Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo 3 tuổi...

Tài liệu Skkn tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo 3 tuổi

.DOC
36
207
128

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA GIÁO DỤC MẦM NON ----------------------------- BÀI TẬP NGHIỆP VỤ CUỐI KHOÁ ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU KHĂ NĂNG PHÁT ÂM ĐÚNG CỦA TRẺ MẪU GIÁO 3 TUỔI NGƯỜI HƯỚNG DẪN : T.s Đinh Hồng Thái NGƯỜI THỰC HIỆN : Bùi thị Nguyên LỚP ĐHTC HOÀ BÌNH - KHOA GDMN HOÀ BÌNH, THÁNG 3 NĂM 2004 1 LỜI CẢM ƠN Em xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo trường Đại học sư phạm Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô ở khoa Giáo dục mầm non đã giúp em hoàn thành khóa học vừa qua. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đối với Tiến sĩ Đinh Hồng Thái người đã kiên trì, tận tình hướng dẫn em trên bước đường nghiên cứu khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn trường mầm non Văn Nghĩa, đặc biệt là các cô giáo và các cháu mẫu giáo lớp 3-4 tuổi đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian nghiên cứu và khảo sát thực tế trên trẻ. Cuối cùng tôii xin chân thành cảm ơn cơ quan, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này./. Lạc Sơn ngày 10 - 3 - 2004 Tác giả luận văn BÙI THỊ NGUYÊN 2 PHẦN I : MỞ ĐẦU A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : I. Cơ sở lý luận: Việc phát âm cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo là rất quan trọng. Ngôn ngữ phải chuẩn xác thì tư duy, trí tuệ mới phát triển; nhận thức mới mạch lạc. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với những lý do sau: 1. Ngôn ngữ là vỏ bọc của tư duy, ngôn ngữ phát triển phong phú đa dạng thì tư duy sẽ nhạy bén hơn. Nên ngay từ độ tuổi mẫu giáo các cháu cần trang bị cho mình một vốn ngôn ngữ cần thiết, đủ để phát huy trí tuệ của mình. 2. Tiếng Việt rất giàu và đẹp. Sinh thời, Bác Hồ kính yêu đã từng căn dặn: “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” Vì vậy, chúng ta phải giáo dục các cháu biết yêu tiếng mẹ đẻ, có ý thức trau dồi nó, giữ gìn nó ngày một giàu đẹp và trong sáng hơn. 3. Đặc trưng của Tiếng Việt trong phát âm là đơn lập phân tiết tính, hầu như mỗi phát âm trùng với một từ và mang một nghĩa nhất định; cường độ, trường độ âm tiết bằng nhau, không có trọng âm mà chỉ có thanh bằng, thanh trắc. Vì vậy, trẻ cần phát âm chuẩn xác, rành rọt từng từ. 4. Việc phát âm sai có thể dẫn tới hiểu sai nghĩa của từ, diễn đạt sai nội dung sự vật hiện tượng và sau này các cháu giao tiếp kém có thể viết chính tả sai ở phổ thông. 5. Từ việc giáo dục trẻ phát âm đúng, ta hướng tới việc điều chỉnh âm lượng, đúng ngữ điệu lời nói trong giao tiếp, làm cho Tiếng Việt trở thành phương tiện giao tiếp linh hoạt, năng động và tiện lợi nhất. 3 II. Cơ sở thực tiễn 1. Trẻ mẫu giáo 3 tuổi phát âm chưa tròn tiếng và vốn từ của trẻ chưa nhiều. Cho nên trong nhiều tình huống các cháu chưa kịp huy động vốn từ để diễn đạt từ đó dẫn đến việc phát âm sai, nói ngọng, dùng từ không đúng. 2. Mỗi địa phương lại có một cách phát âm riêng, ở một số từ khó khắc phục và không hoàn toàn hợp chuẩn với Tiếng Việt. Nên ngay từ trong môi trường gia đình, xã hội các cháu đã phát âm sai, khi đến trường những nhược điểm đó cần được chúng ta uốn nắn, điều chỉnh lại. Với lý do trên tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo 3 tuổi” làm đề tài nghiên cứu của mình, từ đó có hướng uốn nắn và rèn luyện cho trẻ phát âm đúng, không để trẻ phát âm sai hoặc nói ngọng, giúp trẻ biết điều chỉnh âm lượng, thể hiện đúng ngữ điệu lời nói khi giao tiếp. B. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU Tìm hiểu khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo ở 3 tuổi Từ đó nêu ra các biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ và rút ra kết luận sư phạm cho việc định hướng nghiên cứu các phương pháp - biện pháp dạy trẻ phát âm đúng. C. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến khả năng phát âm đúng của trẻ 2. Khảo sát khả năng phát âm của trẻ 3. Một số biện pháp tác động D. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đọc tài liệu 2. Quan sát ghi chép 3. Điều tra khảo sát về thực trạng phát âm của trẻ mẫu giáo 3 tuổi: Thông qua việc quan sát tự nhiên khi trẻ tự nói, khi trẻ giao tiếp với nhau 4 trong giờ học, giờ chơi, giao tiếp giữa cô và trẻ. Tất cả những gì quan sát được lưu lại trong việc ghi chép cụ thể đối với từng trẻ. 4. Xử lý số liệu V. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo 3 tuổi trong giao tiếp hàng ngày tại ) trường mầm nonVăn Nghĩa - Huyện Lạc Sơn - Tỉnh Hoà Bình. 2. Khách thể : 12 cháu độ tuổi mẫu giáo bé (3 tuổi) trường mầm non Văn Nghĩa - Huyện Lạc Sơn - Tỉnh Hoà Bình. PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I I. Cơ sở lý luận ngữ âm 1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt : Có tính phân tiết cao, các âm tiết đứng cách nhau, mỗi âm tiết bao giờ cũng gắn liền với thanh điệu và làm thay đổi ý nghĩa của âm tiết. Vì vậy : Lời nói của con người bao giờ cũng là lời nói thành tiếng. Khi nói chúng ta phải phát âm ra thành từ, thành câu, thành văn bản để truyền đạt nội dung thông báo. Khi nghe chúng ta tiếp nhận các âm thanh người nói phát ra, từ đó hiểu được nội dung của lời nói. Trong âm thanh của lời nói do một cá nhân phát ra, ngoài những đặc điểm cụ thể còn có một cái chung nhất mang chức năng xã hôị. Những âm thanh cụ thể của lời nói, của mỗi cá nhân là những thực thể mang chức năng xã hội. 5 2. Hệ thống ngữ âm của âm tiết tiếng Việt CÓ 5 THÀNH PHẦN SẮP XẾP THEO SƠ ĐỒ SAU : Thanh điệu 5 Âm đầu 1 Vần Âm điệu Âm chính Âm cuối 2 3 4 * Thành phần vị trí 5 là thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết. Có 6 thanh điệu: - Thanh ngang :Trên chữ không ghi dấu khi viết - Thanh huyền - Thanh sắc -Thanh nặng - Thanh hỏi - Thanh ngã. * Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm * Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết, được thể hiện bằng chữ O chẳng hạn (Huân, Hoan) 6 * Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính là hạt nhân của âm tiết. * Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i, y, u, o) đảm nhiệm. * Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể có hoặc không. - Âm tiết tiếng việt có cấu trúc hai bậc : Bậc thứ nhất bao gồm những thành tố trực tiếp của nó, bậc thứ hai bao gồm những thành tố của phần vần Âm tiết Bậc 1 : Thanh điệu Âm đầu Bậc 2 : Âm đệm phần vần Âm chính Âm cuối * Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết : ba, bã, bá đối lập với bà, bả, bạ về độ cao. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau phát âm với cao độ thấp. * Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao, trong thời gian âm tiết “ba” được phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng; còn “bã” với đường nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng. Âm điệu là những đường nét biến thiên về cao độ. 7 * Nguyên âm trong Tiếng Việt được coi là âm chính, nguyên âm là khi nói âm vị phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở. Như âm “a” hơi thoát ra tự do không bị cản ở chỗ nào cho nên “a” là nguyên âm. Xét về mặt cấu tạo người ta phân biệt nguyên âm đơn và nguyên âm đôi: - Nguyên âm đôi là gồm 2 nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi phát âm thì đọc nhanh, đọc lướt từ âm này sang âm kia, đầu mạnh sau yếu hơn, do đó âm sắc chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. Có 3 nguyên âm đôi đó là : uô, ươ, ie. Xét về độ dài, cần phân biệt nguyên âm ngắn và nguyên âm dài, nguyên âm ngắn khi phát ra không thể kéo dài, nếu kéo dài có thể ảnh hưởng đến nghĩa. * Phụ âm : Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết Tiếng Việt bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra bị cản ở chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi; có loại bị cản ở răng, có loại bị cản ở lưỡi; có loại bị cản ở thanh hầu. Về phương thức phát âm người ta chia phụ âm thành : - Phụ âm tắc : Hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi : b, d, t, s c, k, m,r, p, ng. - Phụ âm sát : Hơi đi qua kẽ hở miệng : p, v, s, z, l, x, y, h - Phụ âm vang mũi và vang bên: Hơi thoát ra đầu lưỡi và bên lưỡi : m, n, nh. - Phụ âm ồn : Hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn : b, d, t, c, k, p, f, v, x, z, y, h. - Phụ âm hữu thanh, vô thanh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có rung hay không rung người ta chia ra : + Phụ âm hữu thanh : Dây thanh rung (b, d, v, i, r) 8 + Phụ âm vô thanh : Dây thanh không rung (t, c, k, p, i, s) - Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành : +/ Phụ âm môi : p, b, m, f, v +/ Phụ âm lưỡi : d, t, s, z, l, n +/ Phụ âm hầu : h, c, nh Trong các âm lưỡi sự đối lập nhau giữa đầu lưỡi bẹt : t, s, l, n; đầu lưỡi quặt : r, g. Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần. Ví dụ : Âm tiết Huấn có các thành tố sau: Thanh điệu: thanh sắc H là âm đầu U là âm đệm A là âm chính N là âm cuối. II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể phân chia được nữa. Âm thanh tức là sự phân biệt các âm của ngôn ngữ, còn phát âm chúng sẽ học sau. Sự phát âm đúng có liên quan chặt chẽ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ. Phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm. Ở tuổi mẫu giáo những điều kiện này đã đạt được mức tương đối ổn định cho nên trẻ đã có thể phát âm được hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số trẻ vẫn còn mắc một số lỗi về phát âm như lỗi về thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính. Vì vậy, trẻ phát âm chưa chính xác, nguyên nhân ở đây một phần do tiếng địa phương. 9 III. Nội dung và phương pháp luyện phát âm: Sự phát âm của trẻ phụ thuộc nhiều vào bộ máy phát âm của chúng, cần thường xuyên luyện tập một số cơ quan phát âm như lưỡi có thể chuyển động nhịp nhàng với các bộ phận khác như răng, môi, ngực và nhịp thở. Hít thở nhẹ nhàng để giúp trẻ điều khiển các cử động của bộ maý phát âm làm cho phát âm được rõ ràng mạch lạc. Các âm, các từ phụ thuộc vào lực của các cử động bộ máy phát âm đó. Ở độ tuổi mẫu giáo có rất nhiều trẻ nói không rõ ràng từ này thường lẫn với từ kia nên khó nghe và khó hiểu. Nguyên nhân do cử động chậm của cơ quan phát âm như môi, lưỡi, hàm… Do đó trẻ phát âm chưa chính xác, rõ ràng. Vì vậy, cần tập luyện cơ của bộ máy phát âm cho trẻ để rèn luyện hàng ngày giúp trẻ nói chính xác và rõ ràng hơn. 1. Lỗi về thanh điệu : Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có cấu tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy ở giữa là cách phát âm khó đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm điệu không gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc ( phát âm ngã thành ngá) 2. Lỗi về âm chính : Lỗi về âm chính thường hay tập trung vào các nguyên âm đôi để đảo từ âm này thành âm khác. Ví dụ : Trẻ phát âm “con hươu” thành “con hiêu”, rượu thành riệu.. 3. Lỗi về âm đầu : - Trẻ thường hay nói lẫn lộn : x - s; g - ng 10 Ví dụ : Trẻ phát âm từ Hoa sen thành hoa xen; mùa xuân thành mùa suân; con gà thành con ngà. - Lỗi lẫn “kh” thành “h” : Con khỉ thành con hỉ; quả na thành cả na Một số trẻ 3 - 4 tuổi khi phát âm phụ âm P trẻ lẫn sang phụ âm “b” VD : Trẻ bắt chước tiếng còi xe ô tô Pin, pin thành bin, bin. 4. Lỗi về âm đệm : Âm đệm chỉ được đọc lướt qua nên trẻ khó ghi nhận những âm chính vì thế âm đệm thường bị bỏ qua. VD : Trẻ phát âm “quả chuối” thành “cả chối”; “loắt choắt” thành “lắt chắt”. Có thể nói rằng trẻ mầm non dễ hình thành sự phát âm chuẩn và đúng dần theo độ tuổi. Chính vì vậy cô giáo mầm non cần chú ý tới quá trình làm mẫu khi phát âm chuẩn, chậm, rõ ràng.ở đây muốn nói rằng trong trường mầm non không chỉ dạy trẻ phát âm chuẩn và đúng cho những trẻ khuyết tật mà cần phải dạy phát âm cho tất cả các cháu. Dạy phát âm cho trẻ cần được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi (trên tiết học, giờ ra chơi, trong khi giao tiếp). Cần giành nhiều thời gian để rèn phát âm đúng cho trẻ khuyết tật. Ngoài việc giáo viên luyện phát âm và sửa cho trẻ ra thì cô nên tạo điều kiện để trẻ tiếp xúc trao đôỉ và tự sửa cho nhau. Ở các trường mầm non ngoài việc rèn luyện phát âm đúng cho trẻ ra còn có các trò chơi như trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật hay tiếng còi của các phương tiện giao thông. VD : Tiếng kêu con chó : Gâu gâu Tiếng kêu con mèo: Meo meo Tiếng kêu con lợn: ủn ỉn Tiếng còi xe ô tô: Pin, pin 11 Ta cũng có thể sử dụng trò chơi “con gì biến mất”: Cô đặt một số con vật lên bàn và giới thiệu với trẻ từng con vật, giành thời gian một hai phút để trẻ ghi nhớ, khi chơi cô nói “trời tối rồi” trẻ sẽ nhắm mắt lại cô cất đi một con vật, cô nói “trời sáng rồi” cháu mở mắt ra và đoán tên con vật cô vừa cất đi nếu cháu đoán đúng tên con vật đó, nếu trong khi trẻ phát âm sai cô có thể làm mẫu lại rõ ràng, chuẩn xác cho các cháu tập nói theo. VD : Cháu mở mắt và đoán tên con vật (con gà) thì trẻ phát âm thành “con ngà” cô cần phải làm mẫu và luyện trẻ nói đúng là “con gà” Hoặc trò chơi “tai ai tinh” cô bắt chước tiếng kêu các con vật và yêu cầu trẻ đoán tên các con vật đó, nếu trẻ nói sai thì cô cần sửa sai cho trẻ. VD : Cô nói “ ủn ỉn”, trẻ nói “con lợn” Cô nói : “ò, ó, o” trẻ nói “con gà” hay cô nói “pin, pin” trẻ nói “ô tô” nếu trong quá trình chơi trẻ nói sai thì cô chỉnh sửa luôn như trẻ thường phát âm con gà thành con ngà. Mặt khác cô có thể luyện phát âm cho trẻ thông qua các bài thơ, ca dao đồng dao hay đoạn văn mà trong đó có những từ các cháu thường hay mắc lỗi. VD : Để trẻ phát âm đúng s - x cô cho trẻ đọc bài thơ sau đó cô cho trẻ tự đọc để cô kiểm tra cách phát âm của trẻ : Bắp cải xanh Xanh man mát Bắp cải sắp Sắp vòng tròn Búp cải non Năm ngủ giữa Hay bài thơ Hồ sen của Nhược Thuỷ: Hoa sen đã nở 12 Rực rỡ đầy hồ Thoang thoảng gió đưa Mùi hương thơm ngát Lá sen xanh mát Đọng hạt sương đêm Gió rung êm đềm Sương long lanh chạy Hay bài thơ : Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Bên hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy… 13 Hoặc qua các bài đồng dao: “Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ Xem cầu Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn Đài nghiên, Tháp bút chưa sờn Hỏi ai gây dựng nên non nước này?” “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh, nước biếc như tranh hoạ đồ” Ngoài ra khi chữa lỗi phát âm cho trẻ trong trường hợp trẻ không phát âm chuẩn được qua các bài ca dao đồng dao ta cần hướng sự chú ý của trẻ bằng cách đọc thong thả, rõ ràng các từ (hoặc cụm từ theo nhóm 1 và 2): 1. Giọt sương, sáng nay, buổi sáng, hoa sen, bác sĩ, ánh sáng, sớm mai… 2. Mùa xuân, xinh đẹp, xanh rờn, ngồi xuống, bé xíu, xin lỗi, làng xóm. Khi trẻ đã phát âm đúng s - x thì cùng một lúc cho trẻ phát âm các từ hay cụm từ sau: Sang xuân Xuýt xoa Sao sáng Xuất sắc Xinh xinh… Nhìn chung ở lứa tuổi này, lời nói chủ yếu là bằng truyền khẩu, trẻ học nói bằng cách nói theo người lớn hoặc theo kiểu bắt chước. Do đó, những âm dạy trẻ đầu tiên phải là những âm chuẩn để sau này không mất thời gian uốn nắn cho trẻ. Vì vậy, phải tạo một môi trường xung quanh trẻ thật tốt (nhất là môi trường nói với cách phát âm tốt nhất) để trẻ thường xuyên được nghe và tập nói. Mặt khác, những người trong gia đình cần chú ý cách phát âm của 14 mình và có sự thống nhất về cách phát âm với cô giáo để dạy trẻ. Hơn nữa trong công tác giáo dục trẻ ở trường mầm non cô giáo cần phải phát âm đúng, chuẩn. Đó là những ngôn ngữ hoàn chỉnh với các đặc điểm khi nói các âm nghe được rõ ràng, chính xác với âm điệu chậm rãi mạch lạc. Song, trong đời sống giao tiếp hàng ngày nhiều khi người nói còn ít chú ý đến sự chính xác của các âm và thường có lỗi về phát âm. Đó là ngôn ngữ chưa hoàn chỉnh, vì thế cô giáo mẫu giáo có thể đưa việc sử dụng ngôn ngữ chưa hoàn chỉnh và ngôn ngữ hoàn chỉnh để luyện tai nghe cho trẻ, giúp trẻ phát hiện những ngôn ngữ chính xác. Ngoài ra, cô giáo cần tổ chức cho trẻ nghe các băng đĩa về các bài thơ, truyện, các bài hát. Trong quá trình nghe cô hướng sự chú ý của trẻ vào cách phát âm. Cô giáo mầm non cần giành nhiều thời gian tìm đọc các tài liệu, tìm tòi nghiên cứu để có những hiểu biết nhất định về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách học Tiếng Việt để có những kiến thức chuẩn mực về sự chính xác và các quy tắc ngữ pháp cơ bản. Nhất là muốn phát âm đúng thì ta phải nắm được các nguyên tắc cấu âm và phải thực sự chú ý tới những dấu hiệu đặc trưng của các âm vị. CHƯƠNG II KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG PHÁT ÂM CỦA TRẺ MẪU GIÁO I. CƠ SỞ TIẾN HÀNH KHẢO SÁT: Để khảo sát thực trạng phát âm của trẻ mẫu giáo nơi tôi nghiên cứu là trường mầm non Văn Nghĩa - Lạc Sơn - Hoà Bình. Trường nằm trên địa bàn khu trung tâm của xã, mới được thành lập nhưng cơ sở vật chất khá đầy đủ, lớp học rộng rãi, thoáng mát sạch sẽ, có đầy đủ trang thiết bị và một số đồ chơi phục vụ cho việc học tập và vui chơi của các cháu. Trường có 22 cán bộ giáo viên và nhân viên. Trong đó Ban giám hiệu có 2 người (hiệu trưởng và hiệu phó), giáo viên nhà trẻ là 2, giáo viên mẫu giáo là 15, bảo vệ và phục vụ là 3 người. 15 Trình độ: Đại học là 2 người Cao đẳng : 1 người Trung cấp: 11 người Sơ cấp: 7 người Chưa qua đào tạo: 1 người (bảo vệ) Giáo viên dạy lớp 3 tuổi mà tôi điều tra là cô giáo Bùi Thị Hạnh và cô Bùi Thị Thanh, các cô giáo đều có trình độ về chuyên môn (trung cấp) và đều là giáo viên tâm huyết với nghề, chịu khó học hỏi tìm tòi những kiến thức phục vụ cho việc dạy và học. Mặc dù các cô mới ra trường được 3 năm nhưng các cô đã có không ít kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, hơn nữa 100% các cháu học ở trường là con em dân tộc ở vùng nông thôn miền núi (thuộc vùng 135 của chính phủ). Vì vậy, các bậc phụ huynh rất chú trọng việc chăm sóc con cái học hành cho nên đó cũng là điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của cô và trẻ ở trường mầm non. Chính vì vậy, trường mầm non là một trong những điều kiện phát triển tốt nhất về đức, trí, thể, mỹ và lao động. * KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU : Để tiến hành điều tra trong 6 tuần với số cháu là 12 cháu ( 5 cháu gái và 7 cháu trai). Các cháu đều 3 tuổi và có sức khoẻ tốt, các chỉ số tâm sinh lý bình thường. Bên cạnh đó tôi cũng tìm hiểu thêm về hoàn cảnh gia đình của các cháu có cháu thì hoàn cảnh gia đình khá thuận lợi, có cháu thì có khó khăn về kinh tế và tình cảm. Bố mẹ các cháu đều làm ruộng và các cháu đều là con em dân tộc nhưng cũng có một số cháu bố mẹ là cán bộ nhà nước. Chính vì vậy, có ảnh hưởng nhiều đến việc rèn luyện cũng như dạy trẻ phát âm chính xác, mạch lạc. Bên cạnh đó là nhiều bậc phụ huynh chưa phát âm chuẩn để luyện trẻ, thậm chí các bậc phụ huynh người dân tộc thiểu số còn nói nghĩ thành nghí và mỡ thành mớ nên con em của họ mắc lỗi nói ngọng rất nhiều. 16 Sau đây là danh sách các cháu điều tra: STT HỌ VÀ TÊN G.TÍN H NGÀY SINH HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH 1 BÙI HẢI YẾN Nữ 1/10/2000 Cán bộ nhà nước 2 BÙI VĂN CHÂU Nam 27/8/2000 Làm ruộng 3 BÙI THỊ NGUYỆT Nữ 10/8/2000 Làm ruộng 4 BÙI THỊ NGOÃN Nữ 3/11/2000 Cán bộ nhà nước 5 BÙI VĂN DUY Nam 25/9/2000 Làm ruộng 6 BÙI VĂN HUY Nam 17/10/2000 Làm ruộng 7 BÙI THỊ TUYẾT Nữ 19/12/2000 Làm ruộng 8 BÙI THỊ HƯƠNG Nữ 12/9/2000 Làm ruộng 9 BÙI THỊ NGỌC Nữ 15/8/2000 Cán bộ nhà nước 10 BÙI TUẤN ANH Nam 8/11/2000 Làm ruộng 11 BÙI THỊ PHƯƠNG Nữ 22/8/2000 Làm ruộng 12 BÙI VĂN QUANG Nam 20/12/2000 Làm ruộng Như vậy, tính đến tháng 3 năm 2004 cháu có tháng tuổi nhiều nhất là 43 tháng, cháu cùng tuổi ít tháng nhất là 39 tháng. ở đây các cháu cùng độ tuổi nên việc theo dõi đánh giá là rất thuận lợi mặc dù có sự chênh lệch về tháng. Cách đánh giá kết quả về khả năng phát âm của trẻ xếp theo 4 loại đó là: tốt, khá, trung bình, yếu : - Cháu không mắc lỗi : Tốt - Cháu mắc từ 2 -3 lỗi : khá - Cháu mắc từ 4 - 5 lỗi : trung bình 17 - Cháu mắc từ 6 lỗi trở lên : Yếu II. CÁCH TIẾN HÀNH KHẢO SÁT : Việc tìm hiểu đánh giá khả năng phát âm của trẻ là rất cần thiết, để đánh giá được chính xác tôi đã sử dụng các biện pháp sau : - Biện pháp thứ nhất : trò chuyện với trẻ để biết khả năng phát âm của trẻ. - Biện pháp thứ hai : Tôi gọi trẻ lên đọc các bài thơ, ca dao, đồng dao mà cháu thích để nghe phát âm của trẻ. - Biện pháp thứ 3 : Tạo môi trường ngôn ngữ chuẩn để trẻ mầm non được tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái và có hiệu quả như: Trong các góc học tập của trẻ cô nên treo nhiều tranh các con vật, đồ vật, đồ chơi, các loại hoa, loại quả để trẻ gọi tên và nghe khả năng phát âm của trẻ. Mặt khác cô phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong rèn phát âm đúng Tiếng Việt thông qua các bài luyện tập phát âm ở lớp, giáo viên có thể gửi bài về nhà cho phụ huynh phối hợp cùng luyện tập ở nhà cho trẻ. - Biện pháp thứ tư: Cô tạo điều kiện và tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi để trẻ trao đổi, giao tiếp với nhau. Cô quan sát và ghi chép cụ thể để có hướng khắc phục. Sau đây là bảng khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo 3 tuổi như sau : 18 19 III . KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG PHÁT ÂM ĐÚNG CỦA TRẺ MẪU GIÁO 3 TUỔI (MẪU GIÁO BÉ) NHƯ SAU: Cho thấy kết quả phát âm của trẻ như sau : - 2 cháu xếp loại trung bình đạt 17 % - 10 cháu xếp loại yếu đạt 83% Với kết quả trên cho ta thấy khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo 3 tuổi vẫn còn yếu. Song, sự tăng dần về tháng tuổi thì khả năng phát âm của trẻ là hợp lý. Các cháu sinh đầu năm thì số lỗi mắc ít hơn các cháu sinh vào cuối năm. Có những cháu sinh cùng tháng như cháu Bùi Thị Tuyết sinh ngày 19 12 - 2000 và cháu Bùi Văn Quang sinh ngày 20 - 12 - 2000 thì số lỗi phát âm của 2 cháu lại có sự khác nhau. Hay cháu Bùi Thị Nguyệt sinh ngày 10 - 8 2000 và cháu Bùi Văn Châu, Bùi Thị Ngọc cũng sinh cùng tháng 8 năm 2000 nhưng số lỗi phát âm cuả cháu lại có sự chênh lệch do những nguyên nhân sau: Cháu thường xuyên nghỉ học, bố mẹ không quan tâm đến con có đi học hay không. Mặt khác cháu nhút nhát không hay chơi với bạn và cô giáo, ngoài ra còn có những nguyên nhân vì hoàn cảnh gia đình quá phức tạp như bố mẹ bỏ nhau, con sống với ông bà nội nên đứa trẻ ít nói, không chịu tiếp xúc với ai, đặc biệt là với cô giáo thì trẻ sợ và hay khóc khi gặp cô. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan