Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn tiếng anh thcs hiệu quả đa năng của sơ đồ tư duy...

Tài liệu Skkn tiếng anh thcs hiệu quả đa năng của sơ đồ tư duy

.DOC
89
2874
85

Mô tả:

Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ Tên sáng kiến kinh nghiệm: HIỆU QUẢ ĐA NĂNG CỦA SƠ ĐỒ TƯ DUY Phần A: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề: 1. Thực trạng của vấn đề: Học ngoại ngữ thật không dễ chút nào. Như chúng ta đã thấy, tiếng mẹ đẻ đôi lúc các em còn chưa nắm vững ngữ pháp cũng như chưa biết chọn lọc, trau chuốt lời văn, câu chữ vì vậy nhiều học sinh rất chán nản, lơ là trong giờ Ngữ văn huống chi là học tiếng nước ngoài. Là giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng Anh ở bậc THCS trong 5 năm qua, tôi thấy lượng học sinh học yếu ở bộ môn tiếng Anh còn nhiều, chỉ một số ít các em hiểu biết và nói viết lưu loát. Và tôi đã nhận ra một số vấn đề khó khăn chính như sau: 1.1. Thực trạng học của học sinh: a. Không có cơ hội thực hành Tiếng Anh. Mục tiêu chính của một lớp học tiếng Anh theo đường hướng giao tiếp là giúp học sinh có thể giao tiếp bằng ngoại ngữ ngày một tự tin và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đây cũng chính là điều khiến nhiều giáo viên ngoại ngữ đau đầu vì làm thế nào để đạt được mục tiêu ấy lại là một câu hỏi không dễ trả lời. Thực ra trong chương trình sách giáo khoa đã được soạn theo bốn kĩ năng riêng và cũng có băng đĩa để luyện nghe - nói, tuy nhiên có thể do thời lượng bố trí các tiết học, do điều kiện vật chất của các trường, hoặc cũng có thể do thói quen của giáo viên mà việc sử dụng băng đĩa gần như là không được áp dụng thường xuyên trong các trường học, kể cả ở thành thị, chứ không nói gì đến nông thôn. Học sinh chủ yếu chỉ được nghe cô hướng dẫn đọc, nhưng ngay cả cô giáo thì không phải lúc nào cũng đúng. Như vậy khó khăn lớn nhất của học sinh chúng ta khi học tiếng Anh có lẽ là do không Nguyễn Thị Phương 1 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ có môi trường tiếng thực tế. Vì vậy điều then chốt là tạo ra một môi trường tiếng trong lớp học nơi khiến học sinh cảm thấy tự tin khi sử dụng tiếng Anh. Tuy nhiên để làm được điều này thật là không dễ đặc biệt đối với tâm lí chung của học sinh chúng ta là rất ngại nói Tiếng Anh vì sợ sai. Điều này có lẽ do bản tính người Việt dễ xấu hổ, nên sợ nếu nói sai thì bị mọi người cười chê, và tốt nhất là giấu dốt. b. Đa dạng về trình độ học sinh trong lớp. Thật là thách thức cho giáo viên tiếng Anh khi phải giảng dạy ở một lớp học mà trình độ học sinh quá chênh lệch nhau, vì giáo viên sẽ cảm thấy rất khó để có thể tìm được một hoạt động chung cho cả lớp. Điều này đôi khi bất khả thi vì một trò chơi hay bài tập có thể là quá khó nhóm này nhưng lại là quá nhàm chán đối với nhóm khác. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Có lẽ đây là vấn đề không chỉ của riêng ngành giáo dục mà hiện nay cả xã hội cũng đang quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giúp giảm dần khoảng cách về trình độ trong lớp học. Vấn đề nêu trên là khó khăn với không ít giáo viên nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức. c. Học sinh không ghi nhớ lâu những điều đã học. Có rất nhiều ý kiến xung quanh việc học thuộc lòng trong quá trình học ngoại ngữ là xấu hay tốt. Nhưng theo kinh nghiệm và quan sát của rất nhiều giáo viên tiếng Anh, ghi nhớ là một trong những phương pháp học tập rất có hiệu quả, giúp cho học sinh có thể học và sử dụng tiếng Anh một cách nhuần nhuyễn và chính xác. Sự ghi nhớ được vận dụng một cách hợp lý có thể giúp học sinh hệ thống hóa những gì mà họ đã được học để áp dụng vào việc Nguyễn Thị Phương 2 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ giao tiếp thực sự. Bản chất của quá trình học tiếng Anh là học thuộc lòng các luật ngữ pháp, các cấu trúc câu, các từ vựng và nghĩa của chúng. Như thế đủ thấy việc ghi nhớ, khắc sâu kiến thức trong quá trình học ngoại ngữ là quan trọng đến như thế nào. Mỗi học sinh sử dụng sự ghi nhớ theo rất nhiều cách, từ việc học thuộc ý cho đến việc chép lại bài nhiều lần. Ví dụ một học sinh đã sử dụng sự ghi nhớ như một chiến lược học từ mới. Em tra trong từ điển các từ mới, viết chúng và nghĩa của chúng bằng tiếng Việt vào một quyển vở sau đó ghi nhớ nội dụng của quyển vở đó. Kết quả là học sinh đó đã học được rất nhiều từ. Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa là chúng ta tán đồng cách học thuộc lòng như vẹt mà không hiểu gì. Ghi nhớ có hai cách: cách thứ nhất như tôi đã nói - học như vẹt. Học sinh có lẽ sẽ rất thuộc bài, sẽ nói làu làu như cháo chảy nhưng khi được hỏi đến những vấn đề liên quan thì không trả lời được. Hoặc chỉ cần quên một ý hay một câu trong bài là họ sẽ quên hết cả bài đó. Cách ghi nhớ này hoàn toàn thụ động và quá lệ thuộc vào từng câu từng chữ của bài. Tuy nhiên, cách nhớ thứ hai mà tôi muốn đề cập ở đây chính là một phương pháp học hiệu quả, phương pháp này cũng gần giống như cách học thuộc lòng nhưng phải có sự hiểu sâu về vấn đề được học đồng thời biết vận dụng nó một cách linh hoạt vào trong giao tiếp. Học phải biết ghi nhớ các điểm chính, các từ chủ điểm rồi từ đó suy ra những vấn đề nhỏ hơn và hiểu rằng mình đang học cái gì. Cách ghi nhớ này giúp cho những thông tin cần thiết được lưu lại trong não một cách hệ thống và được sử dụng có hiệu quả trong những ngữ cảnh phù hợp. d. Học sinh không hứng thú với việc học tiếng Anh. Không chỉ riêng học sinh mà tất cả những người học tiếng Anh đều muốn nói được tiếng Anh một cách trôi chảy. Họ sẽ cảm thấy rất sung sướng khi nghĩ rằng mình có thể làm được điều đó. Thế nhưng họ thường không quan tâm đến chính bản thân quá trình học tiếng Anh. Đối với phần lớn học sinh thì việc học tiếng Anh là một điều gì đó các em bị bắt buộc phải làm chứ các em không hề muốn. Học tiếng Anh lúc này đối với học sinh là một nghĩa vụ, và chính điều đó khiến cho các em cảm thấy không thoải mái khi học tiếng Anh. Nói ngắn Nguyễn Thị Phương 3 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ gọn, phần lớn học sinh đều muốn nói được tiếng Anh trôi chảy nhưng lại không thích học. Đây chính là thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất mà một người dạy lẫn người học tiếng Anh phải đối mặt, bởi vì khi một người không thích học tiếng Anh thì chắc chắn sẽ không thể học nó tốt được. “If you don’t love English, English won’t love you back”. Chính vì vậy trách nhiệm của người giáo viên dạy tiếng Anh là phải tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp nhằm khơi gợi niềm đam mê học tiếng Anh của học sinh, để các em nhận ra rằng: Nếu muốn trở thành một người học tiếng Anh thành công, thì cần phải quan tâm đến bản thân chính quá trình học tiếng Anh của mình e. Học sinh lười tư duy, tìm tòi mở rộng kiến thức. Mọi người đều có kỹ năng tư duy, nhưng không phải ai cũng dùng nó một cách có hiệu quả. Kỹ năng tư duy có hiệu quả khó đạt được ngay nhưng có thể phát triển dần dần. Người có tư duy tốt sẽ thấy được lối ra trong khi người tư duy kém chỉ thấy toàn ngõ cụt. Hiện nay tình trạng học sinh chúng ta thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức ở các nhà trường vẫn còn phổ biến. Các em lười tìm tòi, tư duy, mở rộng kiến thức mặc dù các em đang sống trong xã hội hiện đại biến đổi rất nhanh, với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão. Chính vì vậy đã có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực ra đời, trong đó người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn cho học sinh phương pháp tư duy, tìm tòi tự học. f. Học sinh không thích phát biểu trong giờ học. Theo quan điểm của một nhà giáo cho rằng: Không có trò dốt mà chỉ có trò chưa giỏi và nhiệm vụ là của người thầy. Nguyễn Thị Phương 4 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ Đối với những người thầy giỏi luôn biết cách tạo ra sự sôi nổi cho lớp học, còn những thầy mà yếu kém và kiến thức chưa sâu thì dạy sẽ nhàm chán ngay. Giảng dạy giống như hoạt động nghệ thuật của một nghệ sĩ đòi hỏi người thầy phải tìm tòi và sáng tạo. Đặc biệt với thời đại Internet, nghĩa là kiến thức toàn cầu cho nên giáo viên đừng có nghĩ chỉ cần một số quyển sách là đáp ứng được giảng dạy. Người thầy cần phải luôn tìm hiểu cập nhật những kiến thức mới để tạo ra sự hứng thú đối với học sinh. Chính vì vậy để một tiết học sôi nổi thì phương pháp và khả năng xây dựng bài giảng của giáo viên đóng vai trò rất quan trọng, một môn học không làm các em hứng thú thì đương nhiên là các em sẽ không muốn phát biểu. 1.2. Thực trạng dạy của giáo viên: a. Trình độ, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ còn yếu: Theo Xukhomlinxki thì người giáo viên cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm, có khả năng dùng lời nói để tác động đến tâm hồn học sinh, có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và cảm thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người. Rõ ràng những tiêu chí trên dành cho giáo viên là luôn luôn cần trong mọi thời đại. Tuy nhiên hiện nay năng lực giáo viên ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Theo kết quả đánh giá của các tổ chức quốc tế như Hội đồng Anh, Trung tâm giáo dục Apollo về trình độ tiếng Anh theo tiêu chuẩn quốc tế của 20 nước được khảo sát thì học sinh Việt Nam xếp thứ 8/20 về khả năng viết và đọc, nhưng lại xếp thứ 18-19/20 về khả năng nghe, nói. Trong khi đó giáo viên ngoại ngữ còn nói tiếng Anh theo giọng Việt nên người nước ngoài nghe câu hiểu câu không. Chính vì vậy thì làm sao học sinh chúng ta có thể học tốt được. Có lẽ xuất phát từ thực tế đó mà Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển đã từng chia sẻ rằng: khó khăn lớn nhất của đề án ngoại ngữ quốc gia là thiếu giáo viên có chất lượng và mỗi giáo viên phải nhận thức được rằng yếu về năng lực là còn nợ với học sinh. b. Chưa có phương pháp dạy học phù hợp: Xét trên một phương diện nào đó có thể thấy rằng mọi phương pháp dạy học đều có chung mục đích là làm sao cho Nguyễn Thị Phương 5 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ người thầy và người học thấy được ngôi trường mình đang học và giảng dạy chính là ngôi nhà thứ hai của mình, thấy được sự ấm áp trong quan hệ thầy trò, không có sự áp đặt và là nơi để học sinh phát huy được khả năng sáng tạo, tư duy của mình. Ở đó học sinh thấy được sự hứng khởi để tìm tòi cái mới, nhận được sự đồng thuận và khuyến khích nơi giáo viên cũng như tập thể nhà trường. Trong giai đoạn hiện nay, mỗi trường đều có những phương pháp dạy học riêng để đạt được hiệu quả trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên, chung quy lại thì vấn đề lớn nhất ở đây chính là phương pháp tiếp cận của giáo viên đối với học sinh còn rất hạn chế, còn quá cứng nhắc dẫn đến sự buồn chán trong việc dạy và học tại các nhà trường. c. Lương cho giáo viên chưa đáp ứng được với mức sống hiện tại: Mấy năm gần đây ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng để từng bước triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Từ “Nói không với tiêu cực trong thi cử” và “Nói không với việc chạy theo thành tích” mà ngành giáo dục thường gọi “hai không” tiếp sau đó là “nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo; nói không với ngồi nhầm lớp; nói không với đào tạo không theo nhu cầu xã hội... Và đến bây giờ là cải tiến phương pháp giảng dạy của giáo viên... Tuy nhiên một vấn đề quan trọng nữa gắn liền với chất lượng giáo dục cũng đã được nhắc nhiều lần nhưng chưa giải quyết được bao nhiêu, đó là: lương cho giáo viên. Thật vậy, lương cho giáo viên quá thấp, chưa đáp ứng được với mức sống hiện tại. Giáo viên ngoài giờ dạy ở trường phải làm những công việc khác nhau để tăng thu nhập và phổ biến nhất là mở các lớp dạy thêm ở nhà. Do vậy việc đầu tư vào giảng dạy, nâng cao kiến thức sẽ giảm dần hiệu quả và cứ thế những kiến thức của thầy giáo truyền từ năm này qua năm khác vẫn thế, không có gì thay đổi hoặc thay đổi rất ít. Đây là những vấn đề trọng tâm mà tôi muốn đề cập trong phần nội dung của giải pháp mới. Qua đó nhằm trình bày giải pháp mới phần nào giúp khắc phục tình trạng dạy và học tiếng Anh ở các nhà trường hiện nay. Nguyễn Thị Phương 6 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ 2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới: 2.1. Ý nghĩa: Việc học và sử dụng tiếng Anh đòi hỏi cả một quá trình luyện tập cần cù sáng tạo của cả người học lẫn người dạy, đặc biệt trong tình hình cải cách giáo dục như hiện nay. Việc dạy theo phương pháp đổi mới chú trọng nhiều đến tính tự tin, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện để các em tư duy, chủ động thực hành tiếng Anh, nắm bắt nhanh và khắc sâu được lượng kiến thức đã học. Dĩ nhiên để cho ra đời những “ sản phẩm” hoàn mĩ như vậy thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng. Có người đã từng nói rằng: Người thầy đứng trên bục giảng giống như một diễn viên trên sân khấu. Chính vì vậy phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác dụng rất lớn đến quá trình học của học sinh. Xuất phát từ quan điểm đó, tôi cho rằng phương pháp dạy học tích cực sử dụng “ SƠ ĐỒ TƯ DUY” là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất đáp ứng được yêu cầu của việc giảng dạy tiếng Anh trong thời đại mới. 2.2. Tác dụng: Phương pháp dạy học tích cực sử dụng “sơ đồ tư duy” có tác dụng tối ưu trong việc thu hút mọi đối tượng học sinh vào bài học, kích thích khả năng tư duy, sáng tạo, sự tự tin của học sinh và giúp họ dễ dàng nắm bắt cũng như khắc sâu được lượng kiến thức đã học. Hơn thế nữa sơ đồ tư duy có thể được áp dụng hiệu quả ở bất kì giai đoạn nào trong một bài học hay bất kì dạng bài tập nào. Chính vì lẽ đó người dạy cần tích cực chủ động trong việc sử dụng phương pháp dạy học này để giúp tiếng Anh dần trở thành người bạn thân thiết của mỗi học sinh. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Phương pháp dạy học tích cực sử dụng “ Sơ đồ tư duy” là phương pháp mới, chỉ vừa được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo cũng như Sở Giáo Dục và Đào Tạo triển khai, áp dụng trong đầu năm học 2011 – 2012. Chính vì thời gian ngắn như vậy nên trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu, cập nhật và áp dụng sơ đồ tư duy trong một số dạng bài của môn tiếng Anh cho học sinh khối lớp 8 tôi đang dạy trong phạm vi trường. Nguyễn Thị Phương 7 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ II. Phương pháp tiến hành: 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn: 1.1. Cơ sở lý luận: Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã và đang thực hiện chính sách mở cửa nhằm hội nhập với cộng đồng thế giới trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, thương mại, du lịch, giáo dục, v.v… Trong đó Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh nhân văn hóa tiến trình toàn cầu hóa, biến toàn cầu hóa thành điều có ý nghĩa đối với từng con người với tất cả các quốc gia. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng của mỗi đất nước và tạo cơ hội học tập cho mỗi người dân. Giáo dục suốt đời trở thành đòi hỏi và cam kết của mỗi quốc gia. Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp tục được thay đổi nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trường, cung cấp các tri thức hiện đại, đáp ứng được yêu cầu mới phát sinh của nền kinh tế.Với cơ chế mở cửa đó ở nước ta thì ngoại ngữ đã trở thành phương tiện vô cùng quan trọng vì một triết gia đã từng nói rằng “ Biết thông thạo một ngoại ngữ giống như bạn có thêm một con người mới”. Chỉ có ngoại ngữ mới có thể giúp chúng ta tiếp cận với thể giới văn minh, trao đổi văn hóa và nối vòng tay hữu nghị toàn cầu. Chính vì vậy, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã xây dựng đề án dạy ngoại ngữ giai đoạn 2008-2020 và Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã từng nhấn mạnh, đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 nhằm chuyển từ việc dạy ngoại ngữ như một môn học sang dạy như một công cụ để sống, làm việc và hội nhập quốc tế, biến ngoại ngữ từ điểm yếu thành điểm mạnh của Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu đó tiếng Anh đã trở thành ngoại ngữ số một được dạy ở nước ta và việc dạy cũng như học tiếng Anh ở các trường THCS cũng đã có những chuyển biến rõ rệt. Tiếng Anh đã trở thành một trong ba môn thi bắt buộc trong các kì thi tốt nghiệp THCS và THPT. Tiếng Anh đã được phủ kín các trường ở khắp nơi kể cả Nguyễn Thị Phương 8 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ vùng sâu, vùng xa. Thậm chí hiện nay hầu hết các trường tiểu học đã đưa môn này vào để các em làm quen và tạo thuận lợi để các em học tốt hơn sau này. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Song song với những thay đổi đó cũng đặt nhà trường Việt Nam trước nhiều thách thức trong việc trang bị kỹ năng ngoại ngữ cho người học để đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của thị trường lao động trong thời kì mới. Nếu trước đây mục tiêu chủ yếu của việc dạy và học ngoại ngữ là đọc hiểu để phục vụ nghiên cứu văn học và khoa học kĩ thuật thì ngày nay thực tế xã hội đã đòi hỏi đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ ở Việt Nam phải đổi mới phương pháp giảng dạy, áp dụng việc dạy ngôn ngữ theo đường hướng giao tiếp nhằm tăng cường năng lực giao tiếp cho người học. Trong tiến trình chung này, những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa theo đường hướng giao tiếp dành cho bậc học phổ thông chú trọng vào việc rèn 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết cho học sinh. Tuy nhiên bộ môn tiếng Anh là một bộ môn khó và tương đối khô khan đối với học sinh trong việc tiếp thu kiến thức mới, hiểu và nắm được nội dung chủ đề của bài đọc, từ vựng, cấu trúc mới,…Vì thế đa số học sinh không nắm được bài trở nên chán nản, thụ động trong giờ học. Trước tình hình đó, là giáo viên tiếng Anh tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để mang lại cho học trò những bài học thật thú vị, mới mẻ, kích thích sự ham học, tính chủ động của các em từ khá giỏi đến yếu kém, làm sao sau mỗi bài học không chỉ học sinh khắc sâu kiến thức, ấn tượng, nhớ mãi mà còn giúp các em tự tin, chủ động dần lên. Có nhiều phương pháp dạy học được triển khai hàng năm nhằm nâng cao chất lượng bộ môn nhưng có lẽ phương pháp dạy học tích cực bằng cách sử dụng “ SƠ ĐỒ TƯ DUY” làm tôi tâm đắc nhất. Với sơ đồ tư duy , tôi có thể vận dụng trong bất cứ giai đoạn nào của một bài học, lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh tham gia, làm cho các em mất dần cảm giác sợ cũng như chán nản với môn học này và đặc biệt còn kích thích được sự tư duy, tính tò mò, khả năng tìm tòi mở rộng kiến thức của các em. Điều này là rất quan Nguyễn Thị Phương 9 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ trọng bởi vì theo Margaret Mead "Không nên dạy cho trẻ em những gì chúng phải suy nghĩ, mà dạy cho chúng cách suy nghĩ”. 2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp: 2.1. Biện pháp tiến hành: Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng một số biện pháp như sau: - Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng thường xuyên của ngành trong các dịp bồi dưỡng chuyên môn và đặc biệt qua tập huấn phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực từ năm 2011 và phương pháp dạy học sử dụng “sơ đồ tư duy” năm 2011- 2012. - Tham khảo các bài viết trên mạng về việc sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy - Tham khảo ý kiến của đồng nghiệp - Nghiên cứu tài liệu (sách giáo khoa và bài tập môn tiếng Anh lớp 8, hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tiếng Anh THCS – Vũ Thị Lợi, lập bản đồ tư duyCông cụ tư duy tối ưu sẽ làm thay đổi cuộc sống của bạn- Tác giải Tony Buzan) - Thông qua thực tế áp dụng sau gần một năm của bản thân - Điều tra, phân tích, tổng hợp tình hình học tập của học sinh. Trước tình hình học tiếng Anh ở nhà trường như vậy, tôi đã thống kê kết quả của học sinh khối lớp 8 sau đợt khảo sát chất lượng đầu năm 2011- 2012 ở trường tôi như sau: Kết quả khảo sát: Lớp Ss Giỏi Khá 8A1 33 SL 2 8A2 35 2 5.7 6 8A3 32 1 3.1 5 Nguyễn Thị Phương % 6.1 SL 5 % 15. 2 17. 6 15. 6 Tb SL 7 8 9 10 % 21. 2 22. 9 28. 2 Yếu Kém Tb↑ SL 2 % 6.1 SL 1 % 3.4 SL % 17 51.5 1 2.9 1 2.9 18 51.4 1 3.1 0 0 16 50.0 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ 8A4 35 1 2.9 5 TC 135 6 4.4 21 14. 3 15. 6 9 33 22. 9 24. 4 2 5.7 1 2.9 18 54.3 6 4.4 3 2.2 69 51.1 Từ kết quả trên cho thấy khả năng học tiếng Anh của các em không đồng đều: Học sinh giỏi, khá chưa nhiều, số lượng trung bình yếu vẫn còn chiếm tỉ lệ khá cao. Vì vậy tôi đã tích cực áp dụng một số kinh nghiệm về việc sử dụng Sơ Đồ Tư Duy trong việc giảng dạy ở môn Tiếng Anh lớp 8. 2.1. Thời gian tạo ra giải pháp: Ngay từ khi tập huấn và tiến hành áp dụng “sơ đồ tư duy” trong giảng dạy, tôi đã có ý tưởng nghiên cứu sâu sắc hơn về tính hiệu quả của việc dạy học theo “sơ đồ tư duy”. Vì vậy tôi đã lập kế hoạch thời gian để nghiên cứu đề tài này như sau: - Tháng 8/ 2011: Dự lớp tập huấn về phương pháp dạy học sử dụng “sơ đồ tư duy”. - Tháng 9/ 2011: Chọn đề tài và tiến hành khảo sát đầu năm của khối 8 để lấy số liệu làm minh chứng trong quá trình dạy học áp dụng “sơ đồ tư duy”. - Tháng 10 và 11/ 2011: .Tìm hiểu thực tế việc giảng dạy của giáo viên trong và ngoài trường về dạy học áp dụng ‘sơ đồ tư duy”. . Trao đổi chất vấn giáo viên và học sinh về tính hiệu quả của dạy và học sử dụng “sơ đồ tư duy”. . Nghiên cứu tài liệu có liên quan về nội dung của đề tài. - Tháng 1 và 2/ 2012: - Tháng 3/ 2012: Nguyễn Thị Phương Thu thập thông tin, minh chứng tài liệu để viết thô đề tài. Tiến hành viết tinh và đăng ký dự thi cấp trường và cấp phòng. 11 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ Phần B: NỘI DUNG I. Mục tiêu: Ý thức được tầm quan trọng của tiếng Anh - một ngôn ngữ quốc tế - hầu hết các bậc phụ huynh hiện nay đều cho con mình học tiếng Anh ngay từ nhỏ. Tuy nhiên không phải học sinh nào cũng có điều kiện học tốt như nhau và đặc biệt là môi trường để sử dụng tiếng Anh. Vì vậy để đạt được mục tiêu cuối cùng : dạy ngoại ngữ để giao tiếp ngoài xã hội, thì trong mỗi lớp học phải là một “xã hội thu nhỏ”, giúp học sinh có được những kiến thức ngôn ngữ, tư duy nhạy bén, khả năng xử lý tình huống linh hoạt và đặc biệt là sự tự tin trước mọi người. Vì vậy, trong đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu tính hiệu quả của việc sử dụng sơ đồ tư duy nhằm đạt được những mục đích sau: - Phân tích so sánh về thực trạng trong quá trình dạy và học chưa áp dụng sơ đồ tư duy với việc dạy và học áp dụng sơ đồ tư duy. - Phân tích và chứng minh những điểm mới, điểm sáng của giải pháp mới nhằm mục đích thay thế những phương pháp cũ đã áp dụng. - Nêu cụ thể khả năng áp dụng của giải pháp mới nhằm đem lại hiệu quả trong quá trình dạy và học Tiếng Anh ở đơn vị. - Chứng minh những giải pháp mới có lợi ích cao để có thể đạt đến mục tiêu của quá trình dạy và học ngoại ngữ cũng như chứng minh tính hiệu quả, chất lượng của phương pháp dạy học áp dụng “sơ đồ tư duy”. II. Mô tả giải pháp của đề tài: 1. Thuyết minh tính mới: 1.1/ Sơ đồ tư duy là gì? Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là phương tiện ghi chép Nguyễn Thị Phương 12 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ sáng tạo và hiệu quả, trong đó nó mở rộng, đào sâu, kết nối các ý tưởng và bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng MÔ TẢ SƠ ĐỒ TƯ DUY 1.2/ Cách tiến hành vẽ sơ đồ tư duy: - Viết chủ đề ở phần trung tâm, hoặc có thể dùng một hình ảnh để thể hiện chủ đề. - Từ chủ đề trung tâm vẽ các nhánh chính thể hiện các chủ đề nhỏ liên quan.Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề. Nhánh và chữ viết phải cùng một màu và sử dụng các thuật ngữ quan trọng, ngắn gọn để viết trên các nhánh. - Từ mỗi chủ đề nhỏ lại tìm ra những yếu tố/nội dung liên quan. - Sự phân nhánh cứ tiếp tục và các yếu tố/nội dung luôn được kết nối với nhau. Sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về chủ đề lớn một cách đầy đủ và rõ ràng 1.3 Vận dụng” sơ đồ tư duy” trong các dạng bài cụ thể: a/ Áp dụng “ Sơ đồ tư duy” vào phần kiểm tra bài cũ học sinh: Kiểm tra bài cũ là một khâu trong chuỗi công việc của người giáo viên ở lớp học. Mục đích là để đánh giá việc nắm kiến thức và kỹ năng vận dụng kiến thức của Nguyễn Thị Phương 13 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ học sinh với những bài đã học. Qua đó người giáo viên cũng tìm cách điều chỉnh trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên làm thế nào để việc kiểm tra bài cũ không trở thành một nỗi ám ảnh, thậm chí khiếp sợ đối với học sinh. Trái lại các em cảm thấy đó là cơ hội để mình thể hiện khả năng trước bạn bè và thầy cô. Chỉ có làm được điều đó thì học sinh mới có hứng thú với môn học. Mà khi các em đã yêu thích, hứng thú môn học thì chất lượng chắc chắn sẽ cao. Chính vì vậy tôi đã dùng hình thức kiểm tra bài cũ bằng cách vừa vẽ sơ đồ tư duy vừa trình bày, sau đó dựa vào sơ đồ tư duy tôi hỏi các em một vài vấn đề liên quan . Với phương pháp này, tôi vừa có thể kiểm tra việc nhớ từ vựng, nội dung bài học vừa tạo cho các em cơ hội sử dụng, thực hành nói tiếng Anh. Đồng thời qua đó các em cũng sẽ dần dần tự tin lên, không còn sợ khi phải nói tiếng Anh trước mọi người. * Trường hợp1: Dùng sơ đồ tư duy kiểm tra khả năng đọc hiểu : Khi dạy xong Unit 10: RECYCLING phần “ Listen and Read”, tiết sau tôi yêu cầu học sinh trình bày về cách bảo vệ môi trường và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên dưới dạng sơ đồ tư duy. Như vậy các em phải trình bày như sau: Nội dung chính : “ How to protect the environment and save natural resources”. Nhánh cấp1: Reduce Nhánh cấp2: Reuse Nhánh cấp3: Recycle Nguyễn Thị Phương 14 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ - Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để giải thích cho ba nội dung trên. - Sau khi các em trình bày xong nội dung trên, tôi có thể hỏi vài câu hỏi về nội dung của sơ đồ Ví dụ: . What does “reduce / recycle” mean? . What things can we reuse? Mô tả sơ đồ hoàn chỉnh Nguyễn Thị Phương 15 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ * Trường hợp2: Dùng sơ đồ tư duy kiểm tra kiến thức ngữ pháp: Khi học xong UNIT 1: MY FRIENDS phần “Language focus” tôi yêu cầu học sinh dùng sơ đồ tư duy để trình bày các điểm ngữ pháp đã được học. Như vậy các em sẽ phải trình bày như sau: .Nội dung chính: Language focus .Nhánh cấp1: Nguyễn Thị Phương Simple tenses 16 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ .Nhánh cấp2: The structure “…….enough……” - Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung trên. - Sau khi các em trình bày xong nội dung trên, tôi có thể cho các em một vài bài tập liên quan đến các điểm ngữ pháp vừa trình bày. Ví dụ: Give the corect form of verbs: a. Last year, Hoa (come) to school for the first time. b. The sun (rise) in the east and ( set) in the west. c. My father is strong enough ( lift) this box. d. She (be) my friends when I lived here. Mô tả sơ đồ hoàn chỉnh Nguyễn Thị Phương 17 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ * Trường hợp3: Dùng sơ đồ tư duy kiểm tra từ vựng: Sau khi học xong UNIT 3: AT HOME phần “Speak”, thay vì yêu cầu học sinh viết một cách tự do, tôi bảo các em viết từ vựng về các đồ dùng trong nhà theo từng nhóm chủ điểm. Các em sẽ phải trình bày như sau: . Nội dung chính: Furniture Nguyễn Thị Phương 18 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ . Nhánh cấp 1: In the kitchen . Nhánh cấp 2: In the living-room. - Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo liệt kê các từ vựng mà mình đã học - Sau khi các em trình bày xong nội dung trên, tôi yêu cầu các em hãy tưởng tượng về một phòng khách và nhà bếp, rồi dùng các từ vựng vừa viết ra để mô tả lại. Ví dụ:. The rug is under the coffee table. . The dish rack is next to the fridge. Mô tả sơ đồ hoàn chỉnh Nguyễn Thị Phương 19 Trường THCSTT Bình Dương Đề tài: “ Hiệu quả đa năng của SƠ ĐỒ TƯ DUY “ Nguyễn Thị Phương 20 Trường THCSTT Bình Dương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng