúng khi phân tích một tác phẩm văn học và vận dụng để giải quyết những đề thi học sinh giỏi. III.2. Giải pháp 2: Cảm thụ tác phẩm văn học từ góc nhìn so sánh 3.2.1. Khái luận chung: Tính liên văn bản cũng đem đến cho việc tìm hiểu tác phẩm văn học từ góc nhìn so sánh. Bởi vì như R. Barthes đã cho rằng: “Mọi văn bản đều là liên văn bản với một văn bản khác, nhưng không nên hiểu theo kiểu là văn bản có một nguồn gốc nào đó, mọi sự tìm kiếm cội nguồn và ảnh hưởng là phù hợp với huyền thoại về quan hệ huyết thống của tác phẩm, văn bản thì được tạo nên từ những trích đoạn vô danh, không nắm bắt được, nhưng thực sự đã từng được đọc…”. Bất kỳ một văn bản nào cũng được hiểu như một không gian đa chiều, nơi có rất nhiều văn bản va đập và xáo trộn vào nhau mà không một cái nào là gốc cả. Chính vì vậy mà khi đọc một văn bản văn học, khi nghiên cứu về một vấn đề văn học nào đó, chúng ta hay có sự liên tưởng đến những tác phẩm khác, tác giả khác, hay cũng có thể tác phẩm đó gợi nhớ về một cuốn phim, một bức họa…Và tất nhiên, trong miền liên tưởng đó sẽ có sự so sánh để tìm ra những nét tương đồng hay khác biệt, để tìm ra sự sáng tạo độc đáo của người đến sau và khẳng định sự đóng góp của họ cho nền văn học dân tộc. Trong một bài văn của học sinh giỏi, rất cần thiết có sự liên hệ mở rộng giữa tác phẩm này với tác phẩm khác, giữa tác giả này với tác giả khác, giữa nhân vật này với nhân vật khác… Có thể mở rộng sự so sánh giữa hai giai đoạn văn học, so sánh để làm rõ sự ảnh hưởng của nền văn học giữa các nước… Có như vậy thì bài viết của học sinh giỏi mới thể hiện được kiến thức sâu rộng của mình và còn tạo nên sự thuyết phục cao đối với người đọc. Đề thi học sinh giỏi đã từ lâu đều có dạng so sánh, có khi ở dạng ẩn, nhưng có khi thao tác so sánh được nêu ra trong đề một cách rõ nét. Trong bốn, năm năm trở lại đây, đề thi tốt nghiệp, đại học cũng xuất hiện nhiều dạng đề so sánh. Và đặc biệt, trong đề thi THPT Quốc Gia năm nay (2015-2016), rất chú trọng về dạng đề so sánh ở câu nghị luận văn học. Điều đó cho ta thấy sự cần thiết của việc áp dụng tính liên văn bản từ góc nhìn so sánh trong giảng dạy Ngữ Văn nói chung, trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng. 3.2.2. Ví dụ minh họa: Đề thi học sinh giỏi tỉnh năm 2008-2009 lớp 12, câu 12 điểm như sau: Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 10 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” “Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”. Ở đề trên yêu cầu so sánh thể hiện rõ nét. Nhưng ở đây, chủ yếu làm rõ “sự gặp gỡ tuyệt đẹp”, nói ít về nét khác nhau. Để giải quyết đề này, ngoài kiến thức lịch sử, văn hóa, xã hội khi ra đời hai tác phẩm; kiến thức cơn bản về hai tác phẩm được yêu cầu, học sinh phải được bồi dưỡng kĩ năng so sánh, tổng hợp cả một chiều dài tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Cùng là những sáng tác ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng hai bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861 - Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (1948 - Quang Dũng) cách nhau gần cả thế kỉ. Nguyễn Đình Chiểu là nhà nho, nhà thơ yêu nước. Sáng tác của ông ngợi ca cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu lúc chúng vừa đặt chân lên đất nước. Câu thơ trong bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu đã cho ta thông điệp này : “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây. Một bàn cờ thế phút sa tay…” . Còn bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) được viết từ tâm hồn của một người lính hào hoa, lãng mạn với hồn thơ phóng khoáng, đậm chất lính. Bài thơ được viết vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi đang tiến gần đến chiến thắng Điện Biên Phủ, khép lại thời kì chống Pháp oanh liệt của dân tộc. Dù cả hai nhà thơ đều khắc họa hình tượng người lính với xuất thân lai lịch khác nhau, nhưng đều đã thành công khi vẽ nên nét đẹp tâm hồn và khí phách Việt Nam, một vẻ đẹp vượt thời gian làm nên tầm vóc một dân tộc. Vẻ đẹp đó gặp nhau ở lí tưởng sống cao đẹp: “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, ““một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất mà tiếng vang như mõ…chẳng qua là dân ấp, dân lân vì mến nghĩa làm dân chiêu mộ…”; ở tấm lòng vì nghĩa lớn; ở tinh thần hiên ngang, kiên cường trên trận tuyến, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, ở vẻ đẹp bi tráng, kiêu hùng vượt lên cả những khó khăn, hiểm nguy luôn đe dọa… Đề thi học sinh giỏi tỉnh năm 2002-2003 lớp 12 chỉ một câu như sau: “Phân tích sự trùng hợp tuyệt đẹp trong cảm hứng về hình tượng đất nước và những sắc thái riêng biệt của mỗi hồn thơ qua hai tác phẩm “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm và “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi.” Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 11 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” Với đề này thì thao tác so sánh đã được nêu ra một cách rõ ràng: “sự trùng hợp tuyệt đẹp” và “ những sắc thái riêng biệt”. Để giải quyết đề này yêu cầu học sinh phải có kiến thức về thơ ca yêu nước thời kì kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954). Bởi cả hai tác giả, tác phẩm được nêu trong đề cùng một thời kì sáng tác. Kiến thức về hai tác giả, hai bài thơ và một số bài thơ khác cùng thời. Quan trọng là học sinh làm rõ được sự giống nhau trong cảm hứng viết về hình tượng Đất Nước và khác nhau của mỗi hồn thơ trong cách cảm nhận về đất nước. Đồng thời phải lí giải một cách thuyết phục. Vậy, ngoài kiến thức căn bản về hai nhà thơ, hai tác phẩm, thời kì văn học, học sinh phải có năng lực tư duy, năng lực tổng hợp kiến thức để so sánh và rút ra những nhận định đúng đắn. Khi dạy bồi dưỡng cho học sinh, giáo viên cần cung cấp các em những kiến thức về các tác phẩm khác trước và sau Hoàng Cầm và Nguyễn Đình Thi cùng viết về đề tài đất nước. Văn học trung đại thì có bài Nam Quốc Sơn Hà (Lí Thường Kiệt), Vận nước ( Nguyễn Trường Tộ), Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi), Văn tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)… Văn học hiện đại thời kì sau thì có Đất nước ( Nguyễn Khoa Điềm), Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? (Chế Lan Viên)… Sau đó đi vào so sánh trọng tâm hai tác phẩm mà đề yêu cầu. Sự trùng hợp ở đây phải chăng là các nhà thơ đều ấp ủ một đề tài rộng lớn, cùng xuất phát từ tình cảm yêu nước, từ tinh thần tự hào, tự cường dân tộc… Nhưng sắc thái riêng biệt của mỗi hồn thơ là hình tượng đất nước hiện lên trong thơ ca xưa vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa thiêng liêng, nhưng xa vời, trừu tượng. Còn trong thơ ca sau này hình tượng đất nước hiện lên thật gần gũi, bình dị. nó như hơi thở hàng ngày mang lại sự sống cho mỗi cuộc đời riêng, nó là “gốc lúa, bờ tre hồn hậu”, là “lúa nếp thơm nồng”, là đàn con thơ kinh hoàng bởi tiếng súng ùa về trong cả những giấc mơ: “Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm. Ú ớ cơn mê. Thon thót giật mình. Bóng giặc giày vò những nét môi xinh”; là người mẹ già quảy gánh hàng rong bước chông chênh trong làn mưa bom lửa đạn của kẻ thù…Chính vì gần gũi như vậy nên khi đất nước rơi vào tay giặc mới đem lại sự cảm nhận về nỗi đau rất cụ thể: “Đứng bên này sông sao nhớ tiếc. Sao xót xa như rụng bàn tay!”; Và niềm vui, niềm tự hào khi được làm chủ đất nước cũng rất cụ thể: Trời xanh đây là của chúng ta Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 12 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa… (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Trong nền văn học Việt Nam, có rất nhiều vấn đề mà khi nghiên cứu chúng ta phải dặt trong mối quan hệ so sánh. Các nhà văn, nhà thơ có tác phẩm viết về cùng đề tài: Các nhà văn hiện thực phê phán viết về hình tượng người nông dân trước cách mạng tháng tám năm 1945: Ngô Tất Tố -Nguyễn Công Hoan – Nam Cao... Các nhà thơ hiện thực trào phúng: Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… Các nhà văn cùng có tác phẩm viết về hình tượng nhân vật nữ thành công: Kim Lân,Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… Các nhà thơ trong phong trào thơ mới: Tản Đà, Xuân Diệu, Huy Cận , Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Chế Lan Viên… Các nhà thơ cách mạng: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi… Nhà văn viết thành công về vẻ đẹp dòng sông quê hương đất nước: Nguyễn Tuân , Hoàng Phủ Ngọc Tường… Ngoài ra, khi dạy học sinh giỏi, giáo viên cần hướng dẫn học sinh so sánh nền văn học giữa các nước có ảnh hưởng, có giao thoa qua lại với nhau. Như khi phân tích bức tranh hiện thực thu nhỏ của xã hội Tây – Tàu nhố nhăng, của lối sống đua đòi đến mức lố lăng, đồi bại trong Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, chúng ta có thể so sánh với Lão Gôrio của nhà văn hiện thực Pháp cùng thời – Honore de Bandac. Cụ thể trong đoạn trích được học ở sách giáo khoa, cảnh đám tang cụ cố Tổ, có thể so sánh với đám tang lão Gorrio. Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 13 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” Giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tìm đọc và trả lời theo bảng gợi ý so sánh như sau: Một số chi tiết để Số đỏ (Vũ Trọng so sánh Phụng) Lão Gorio (H. Bandac) Thời gian 7h sáng 5h chiều Không gian - Thành phố đông đúc, - Ngoại ô Paris huyên náo - Pháp - Việt Nam Người quá cố Cụ cố Tổ Người cha, lão Gôrio Số lượng người Vài ba trăm người, có - Không có người thân, đi đưa cả đại gia đình con chỉ có 6 người không họ cháu. hàng, hai xe treo gia hiệu hai cô con gái nhưng không có người ngồi, chỉ có đám gia nhân theo sau xe. - Không có người thân. Cảnh hạ huyệt - Cậu Tú tân trổ tài đạo diễn cho nhiều người thi nhau chụp ảnh trên những ngôi mộ khác nhau. - Tiếng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” lố bịch của ông cháu rể. -Tờ năm đồng gấp tư Sự xuất hiện của mà Xuân tóc đỏ vội giúi đồng tiền lúc hạ vào tay ông Phán mọc - Đám người nhà đạo và hai gã đào huyệt về ngay sau khi nhận tiền công, chỉ còn một mình chàng sinh viên nghèo Raxtinhac ngồi lại bên ngôi mộ người xấu số. - Giọt nước mắt lặng lẽ rơi của Raxtinhac vì thương cho người cha nghèo bất hạnh, vì hận tình đời đen bạc, vì hận hai cô con gái bất hiếu của lão Gôrio. - 70 quan trả cho nhà thờ để cầu kinh làm phúc. - 20 đồng Raxtinhac vay Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 14 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” huyệt sừng trong khi ông cháu rể này đang ngụy trang bằng tiếng khóc rất to và dáng bộ ngất muốn oặt người đi. -Linh đình, long trọng Hình thức đám như đám hội, đám rước. tang Đám đi chậm chạp qua các phố. -Theo cả lối Tây – Tàu – Ta. Bút pháp Crixtopho trả tiền công cho gã đào huyệt sau khi hất một vài xẻng đất vừa che lấp chiếc áo quan. -Đơn giản, gọn nhẹ, chóng vánh. Trào phúng, phóng đại, Hiện thực kết hợp lãng châm biếm. mạn. Khi lập bảng này giúp học sinh thấy rõ những nét khác nhau, đối lập nhau dù cùng miêu tả về cảnh đám tang. Hai nhà văn của hai đất nước xa xôi, dù cách viết khác nhau, nhưng ngòi bút của họ đều phơi bày hiện thực xã hội đương thời. Cả hai nhà văn đều lên án sự tha hóa của nhân cách con người trước sức mạnh ghê gớm của đồng tiền. Ngoài ra, tương tự như vậy, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tìm đọc và so sánh giữa các nhân vật, tác phẩm, tác giả nổi tiếng như: - Chí Phèo (Chí Phèo, Nam Cao) – AQ (AQ chính truyện – Lỗ Tấn) - So sánh hình tượng nhân vật nữ trong một số truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải . - Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) – Chiến tranh và hòa bình (Lep Tolxtoi) - Xuân Diệu – A.Puskin – Targore… 3.2.3. Kết luận: Áp dụng tính liên văn bản từ góc nhìn so sánh sẽ giúp cho giới nghiên cứu văn học cả một trường liên tưởng vô tận. Để chúng ta thấy rằng, thế giới văn học thật phong phú và đa dạng. Tác phẩm văn học luôn dẫn dắt con người đi đến tìm ra tiếng nói chung. Qua so sánh cùng Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 15 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” với quy luật của sự sàng lọc khắc nghiệt của cuộc sống cũng một lần nữa khẳng định sự bất tử của những tác phẩm thực sự có gía trị. III.3. Giải pháp 3: Cảm thụ tác phẩm văn học từ góc nhìn lí luận văn học 3.3.1. Khái luận chung: Lí luận văn học bao gồm tất cả hệ phương pháp luận để nghiên cứu văn học. trong thế giới mênh mông đó đem đến cho vô số những phương pháp để cảm thụ tác phẩm văn học rất cần thiết cho giáo viên dạy Văn. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ gói gọn trong một số câu lí luận văn học hay để áp dụng vào công tác dạy bồi dưỡng học sinh giỏi Văn THPT. Trong đề thi học sinh giỏi xưa nay luôn có một câu về lí luận văn học chiếm 12/20 điểm. Nhưng trong chương trình học chính của môn Văn hầu như rất ít khi bàn đến vấn đề này. Chắc hẳn rằng học sinh sẽ rất khó khăn để giải quyết những yêu cầu của đề thi có câu lí luận văn học như thế. 3.3.2. Ví dụ minh họa: Đề thi chọn học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm 2011 – 2012, câu nghị luận văn học 12 điểm như sau: Trong tác phẩm Việt Hán văn khảo, Phan Kế Bính (1875-1921) viết: “Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm suốt hết các danh lam thắng cảnh của thiên hạ; xem trên mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay, việc dở của thế gian; sinh ở sau mấy nghìn năm mà tựa hồ như được đối diện và được nghe tiếng bàn bạc của người sinh về trước mấy nghìn năm, cũng là nhờ có văn chương cả.” Hãy cho biết ý kiến của anh chị về nhận định trên. Nếu học sinh giỏi được trang bị cho kiến thức cơ bản từ lí luận văn học thì các em dễ dàng nhận ra vấn đề được Phan Kế Bính nói đến qua câu văn trên. Cụ thể đó là các giá trị của văn học: giá trị nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ. Trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12 tập 2, có bài về lí luận văn học: Giá trị văn học và tiếp nhận văn học. Nhưng chương trình ở tuần 33/35, những tiết gần cuối lớp 12, mà thi học sinh Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 16 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” giỏi tỉnhlớp 12 từ trước đến nay vào nửa tháng 10 hằng năm. Năm học này thi vào đầu tháng 2. Vậy cho nên giáo viên phải tự nghiên cứu tìm ra và yêu cầu học sinh đọc trước rồi giảng học sinh mới hiểu và vận dụng được. Bàn về các giá trị của văn học, ngoài việc lí giải, giáo viên phải minh họa các giá trị bằng những dẫn chứng văn học cụ thể. Những tác phẩm văn học Việt Nam các giai đoạn và cả tác phẩm văn học nước ngoài. Về giá trị nhận thức, văn học chính là một phương tiện có khả năng phá vỡ giới hạn tồn tại trong không gian và thời gian thực tế của mỗi cá nhân Và gần đây nhất, đề thi chọn học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm nay (2014 – 2015), câu nghị luận văn học 12 điểm cũng đã ra dạng đề so sánh ngầm sáng tạo, tuy không phải là thao tác trọng tâm: “Cái kết của một tác phẩm văn học có vị trí quan trọng đối với toàn bộ tác phẩm. Nó thể hiện tập trung thái độ, tư tưởng nghệ thuật và tài năng của người nghệ sĩ. Anh / chị hãy chọn phân tích một vài kết thúc của các tác phẩm đã học để làm sáng tỏ ý kiến trên. Với đề này, giáo viên phải bồi dưỡng cho học sinh kỹ năng phân tích giá trị của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm, đặc biệt là chi tiết cô đọng, mang tính dư ba mà nhà văn đã đầy dụng ý nghệ thuật khi đưa vào cuối tác phẩm. Bởi như nhà văn Nga, Aimatop đã từng cho rằng: “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng sống nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật”. Học sinh phải được trang bị kiến thức vững về những chi tiết kết thúc trong nhiều tác phẩm khác nhau của nhiều tác giả. Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 17 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” 3.3.3. Kết luận: Để tiếp nhận kiến thức lí luận văn học rất khó, bởi các thuật ngữ chuyên sâu vốn khô khan và khó hiểu đối với học sinh. Giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi có thể sưu tầm các câu lí luận văn học hay và phân loại theo từng lĩnh vực: giá trị văn học, thiên chức của nhà văn, tình huống truyện, chi tiết nghệ thuật, hình ảnh nghệ thuật, hình tượng nhân vật, cốt truyện, kết thúc …Đơn vị kiến thức cụ thể và gần gũi học sinh dễ tiếp thu hơn. Khi đã được trang bị những kiến thức lí luận văn học, học sinh sẽ dễ dàng nhận ra vấn đề được đề cập đến trong đề bài. Để từ đó có định hướng đúng để giải quyết vấn đề bằng những câu lí luận hay, minh họa bằng những dẫn chứng văn học cụ thể và lập luận thuyết phục. III.4. Giải pháp 4: Cảm thụ tác phẩm văn học trong mối tương liên giữa thi ca – nhạc – họa – điện ảnh 3.4.1. Khái luận chung: Âm nhạc làm say lòng người trước hết bởi cái đẹp trong giai điệu, tiết tấu. Một công trình kiến trúc, một tượng đài, một bức tranh nào đó quyến rũ người ta chiêm ngưỡng trước hết là bởi cái đẹp của nó. Văn học cũng không nằm ngoài quy luật đó, qua thế giới ngôn từ, qua hình tượng nghệ thuật được chắt lọc, nhà văn đối thoại với người đọc những vấn đề muôn thuở về cuộc sống của con người. Đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật, xét cho cùng đều bắt nguồn từ phương tiện nghệ thuật hay ngôn ngữ nghệ thuật mà nó sở hữu. Vì vậy, trong thế giới nghệ thuật, giữa các hình thức khác nhau như thi ca, nhạc, họa luôn có sự giao thoa với nhau, luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau mà khi nghiên cứu ta cần đặt trong mối quan hệ tương liên. 3.4.2. Ví dụ minh họa: Từ xưa, trong văn học dân gian đã tồn tại hình thức hát dân ca, diễn xướng, hát đối đáp giao duyên, tuồng, chèo…Đó là biểu hiện của mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật. Văn học luôn tái hiện thế giới hiện thực muôn màu của cuộc sống. Vậy nên có những tác phẩm văn học sau khi ra đời sẽ được chuyển thể thành phim, hay có những nhà đạo diễn sẽ mời nhà văn viết kịch bản phim về một đề tài nào đó. Trong văn học hậu hiện đại có sử dụng thủ Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 18 Trang: Sáng Kếến Kinh Nghiệm: “TÍNH LIÊN VĂN BẢN TRONG BỒỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN THPT” pháp dán ghép điện ảnh để đồng hiện quá khứ và hiện tại, nội tâm nhân vật và ngoại cảnh…Điều đó nói lên mối liên hệ chặt chẽ giữa văn học và điện ảnh. Chúng ta thường nghe: “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa), họa bằng ngôn từ, bằng trí tưởng tượng phong phú, đa dạng của người nghệ sĩ. Đọc câu thơ của Trần Đăng Khoa: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng, như là rơi nghiêng Trong tâm trí người đọc sẽ hiện lên hình ảnh chiếc lá đa đang chao liệng trong không gian rồi khẽ khàng chạm trên mặt đất bên thềm nhà. Hay như câu thơ của Bích Khê: Ngô đồng nhất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu Vẽ ra một bức tranh thu miền bắc với sắc vàng của lá cây ngô đồng… Trong đề thi học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm nay (ngày 6 tháng 2 năm 2015) với câu nghị luận xã hội ra một bức ảnh với một đoạn lời chia sẻ của nhiếp ảnh, từ đó yêu cầu học sinh tự rút ra vấn đề xã hội và viết bài văn nghị luận. Đây là một dạng đề mới hoàn toàn. Học sinh phải vận dụng kết hợp những kĩ năng thẩm mĩ từ nhiều lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là cảm thụ một bức họa cùng với vốn sống, kĩ năng phát hiện vấn đề và nghệ thuật lập luận sao cho thuyết phục… SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI KÌ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 12 NĂM HỌC 2014-2015 Giáo viến Thực hiện: NGUYÊỄN THỊ KIM HUY - Trường THPT Lế Hồồng Phong 19 Trang:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan