SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. Thông tin chung về cá nhân
1. Họ và tên: Trần Nguyên Bá
2. Ngày tháng năm sinh: 10/06/1981
3. Nam
X
;Nữ
4. Chức vụ: Giáo viên
5. Đơn vị công tác: Trường THPT Long Phước
II. Trình độ đào tạo
-
Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
-
Năm nhận bằng: 2006
-
Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục thể chất
III.Kinh nghiệm khoa học
-
Lĩnh vực chuyên môn: Môn Thể Dục, Giáo dục quốc phòng
-
Số năm có kinh nghiệm: 13 năm
1
MỤC LỤC
Mục lục
Trang .
I. PHẦN MỞ ĐẦU: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
3
II. PHẦN NỘI DUNG
3
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN
3
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
4
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
12
2
I. PHẦN MỞ ĐẦU: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Giáo dục Quốc phòng, An ninh cho học sinh là một bộ phận quan trọng của
công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giáo dục Quốc phòng,
An ninh là môn học chính khóa nằm trong chương trình giảng dạy của các trường
THPT đã xác định rõ mục tiêu giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an
ninh: “Nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết một số
nội dung cơ bản về quốc phòng, an ninh; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm
của dân tộc, trách nhiệm nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch; có kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh; có kỹ
năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa”.
- Đây là môn học mang tính tổng hợp, tích hợp cao, chứa đựng trong đó cả
các kiến thức xã hội và tự nhiên, kỹ thuật; kết hợp giữa truyền thống kinh nghiệm
đánh giặc giữ nước và các thành tựu của khoa học, kỹ thuật quân sự hiện đại.
- Có các kiến thức lý luận cơ bản và khối lượng các kỹ năng công tác quốc
phòng - an ninh, chiến thuật - kỹ thuật quân sự nhất định.
- Có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn học khác như: toán, lý, hoá, lịch sử,
giáo dục thể chất, giáo dục chính trị…
Trong chương trình của khối 12, bản thân tôi đã giảng dạy nhiều năm có rất
nhiều bài, nội dung khó như bài ‘‘ Một số hiểu biết về nền Quốc Phòng toàn dân,
An Ninh nhân dân” Để giảng dạy bài này đạt hiệu quả cao, muốn truyền đạt đủ
nội dung, kiến thức trong sách giáo khoa cho học sinh hiểu bản thân người giáo
viên phải tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu có liên quan…để lấy ra được ví dụ
minh chứng làm rõ nội dung bản thân cần trình bày kết hợp với giảng dạy theo
phương pháp mới thì học sinh mới nắm được bài sâu sắc hơn.
Qua đó tôi mạnh dạn viết đề tài “Tìm nguồn minh chứng khi giảng dạy
bài: Một số hiểu biết về nền Quốc Phòng toàn dân, An Ninh nhân dân ” trong
chương trình lớp 12 THPT.
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN
1. Thuận lợi :
- Đồng Nai là 1 trong các tỉnh được chọn thí điểm dạy môn Giáo dục quốc
phòng, an ninh và là tỉnh luôn đi đầu trong công tác Giáo dục Quốc phòng, An
ninh cho sinh viên và học sinh trên toàn Quốc.
- Hằng năm bản thân tôi được nhà trường tạo điều kiện cho đi tham gia tập
huấn với các chuyên đề và nội dung khác nhau.
- Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động
viên hết sức nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.
- Công nghệ thông tin phần nào đáp ứng nhu cầu tìm kiếm tư liệu khi cần
thiết cho bài giảng.
3
- Đội ngũ cán bộ giáo viên chuyên trách đã được cử đi đào tạo cấp chứng
chỉ ( 6 tháng ) đầy đủ.
- Giờ dạy môn giáo dục quốc phòng thực sự mang lại cho tôi sự cảm hứng
và muốn tìm tòi, học hỏi nhiều hơn nữa.
2. Khó khăn :
- Việc tìm kiếm các tư liệu phục vụ bài dạy cũng rất khó khăn vì không có
lưu hành trên thị trường.
- Một số học sinh còn coi trọng các môn văn hóa khác, chưa hiểu hết tầm
quan trọng của môn học này.
- Cơ chế thị trường cũng ảnh hưởng không nhỏ đến môn học.
3. Kết quả của thực trạng.
Qua thùc tr¹ng trªn cho thÊy, b¶n chÊt cña vÊn ®Ò chÝnh lµ ë chç, ngêi gi¸o
viªn ph¶i gi¶ng d¹y m«n giáo dục Quốc phòng và An ninh trước hết phải tâm
huyết, say mê, nhiệt tình, cần n¾m v÷ng kiÕn thøc vµ ph¬ng ph¸p. Cã biÖn ph¸p
kh¾c phôc ®Ó gióp c«ng viÖc d¹y - häc ®¹t kÕt qu¶ cao. Vµ t«i thÊy đề nµy, đã
tạo nên niềm hứng khởi khi tiếp thu bài giảng rÊt cã hiÖu qu¶ mét c¸ch bÊt ngê,
tõ ®ã thóc ®Èy ®îc qóa tr×nh häc tËp cña häc sinh, ®Æc biÖt cã thÓ gióp c¸c em
n¾m v÷ng kiÕn thøc, việc kiểm tra đánh giá đạt được kết quả cao hơn.
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu chuyên đề này phải dựa trên kiến thức của sách giáo khoa,
phải năm vững được kiến thức đó là điều không thể thiếu trong quá trình giảng
dạy, đặc biệt không được quá lạm dụng kiến thức ngoại vi dẫn đến không đảm
bảo mục tiêu, yêu cầu bài học, về mặt kiến thức trong sách giáo khoa và không
đảm bảo thời lượng quy định.
- Tìm tòi ở tất cả các loại tài liệu, các phương tiện thông tin đại chúng… có
liên quan đến môn học, bài học.
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
1. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY:
a. Vận dụng PPDH nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề là một kiểu PPDH nhằm tổ chức hoạt động tìm tòi, sáng
tạo của người học theo cách nêu lên và luận giải các mâu thuẫn trong lý thuyết và
thực tiễn.
Dạy học nêu vấn đề bao gồm các nhân tố cơ bản: vấn đề học tập, câu hỏi
vấn đề, nhiệm vụ vấn đề và tình huống có vấn đề.
* Các mức độ, hình thức vận dụng dạy học nêu vấn đề trong dạy học giáo
dục quốc phòng an ninh:
- Trình bày nêu vấn đề
Ở đây, người dạy đặt vấn đề học tập và tự mình giải quyết vấn đề, còn người
học theo dõi lĩnh hội lôgic, cách thức, phương án giải quyết vấn đề của người
dạy. Mức độ này có thể vận dụng trong hình thức bài giảng về khái niệm Quốc
phòng, Quốc phòng toàn dân, những tư tưởng chỉ đạo của Đảng, nhiệm vụ, nội
dung, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân…
- Tìm tòi một phần
4
Ở mức độ tìm tòi một phần, người dạy hình thành các vấn đề học tập, người
học tham gia giải quyết một phần các vấn đề đó. Mức độ này thường được tổ
chức dưới các hình thức trao đổi, học nhóm, thảo luận, …
- Nghiên cứu vấn đề
Đây là mức độ các vấn đề học tập được nâng dần lên thành các vấn đề khoa
học. Giáo viên hướng dẫn từng bước cho học sinh tìm kiếm, hình thành vấn đề và
tự giải quyết vấn đề đó. Mức độ này được thể hiện trong các hình thức tự học, tự
nghiên cứu, viết thu hoạch, tiểu luận chuyên đề, báo cáo…
* Một số cách thức xây dựng vấn đề học tập, tạo ra tình huống có vấn đề
trong các buổi học.
- Nêu lên những mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn đòi hỏi người học phải
vận dụng kiến thức lý luận để giải thích bản chất các hiện tượng, sự kiện thực tế.
- Nêu lên mâu thuẫn giữa quan niệm thông thường và quan niệm khoa học
để tạo ra " tình huống không phù hợp"
- Nêu lên các quan niệm, nhận định, ý kiến khác nhau xung quanh một vấn
đề nào đó để tạo ra " tình huống xung đột"
- Đưa ra những quan điểm phản khoa học, đối lập đòi hỏi người học phải lập
luận, làm rõ tính chất phản khoa học, xuyên tạc, giả dối của những quan điểm đó.
Kiểu nêu vấn đề này sẽ tạo ra " tình huống phản bác" trong buổi học…
b. Vận dụng phương pháp đóng vai
Đóng vai là một phương pháp dạy học mang tính chất tích cực, trong đó
người dạy tái tạo lại, mô hình hoá các hành động đặc trưng của hoạt động nghề
nghiệp tương lai, tổ chức cho người học sắm vai thực hiện những thao tác phù
hợp với chuẩn mực hành vi, hành động thực, thông qua đó hình thành kĩ năng
hoạt động nghề nghiệp cho người học.
Trong bộ môn giáo dục quốc phòng-an ninh đóng vai có thể sử dụng được
trong huấn luyện nghệ thuật quân sự, kỹ chiến thuật, thể thao quân sự…
Trong phương pháp đóng vai, hoàn cảnh thực của đời sống hoạt động quân
sự được giáo viên lựa chọn, xây dựng thành kịch bản. Học sinh được phân vai
phải sử dụng tổng hợp các tri thức, kĩ năng đã học và kinh nghiệm thực tế để thể
hiện các thao tác hành động theo nội dung kịch bản và sự đạo diễn của giáo viên.
Các bước cơ bản thực hiện phương pháp đóng vai như sau:
- Xác định mục tiêu dạy học ( được cụ thể hoá bằng tiêu chí kĩ năng tương
ứng)
- Thiết kế kịch bản
- Phân vai
- Giới thiệu quy tắc, cách thức nhập vai, các tương tác giữa các vai
- Giáo viên điều khiển các tình huống đóng vai, học sinh thể hiện các thao
tác, hành vi…
- Thảo luận, rút kinh nghiệm; đánh giá tổng kết buổi học đóng vai.
c. Vận dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan (Test) được xem là phương pháp đo đạc và đánh
giá khách quan trình độ, khả năng, kết quả nhận thức của người học bằng hệ
thống các câu hỏi theo những tiêu chí nhất định.
5
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan là loại câu hỏi cung cấp cho người học một
phần hay tất cả các thông tin cần thiết và đòi hỏi người học phải hoàn thiện câu
trả lời hoặc lựa chọn phương án trả lời.
Trong dạy học các nội dung của môn giáo dục quốc phòng có thể xây dựng
một số dạng câu trắc nghiệm điển hình sau đây:
- Loại câu điền khuyết: là câu đòi hỏi người học phải nhớ lại và cung cấp
(điền thêm) câu trả lời bằng một hay một vài từ trên cơ sở của một câu hỏi trực
tiếp hay một câu nhận định còn chưa đầy đủ.
Thí dụ: Tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân là: Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh; phối hợp
chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động … (đối ngoại)
- Loại câu lựa chọn " đúng - sai" : là câu yêu cầu người học phải lựa chọn
một trong hai phương án trả lời: đúng hay sai, có hoặc không khi tiếp xúc với một
tin nào đấy.
Thí dụ: Chức năng của Quân đội ta là chiến đấu, công tác, lao động sản
xuất? Đúng hay sai?
- Loại câu hỏi lựa chọn nhiều phương án
Thường có hình thức một câu hỏi dẫn được nối tiếp bằng nhiều câu trả lời
(thường là 3 -4 câu) đòi hỏi người học phải chọn ra câu đúng.
Yêu cầu chung khi sử dụng bộ trắc nghiệm là phải đảm bảo độ khách quan,
độ tin cậy, tính vừa sức, tính phân biệt và trong kiểm tra, thi cần phải sử dụng kết
hợp các câu trắc nghiệm với câu tự luận.
2. SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP LẤY NGUỒN MINH CHỨNG CỤ THỂ
CHO CÁC TIẾT HỌC.
* Tiết 1: bài 2 MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ NỀN QUỐC PHÒNG
TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN
( SGK lớp 12 THPT)
Muèn HS hiÓu ®îc nh÷ng t tëng chØ ®¹o cña §¶ng vÒ thùc hiÖn nhiÖm vô
quốc phòng an ninh, cÇn lµm râ cho häc sinh n¾m ®îc nh÷ng kh¸i niÖm vÒ quốc
phòng an ninh.
a. Giáo viên kh¸i qu¸t qu¸ tr×nh dùng níc vµ gi÷ níc cña d©n téc Việt
Nam
Nªu c©u hái : Quốc phòng ®îc ®Æt ra khi nµo (chung cho c¸c quèc gia vµ
VN) ? V× sao mµ ph¶i kÕt hîp quốc phòng víi an ninh?
- Quèc phßng lµ c«ng cuéc gi÷ níc cña mét quèc gia…§©y lµ ®Æc ®iÓm
chung cña mäi quèc gia trªn thÕ giíi, nhng c¸ch thøc th× kh¸c nhau, sù kh¸c nhau
®ã ®îc cô thÓ b»ng c¸c vÝ dô sau:
+ VD minh họa 1: : Hµn Quèc vµ NhËt B¶n lµ 2 quèc gia cã nÒn kinh tÕ
hïng m¹nh nhng nÒn quốc phòng l¹i ®Æt díi sù b¶o trî cña níc thø 2 ®ã lµ Mỹ.
+ VD minh họa 2: TriÒu Tiªn vµ I Ran nÒn quốc phòng l¹i dùa trªn nÒn t¶ng
cña sù ph¸t triÓn vò khÝ h¹t nh©n.
+ VD minh họa 3: Mỹ cã nÒn quốc phòng dùa trªn tiÒm lùc cña nÒn kinh tÕ
hïng m¹nh vµ sù ph¸t triÓn c«ng nghÖ vò khÝ vît bËc…
6
+ Cßn víi ViÖt Nam chóng ta lµ x©y dùng nÒn quốc phòng toµn d©n trong ®ã
lÊy søc m¹nh qu©n sù lµ ®Æc trng ®· ®em l¹i cho d©n téc vµ thÕ giíi nh÷ng trang
sö hµo hïng kh«ng thÓ phñ nhËn.
- §Æt c©u hái cho học sinh th¶o luËn t¹i sao nÒn quốc phòng cña chóng ta l¹i
mang tÝnh chÊt “cña d©n, do d©n, v× d©n” ?
Nhà nước của dân, do dân, vì dân bởi vì “ lực lượng bao nhiêu là nhờ dân
hết”. Nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức
dân, của dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động” . Vì vậy
Đảng ta luôn chủ trương dựa vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao
nhất quyền làm chủ, tham gia tích cực vào việc quản lý Nhà nước .
Nhà nước vì dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là mọi hoạt động của
Nhà nước đều phải xuất phát vì lợi ích của nhân dân; việc gì có lợi cho dân thì
phải làm cho kỳ được ; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Người chỉ rõ:
chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân.
Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc
nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân “Các công việc của chính
phủ làm phải nhằm vào mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi
người. Cho nên chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên
hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì tránh”. Xây
dựng một Nhà nước vì dân là một nhà nước không đặc quyền, đặc lợi, phục vụ
nhân dân tận tụy, một nhà nước trong sạch, chí công vô tư. Bác đã dạy rằng: Phải
xây dựng một nền chính trị liêm khiết, kiên quyết đấu tranh với ba thứ giặc nội
xâm là: tham ô, lãng phí, quan liêu. Một mặt Nhà nước phải thực hành dân chủ
rộng rãi với nhân dân mặt khác phải thực hành chuyên chính với mọi hành động
xâm hại đến lợi ích của Tổ quốc, quyền làm chủ của nhân dân. Trong hàng loạt
vấn đề được đề cập, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh vấn đề bản chất xã
hội chủ nghĩa, tính dân chủ, tính nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước mà nhân
dân ta xây dựng.
+ Gi¸o viªn chèt l¹i vÊn ®Ò: TruyÒn thèng lÞch sö ®· minh chøng r»ng mäi
ngêi d©n ViÖt Nam tõ ®êi xa ®Õn nay ®Òu nªu cao ý thøc quËt cêng b¶o vÖ ®Êt níc
lóc l©m nguy, lóc khã kh¨n gian khæ. Qu©n ®éi tõ ®©u mµ ra? Tõ nh©n d©n mµ ra,
v× nh©n d©n mµ chiÕn ®Êu ®Ó b¶o vÖ quª h¬ng, ®Êt níc, con ngêi, dßng téc vµ b¶n
th©n…®ã lµ triÕt lý nªn nÒn quốc phòng cña ta lµ nÒn quốc phòng “ cña d©n, do
d©n, v× d©n ”
- Ngµy nay ®Ó ®¶m b¶o ®îc an ninh quèc gia ph¶i ®ßi hái cã sù kÕt hîp ®ång
bé gi÷a nÒn quốc phòng toµn d©n víi an ninh nh©n d©n, nãi ®Õn quốc phòng lµ
ph¶i cã an ninh vµ ngîc l¹i nãi ®Õn an ninh lµ ph¶i cã quốc phòng.
* Nh vËy víi nh÷ng VD vµ nguån minh chøng trªn t«i ®· lµm s¸ng tá nh÷ng
kh¸i niÖm c¬ b¶n vÒ quốc phòng vµ an ninh trong SGK gióp học sinh hiÓu bµi s©u
s¾c h¬n.
b. Nh÷ng t tëng chØ ®¹o cña §¶ng
*. Kết hợp chặt chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
trong thời kì mới:
+ Dựng nước phải đi đôi với giữ nước trong tình hình mới hiện nay không
thể xem thường mặt nào, Nó phản ánh quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc.
7
+ Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập. Thế và lực của Việt Nam đang
phát triển rất đáng mừng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn đang tìm cách phá
hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước. Vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc lúc nào cũng được đặt lên hàng đầu. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Không giữ được ổn định chính trị, không bảo vệ
tốt lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thì không thể xây dựng đất nước. Đồng thời,
không xây dựng đất nước giàu mạnh thì không có điều kiện để bảo vệ tốt lãnh
thổ, chủ quyền quốc gia.
Dĩ nhiên, điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là chúng ta cần xây dựng tốt
thế trận lòng dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đất nước phát triển càng giàu
mạnh, điều kiện sống của người dân càng tốt hơn, thì thế trận lòng dân càng vững
chắc. Chúng ta biết rằng, kinh tế chậm phát triển, giá cả leo thang, tệ nạn xã hội
không được đẩy lùi, đời sống người dân còn khó khăn, ốm đau, bệnh tật không có
điều kiện chữa trị… thì chắc chắn lòng dân chưa yên. Điều cần thiết là chúng ta
phải làm sao để kinh tế-xã hội ngày càng phát triển, đất nước ngày càng giàu
mạnh, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện… đó
là cách bảo vệ tốt nhất, chủ động nhất.
- Hai nhiệm vụ chiến lược này phải có quan hệ chặt chẽ với nhau thì mới có
đủ tiềm lực để bảo vệ tổ quốc. Thực tế đã chứng minh trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc nếu xây dựng mà không bảo vệ thì sẽ sụp đổ nhanh chóng, còn nếu xây
dựng không tốt thì sẽ không có khả năng tự bảo vệ.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ chế độ, lấy chủ nghĩa
Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam.
- VD minh họa 1: Nhà Hồ (triều đại Hồ Quý Ly) đã xây dựng được nhiều
thành lũy kiên cố nhưng vẫn thất bại nhanh chóng vì một lý do rất đơn giản bởi
bức tường thành vững chắc nhất là bức tường lòng dân không xây dựng được.
- VD minh họa 2: Khi bị quân đội Mĩ và liên quân tấn công, quân đội của
tổng thống Sadam Hussen đã không chống cự nổi trong một thời gian ngắn bởi
người dân đã không tham gia kháng chiến người ta coi chiến tranh là nhiệm vụ
của lực lượng chuyên trách....
*. Kết hợp quốc phòng an ninh với Kinh tế:
+ Quá trình kết hợp phải từ trong chiến lược quy hoạch đầu tư và phát triển
toàn quốc với từng nghành, từng địa phương và từng doanh nghiệp. Đây là sự gắn
kết tất yếu bởi quốc phòng an ninh với Kinh tế có mối quan hệ biện chứng như
kinh tế làm ra kinh tế nhưng quốc phòng an ninh lại tiêu tốn kinh tế bởi vì cả hai
đều thống nhất một mục đích đó là xây dựng và bảo vệ tổ quốc nên đây là mối
quan hệ biện chứng với nhau.
- VD minh họa: Nhà nghèo có khi không cần đóng cửa để bảo vệ trộm
nhưng khi có kinh tế lại phải xây từ tường rào và các thiết bị khác để bảo vệ
thành quả mà mình làm ra…
* Gắn nhiệm vụ quốc phòng với an ninh; phối hợp chặt chẽ hoạt động
quốc phòng an ninh với hoạt động đối ngoại.
8
- Hoạt động đối ngoại một cách chủ động, thực hiện có kết quả chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tranh thủ
những điều kiện thuận lợi để triển khai mạnh mẽ hơn hoạt động đối ngoại nghị
viện trong tình hình mới, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển đất nước nhanh và bền vững. Để làm tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối
hợp đồng bộ, gắn kết chặt chẽ mang tính hệ thống có chọn lọc.
- Một là, kết hợp an ninh với quốc phòng trong quá trình thu thập, xử lý
thông tin liên quan đến nhiệm vụ an ninh, quốc phòng.
- Hai là, kết hợp an ninh với quốc phòng trong việc phân tích, đánh giá, xác
định đối tác, đối tượng và các mối đe dọa đối với an ninh, quốc phòng
- Ba là, kết hợp chặt chẽ an ninh với quốc phòng ở từng cấp độ khác nhau 3
cấp độ:
+ Thứ nhất, kết hợp an ninh với quốc phòng ở cấp độ hoạch định và chỉ đạo
thực hiện quyết sách quốc gia
+ Thứ hai, kết hợp an ninh với quốc phòng ở cấp tổ chức thực hiện
+ Thứ ba, kết hợp an ninh với quốc phòng ở cấp tham mưu và tổ chức thực
hiện
+ Không chỉ bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN… Kết hợp bảo vệ đất
nước từ xa: đặt mối quan hệ rộng rãi có sàng lọc đến đâu bảo vệ đến đấy ở tất cả
các lĩnh vực, quốc gia, châu lục…
+ Ngày nay đất nước đang trong quá trình hội nhập, các thành phần kinh tế
đều tham gia một cách tích cực góp phần vào công cuộc CNH, HĐH đất nước,
nhưng nó cũng có những mặt tiêu cực như: Có rất nhiều các tổ chức, tập đoàn,
công ty, xí nghiệp…vào nước ta đầu tư, hợp tác, xây dựng hai bên cùng có lợi
nhưng mặt trái lại là phá hoại ở nhiều lĩnh vực:
- VD minh họa 1: Về kinh tế - Một tập đoàn của nước ngoài vào VN đầu tư
làm ăn, vốn phía nước ngoài là 70% ( bao gồm nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị,
chuyên gia, kỹ sư đầu ngành…), vốn phía địa phương là 30% ( bao gồm địa bàn,
đất XD nhà xưởng, lao động địa phương…). Hợp đồng 2 bên là lãi cùng hưởng, lỗ
cùng chịu, nhiều năm đầu sau khi khấu trừ phí sản xuất, tiêu thụ hàng hóa…nhưng
đều lỗ dẫn đến phá sản và phải bán cho một tổ chức thứ 3(thực chất tổ chức này
cũng thuộc tập đoàn nước ngoài nọ) lúc này toàn bộ quyền hạn đã rơi vào tay nước
ngoài, phía địa phương chỉ còn biết đứng nhìn mà không thể tiếp cận được. Vấn đề
này đã diễn ra rất nhiều ở những khu chế suất, khu công nghiệp…ở Việt Nam như
khước từ các phóng viên, nhà báo vào làm việc thậm chí đánh đập ép công nhân
Việt Nam làm thêm giờ… khi họ đòi các quyền lợi chính đáng theo luật lao động
chưa nói đến nhiều vấn đề có liên quan như an toàn lao động, ô nhiểm môi
trường…Vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức
năng thậm chí là cấp nhà nước bằng nhiều biện pháp để đem lại sự phát triển bền
vững và ổn định cho địa phương và đất nước.
- VD minh họa 2: Chủ quyền biển đảo, nhiều năm gần đây Trung Quốc và
Philíppin luôn đe dọa, răn đe quân sự gây áp lực về chính trị đối với Việt Nam
nhưng với những bằng chứng lịch sử, quan điểm cứng rắn và đấu tranh bằng con
9
đường ngoại giao, quân và dân ngày đêm bám đảo, bám biển…Đảng và Nhà
nước ta cho thấy không phải cứ lấy nước mạnh là bắt nạt được nước yếu hơn.
* Cũng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
+ Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách, kế hoạch cụ thể để động
viên nhân dân tham gia tự giác tích cực vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, xây dựng
và tiềm lực và thế trận QPTD, ANND vững mạnh, chủ động, sẵn sàng đối phó với
mọi tình huống chiến tranh mà cả trong việc làm thất bại chiến lược “Diễn biến
hòa bình” và mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch.
+ 5 năm qua, trong bối cảnh an ninh thế giới và khu vực diễn biến hết sức
nhanh chóng, phức tạp và có nhiều yếu tố khó lường, tình hình an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội trong nước có những phức tạp mới, Đảng ủy Công an đã
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Nghị
quyết Đại hội Công an nhiệm kỳ III và đã đạt được thành tựu rất quan trọng, củng
cố và tăng cường thêm một bước thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận
quốc phòng toàn dân ở các địa bàn trọng điểm. Công an nhân dân thực sự là lực
lượng nòng cốt, xung kích, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân, giữ vững ổn
định chính trị, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan
hệ đối ngoại của đất nước. Về nhiệm vụ trong thời gian tới, Tổng bí thư nhấn
mạnh: toàn lực lượng Công an nhân dân phải tạo ra sự chuyển biến thực sự rõ nét
về nhận thức chính trị, tư tưởng, tổ chức và hoạt động nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả các mặt công tác, bảo đảm trong bất cứ tình huống nào cũng phải giữ
vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình, ổn định,
góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển.
* Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tổ quốc, thể chế hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền QPTD và ANND, tăng cường
quản lí nhà nước về quốc phòng an ninh.
- Định hướng từ năm 2010 đến năm 2020 phải hoàn thiện hệ thống pháp luật
về quốc phòng, an ninh nhằm xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế
trận an ninh nhân dân; thể chế hóa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế-xã hội với
củng cố và xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ của công
dân trong việc bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng
biển, vùng trời; về tổ chức, hoạt động lực lượng vũ trang nhân dân...; Sau năm
2010, xây dựng mới các đạo luật về phòng thủ dân sự, giáo dục quốc phòng, bảo
vệ các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia, chống khủng bố...
- Hoạt động lập pháp phải hướng tới mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm
10
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, Công an, đối với
sự nghiệp củng cố nền QPTD, ANND vững mạnh.
- Đảng và Nhà nước đã ban hành các pháp lệnh: Pháp lệnh Tình trạng khẩn
cấp, Pháp lệnh Bộ đội biên phòng, Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam,
Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Pháp lệnh
Tình báo, Pháp lệnh Cơ yếu, Pháp lệnh Công an xã v.v.. Ngoài ra, Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh, nghị quyết có
chứa những nội dung liên quan đến quốc phòng, an ninh như Bộ luật Hình sự, Luật
Trưng mua, trưng dụng tài sản, Luật Phòng, chống ma túy.- Xây dựng quân đội
cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là rất cần thiết, nhưng đi đôi
với đó là phải xây dựng tốt thế trận lòng dân. Phải làm sao để người dân yêu Đảng,
yêu Nhà nước XHCN, yêu chế độ. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà
nước, vào chế độ bị mất thì sẽ mất hết... Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng lực lượng
vũ trang đủ mạnh, từng bước trang bị cho quân đội những loại vũ khí, phương tiện
kỹ thuật hiện đại, đồng thời làm tốt công tác giáo dục chính trị-tư tưởng, nâng cao
chất lượng huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, thì phải
xây dựng tốt thế trận lòng dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh đặc
biệt là thế hệ trẻ trong đó có học sinh chúng ta. Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX)
về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã vạch định.
* Thông qua nhiều tiết dạy mà tôi đã trực tiếp giảng dạy đối với học sinh
khối 12 Trường THPT Long Phước trong 2 năm học 2013- 2014 và 2014- 2015
thì tôi nhận thấy rằng môn học này là một môn học khó, mang tính tích hợp cao,
đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết đọc và tìm tài liệu tham khảo từ đó cụ thể
hóa các nguồn minh chứng, các ví dụ cho từng tiết dạy giúp học sinh hiểu bài một
cách sâu sắc hơn.
+ Năm học 2013- 2014, kết quả thu được khi giảng dạy những kiến thức cơ
bản trong sách giáo khoa khi vận dụng các hình thức kiểm tra như: Tự luận, trắc
nghiệm khách quan (Test), kiểm tra miệng
Bảng 1
Năm học
2013- 2014
Lớp
Mức độ nhận thức %
Tốt
Khá
Trung bình
Chưa hiểu rõ
12A1
35%
22%
29%
14%
12A2
33%
26%
24%
17%
12A3
28%
36%
20%
16%
12A4
30%
28%
23%
19%
11
+ Năm học 2014- 2015, kết quả thu được khi giảng dạy những kiến thức cơ
bản trong sách giáo khoa kết hợp với sử dụng các nguồn minh chứng và lấy các
ví dụ minh họa sau đó vận dụng các hình thức kiểm tra như: Tự luận, trắc nghiệm
khách quan (Test), kiểm tra miệng
Bảng 2
Năm học
2014- 2015
Lớp
Mức độ nhận thức %
Tốt
Khá
Trung bình
Chưa hiểu rõ
12A1
52%
42%
6%
0%
12A2
49%
40%
19%
0%
12A3
46%
41%
11%
2%
12A4
48%
38%
13%
1%
Phân tích phương pháp sử dụng nguồn minh chứng, lấy ví dụ minh họa cho
tiết dạy và so sánh ở bảng 1 và bảng 2 ta thấy kết quả thu được ở bảng 2 là cao
hơn rất nhiều so với bảng 1.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Sáng kiến này được nghiên cứu và tiến hành từ tháng 8 năm 2013 đến ngày
20 tháng 4 năm 2015. Tôi thấy việc vận dụng sáng kiến này vào giảng dạy phần
lý thuyết của chương trình giáo dục Quốc phòng và An ninh cấp THPT là rất cần
thiết bởi vì: Giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh: “Nhằm góp
phần đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết một số nội dung cơ bản về
quốc phòng, an ninh; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, trách
nhiệm nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch; có kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh; có kỹ năng quân sự,
an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
2. KIẾN NGHỊ
Để ngày một nâng cao chất lượng học tập cho học sinh đối với môn học
giáo dục Quốc phòng và An ninh. Tôi xin có một số ý kiến đề xuất nhỏ như sau:
- Đối với giáo viên.
+ Trước tiên là phải yêu nghề, tâm huyết từ đó mới có lòng say mê tìm tòi,
nghiên cứu tài liệu…tìm ra các nguồn minh chứng cụ thể, ví dụ minh họa,
12
phương pháp giảng dạy mới, khắc phục khó khăn thiếu thốn phục vụ công tác
giảng dạy ngày một tốt hơn.
- Đối với nhà trường.
+ Hằng năm nên cho giáo viên chuyên trách bộ môn sửa chữa, bảo dưỡng
những thiết bị, dụng cụ, học cụ cũ, đầu tư thêm một số cơ sở vật chất như sân bãi,
kho để trang thiết bị, tài liệu, phòng học đa năng cho giáo viên giảng dạy và thao
giảng bằng giáo án điện tử, học sinh xem clip tư liệu…
Đây mới chỉ là quan điểm của tôi qua quá trình giảng dạy bộ môn, vì vậy
sẽ còn những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến chân
thành của các đồng nghiệp để bản sáng kiến được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÉT DUYỆT CỦA TỔ TRƯỞNG
Long Thành, ngày 6 tháng 5 năm 2015.
Người viết
Trần Nguyên Bá
XÉT DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆU
13
- Xem thêm -