Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn tích hợp tư liệu văn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh tro...

Tài liệu Skkn tích hợp tư liệu văn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1945 1954

.DOCX
55
1263
129

Mô tả:

MỤC LỤC MỤC LỤC...................................................................................................... ........... 1 I.Lý do chọn đề tài............................................................................................. ......... 2 II. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp tư liệu văn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam …..……….................... 3 III: Tổ chức thực hiện giải pháp 1. Tư liệu văn học được sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954…………………………………...............................…...... 14 2. Biện pháp sử dụng tư liệu văn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954…........ 16 IV. Hiệu quả của đề tài ………………………………………………………... 28 V. Đề xuất, khuyến nghị và khả năng áp dụng......................................... ......... 31 VI. Tài liệu tham khảo................................................................................... ........... 33 VII. Phụ lục................................................................................................... ........... 35 1 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc, phát triển tư duy cho thế hệ trẻ mà còn góp phần giáo dục cho các em tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc… Cùng với các môn học khác, bộ môn Lịch sử trong trường phổ thông đã góp phần to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đây chính là trọng trách mà Đảng, Nhà nước đã giao cho ngành Giáo dục và Đào tạo, trong đó có bộ môn Lịch sử. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả đó, việc nâng cao chất lượng giáo dục được xem là vấn đề sống còn. Điều này cũng đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ đạo phải: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều” [3, tr. 97]. Trong những năm gần đây, dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng ở trường phổ thông đã và đang đổi mới một cách toàn diện cả về nội dung và phương pháp. Công cuộc đổi mới này đã thu hút toàn thể xã hội vào cuộc. Đảng, nhà nước không ngừng đẩy mạnh đầu tư kinh phí, thu hút nhân tài để xây dựng chiến lược phát triển khả thi. Ngành Giáo dục tiến hành đổi mới chương trình và sách giáo khoa, kiểm tra đánh giá… tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống giáo dục. Các nhà nghiên cứu giáo dục cũng đã tốn nhiều công sức, tâm huyết cho vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều công trình nghiên cứu mới ra đời, nhiều cuộc hội thảo khoa học về phương pháp giáo dục nói chung, phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng được tổ chức công phu để tìm giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng dạy học. Là một giáo viên trung học phổ thông vấn đề làm thế nào để học sinh thích học bộ môn Lịch sử? Làm thế nào để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông luôn là câu hỏi thường trực. Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề “Tích hợp tư liệu văn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP TƯ LIỆU VĂN HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM II.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN II.1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Tích hợp tư liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một vấn đề rộng lớn. Đây không phải là một đề tài mới mẻ mà đã được khá nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới. Căn cứ vào phạm vi cũng như góc độ tiếp cận vấn đề, chúng tôi chia ra làm ba nhóm sau đây: Trước hết, phải kể đến những công trình mang tính lý luận, khái quát cao như: Giáo trình Phương pháp dạy học Lịch sử của các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2002; Phan Ngọc Liên, Trần Vĩnh Tường, Đặng Văn Hồ với Phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998. Về lý luận giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, các nhà giáo dục học xã hội chủ nghĩa trước đây, nhất là ở Liên – Xô (cũ) đã có nhiều đóng góp to lớn. Có thể kể đến những tác giả và các công trình nổi tiếng như: N.G. Đairi với tác phẩm Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1978; I.F. Kharlamôp với Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào?, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1978. Đây là những công trình mang tính lý luận cao, đề cập chuyên sâu đến một số khía cạnh như làm thế nào để phát huy tính tích cực học tập của HS? Làm thế nào để xử lý tốt mối quan hệ giữa sách giáo khoa và bài giảng của GV, giữa việc học trên lớp cũng như tự học? Về vấn đề sử dụng tài liệu Văn học, các công trình nói trên đã đề cập một cách khái quát một số nguyên tắc, yêu cầu chung cũng như những điểm cần lưu ý trong việc sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử. Ở cách tiếp cận gần hơn, cụ thể hơn là các công trình mang tính chuyên khảo. Tác giả Phạm Hồng Việt, khoa Lịch sử - Đại học sư phạm Huế có các công trình: Ca dao lịch sử, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2007; Qua câu đố tìm hiểu lịch sử dân tộc, Hội khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế, 2007; Trần Vĩnh Tường, Các biện pháp sử dụng tài liệu thành văn Việt Nam trong dạy học lịch sử (qua ví dụ dạy học 3 lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 2000) ở trường Trung học phổ thông, Trần Vĩnh Tường, Tư liệu dạy - học Lịch sử 12, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2008. Trên đây là những công trình nghiên cứu chủ yếu có liên quan đến đề tài. Từ tình hình nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng: việc tích hợp tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông được đề cập đến khá nhiều nhưng đều ở những khía cạnh và mức độ nhất định.. Từ thực tế này, đề tài sẽ đi sâu và tập trung vào nghiên cứu vấn đề Tích hợp tư liệu văn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954. Những công trình nghiên cứu nói trên sẽ được tác giả tham khảo để xác định hướng giải quyết các vấn đề lý luận đặt ra. Hy vọng đề tài hoàn thành sẽ đóng góp phần nào về lý luận cũng như thực tiễn cho vấn đề lớn này. II.1.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA TƯ LIỆU VĂN HỌC VỚI TRI THỨC LỊCH SỬ II.1.2.1. Một số khái niệm. Có rất nhiều định nghĩa về văn học. Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống; Văn học là nhân học (Mác - xim Goóc - ky). Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Theo “Từ điển tiếng Việt”, văn học là “nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình tượng để thể hiện đời sống xã hội và con người”.[23, tr. 1079]. Như vậy, dù là định nghĩa nào thì đối tượng của Văn học ở đây là con người và xã hội trong một không gian và thời gian cụ thể. Tài liệu là văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề nào đó. [23, tr. 869]. Như vậy, khái niệm tài liệu có nội hàm rất rộng, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Tài liệu Văn học là những công trình, những tác phẩm Văn học được nhà văn (tác giả) sáng tác nên dưới nhiều hình thức, thể loại khác nhau. Tri thức Lịch sử là những hiểu biết của con người về quá trình phát triển của xã hội loài người cũng như của dân tộc. Tri thức lịch sử gồm nhiều yếu tố như sự kiện lịch sử, các niên đại, địa danh, nhân vật, biểu tượng, khái niệm, quy luật lịch 4 sử. v.v. Trong dạy học Lịch sử, tri thức lịch sử chính là những yếu tố quan trọng nhất để giáo dục tư tưởng chính trị, hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh[13, tr. 138]. II.1.2.2. Mối quan hệ tài liệu Văn học với tri thức Lịch sử. Giữa Văn học và khoa học nói chung, Sử học nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ. Văn học cũng như Sử học đều có đối tượng là con người, là cuộc sống của con người. Đối tượng nghiên cứu của sử học là quá khứ của xã hội loài người. Tuy chức năng, nhiệm vụ của mỗi môn, mỗi ngành khác nhau nhưng cả hai đều có chung mục đích là phục vụ con người, phục vụ cuộc sống. Đặc điểm này chính là cơ sở để các nhà khoa học giáo dục đề ra nguyên tắc “liên môn” trong dạy học. Đối với môn lịch sử, việc dạy học theo nguyên tắc liên môn sẽ làm cho học sinh thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, tính toàn diện của lịch sử[13, tr. 206]. Để có được tác phẩm văn học, tác giả phải thâm nhập tìm hiểu thực tế, nghiên cứu các kiến thức lịch sử liên quan đến bối cảnh của tác phẩm, tìm chất liệu cho việc xây dựng phần hiện thực - tức là thiết kế nên cái “xương sống” của tác phẩm. Sau đó, tác giả dùng các thủ pháp văn học để hoàn thiện công trình của mình thành tác phẩm văn học. Đó chính là phần hư cấu thể hiện lăng kính chủ quan của tác giả. Độ hư cấu của tác phẩm được quy định bởi nhiều yếu tố song chủ yếu tùy thuộc vào thể loại tác phẩm văn học. Ở đây nổi lên ba yếu tố chính cấu thành một tác phẩm văn học mang tính lịch sử: nội dung lịch sử (là chất liệu), ngôn ngữ (là phương tiện) và cách thể hiện (thế giới quan). Hiện thực lịch sử chính là phần sử. Đây chính là yếu tố hết sức quan trọng góp phần làm nên vốn văn hóa của nhà văn. Mặt khác, hiện thực cuộc sống đó cũng chính là đối tượng phản ánh của tác phẩm. Ngôn ngữ và thế giới quan chính là phần văn của tác phẩm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chính tác giả là nhân chứng lịch sử - người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong sự kiện được phản ánh. Do đó trong tài liệu Văn học đã mang yếu tố lịch sử. Hơn thế nữa, cũng có những tác phẩm văn học mà tự bản thân nó là một tư liệu lịch sử hết sức hùng hồn, xác thực như “Hịch tướng sỹ ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh… Đây chính là những áng “thiên cổ hùng văn”, những tuyệt tác bất hủ có giá trị lịch sử cao và sức sống trường tồn bởi tính hiện thực và chính luận của nó. Ở những 5 công trình nói trên, giá trị Văn học và giá trị Lịch sử hòa quyện vào nhau tạo nên sự toàn bích của chính tác phẩm. Đặc điểm nổi bật và xuyên suốt của lịch sử dân tộc ta là lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt để dựng nước và giữ nước. Vì lẽ đó “khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn” (thơ Chế Lan Viên). Như vậy, không chỉ là thời phong kiến mà đến bây giờ và chắc chắn cả trong tương lai, mối quan hệ giữa Văn học và Sử học vẫn là một mối quan hệ hết sức khăng khít. Đặc trưng của khoa học lịch sử là nghiên cứu các sự kiện, nhân vật lịch sử ... đã diễn ra trong quá khứ. Muốn tái hiện lại lịch sử phải dựa vào các loại tài liệu. Vì thế tài liệu càng đầy đủ thì tri thức lịch sử càng chính xác, phong phú, toàn diện và sâu sắc. Nói một cách khác, tri thức lịch sử được soi sáng hơn, được chuyển tải bằng con đường mềm mại hơn thông qua việc sử dụng tài liệu Văn học. Với ý nghĩa đó, việc sử dụng tài liệu Văn học để giảng bài lịch sử trên lớp như cung cấp kiến thức mới, ôn tập, làm bài kiểm tra và hoạt động ngoại khóa... sẽ góp phần quan trọng vào việc khôi phục và làm sáng tỏ lịch sử. Điều đó chính là sự đáp ứng về yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng và phát triển trong việc học tập lịch sử của học sinh hiện nay. Mặt khác, xét từ góc độ chương trình dạy học, chúng ta thấy mối quan hệ gần gũi giữa môn Văn học và môn Lịch sử thể hiện rất rõ nét ở lớp 12 Trung học phổ thông. Không phải ngẫu nhiên mà các tác phẩm văn học nổi tiếng được phân phối ở chương trình lớp 12, tập trung ở học kỳ I. Có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu như Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh); Tây tiến (Quang Dũng); Việt Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi); Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) … Ở bộ môn lịch sử, phân phối chương trình quy định là 1,5 tiết học/ tuần/ năm học. Thông thường, để giành thời gian cho cuối năm ôn tập thi tốt nghiệp và Đại học, học kỳ I được quy định học 2 tiết/ tuần. Theo đó, khóa trình lịch sử từ 1945-1954 nằm gọn trong chương trình học kỳ I. Như vậy, trong một thời điểm (chênh lệch nhau không đáng kể), trong khi học văn, các em được soi sáng bằng những kiến thức lịch sử liên quan đến hoàn cảnh ra đời các tác phẩm, tác giả đang học. Ngược lại, trong khi học sử, các em lại có điều kiện vận dụng những tác phẩm văn học đang học để hiểu lịch sử hơn. Rõ ràng rằng, việc phân phối chương trình hai môn Văn và Sử như hiện tại đã tạo điều kiện để học sinh bổ trợ kiến thức cho nhau rất hữu hiệu. 6 Tài liệu Văn học rất đa dạng, phong phú về thể loại: thơ, phú, hịch, tiểu thuyết, truyện, truyện ký, hồi ký cách mạng…Mỗi thể loại lại có nội dung, nghệ thuật khác nhau. Ở giai đoạn 1945-1954 thì rất thuận lợi cho giáo viên bởi chỉ dòng Văn học kháng chiến phát triển mạnh mẽ. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng nguồn tài liệu Văn học viết với các thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ký, hồi ký, văn chính luận, thư viết trong chiến tranh…Xin điểm qua vài nét về Văn học của một giai đoạn hào hùng trong lịch sử dân tộc. Ở thể loại Văn chính luận đã có những tác phẩm nổi bật: Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh hoặc những bức thư của Người gửi cho học sinh nhân ngày khai giảng đầu tiên dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gửi cho Trung đoàn Thủ đô đang chiến đấu tại Hà Nội Tết Nguyên Đán Đinh Hợi (1947)... Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh... Đây là thể loại có ưu thế rất lớn trong việc dạy học lịch sử bởi chính tác giả là những lãnh tụ của Đảng, nhà nước. Nội dung các tác phẩm lại dề cập đến những vấn đề mang tính lịch sử-thời sự nóng bỏng nhất đang diễn ra. Ở thể loại thơ, sau Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tình yêu quê hương đất nước, lòng căm thù giặc, ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến là cảm hứng chủ đạo. Hình ảnh quê hương, anh Vệ quốc quân, bà mẹ chiến sĩ, những người phụ nữ nơi hậu phương, những người dân công, em bé liên lạc…được khắc họa chân thực, gợi cảm. Những tác phẩm xuất sắc của thơ kháng chiến là Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu) của Hồ Chí Minh, Đèo cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bao giờ trở lại, Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông, Đồng chí của Chính Hữu và đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của nhà thơ lớn Tố Hữu. Bên cạnh đó những nhà thơ cũng diễn đạt những suy nghĩ, tình cảm của mình về cuộc Cách mạng tháng Tám, về lòng yêu nước, về đất nước, về cuộc chiến đấu đang diễn ra: Xuân Diệu có Ngọn Quốc kỳ, Hội nghị non sông, Dưới sao vàng; Chế Lan Viên có Gửi các anh, Nguyễn Bính có Ông lão mài gươm, Đồng Tháp Mười, Trần Mai Ninh có Nhớ máu, Tình sông núi và còn rất nhiều những tác giả, tác phẩm khác nữa. Những năm kháng chiến chống Pháp bắt đầu xuất hiện những bài thơ ca ngợi 7 lãnh tụ Hồ Chí Minh như Sáng tháng Năm (Tố Hữu); Ảnh Cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu) hay Đêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ). II.1.3. Quan niệm về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. II.1.3.1. Tính tích cực trong học tập. Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng: cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát triển như vũ bão với nhịp độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người, thúc đẩy tất cả các lĩnh vực và đang mở ra nhiều triển vọng lớn lao. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi người học phải phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo, lòng say mê học hỏi, ham hiểu biết nhằm đáp ứng được bốn tiêu chí về học tập mà UNESCO đã đề xướng. Chính vì vậy, trong Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII (1996), Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải “đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”[2, tr. 41]. Vậy tính tích cực học tập là gì? “Tính tích cực là trạng thái hoạt động của học sinh, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức”[12, tr. 43]. = Hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, đặc biệt trong tư duy có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh. Trước hết, tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt là trong tư duy sẽ đảm bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức đã được hình thành. Đại văn hào Nga Lép Tôn Xtôi đã viết: “Kiến thức chỉ thực sự trở thành kiến thức khi nó là thành quả của tư duy chứ không phải là trí nhớ”[12, tr. 18]. II.1.3.2. Quan niệm về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Trong một ý nghĩa nhất định, đích đến của việc dạy học là học sinh phải đạt được cả ba yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Theo tổng kết của các nhà lý luận giáo dục, cách dạy học truyền thống trước đây mới chỉ đáp ứng có mức độ hai yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng. Sản phẩm của cách dạy học đó là thế hệ học 8 sinh thụ động, yếu năng lực thực hành, vận dụng và ứng phó với môi trường, thực tiễn cuộc sống dù họ có đủ kiến thức, giàu lòng nhiệt huyết và tinh thần yêu nước. Trong thời đại ngày nay, để đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao thì việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh là một yêu cầu hết sức quan trọng. Đây chính là thước đo về hiệu quả dạy học lịch sử. Trước hết, hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh đảm bảo kết quả lĩnh hội kiến thức, đặc biệt là khả năng lĩnh hội sáng tạo dựa trên cơ sở hoạt động tư duy tích cực, độc lập. Có nhiều con đường, phương pháp khác nhau để phát huy tính tích cực học tập của học sinh như vận dụng trao đổi, đàm thoại, dạy học nêu vấn đề…trong đó phổ biến và có tác dụng lớn nhất là dạy học nêu vấn đề. Cách dạy học này tạo điều kiện cho giáo viên kết hợp nhiều con đường, phương pháp khác nhau để học sinh phát huy mọi khả năng tư duy sáng tạo và khả năng thực hành của mình vào việc tiếp nhận kiến thức.[13, tr. 107]. II.1.4. Ý nghĩa của việc tích hợp tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử. Trước hết, việc tích hợp tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử sẽ giúp học sinh dễ nhớ, dễ khắc sâu kiến thức lịch sử. Đây chính là ý nghĩa giáo dưỡng của việc tích hợp tài liệu văn học. Trong một thời lượng có hạn, với nhiều đơn vị kiến thức cần được hình thành ở các em, nhiều lúc giáo viên chỉ áp dụng biện pháp sư phạm là thông báo. Bởi vậy, trong quá trình dạy học, nếu giáo viên biết tích hợp tài liệu Văn học sẽ rất thuận lợi, vừa đa dạng hóa phương pháp dạy học, vừa nhấn mạnh thêm kiến thức mà học sinh cần ghi nhớ. Học sinh sẽ nhớ và hiểu sự kiện lịch sử hơn nhờ nội dung lịch sử đó được chuyển tải thông qua ngôn ngữ văn học. Mặt khác, tích hợp tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử đúng phương pháp sẽ có tác dụng tăng thêm hứng thú trong việc học tập, trong nhận thức của học sinh. Điều này đã được rất nhiều giáo viên là đồng nghiệp của tác giả cũng như những giáo viên là đối tượng thực nghiệm của đề tài khẳng định (xem phần kết quả điều tra đối với giáo viên). Tài liệu Văn học với đặc trưng vốn có của nó: giàu nhạc điệu, giàu hình tượng đã tỏ ra rất ưu thế đối với người đọc cũng như người nghe. Bản thân Văn học là cách thức, phương pháp sử dụng ngôn ngữ và hình tượng để phản ánh hiện thực thông qua lăng kính của nhà văn. Sau khi tiếp xúc với các sự kiện, con số, nhân vật trong sách giáo khoa và bài giảng của giáo viên, nếu được thưởng 9 thức một tài liệu Văn học liên quan đến sự kiện lịch sử đang đề cập tới, chẳng những việc tiếp thu kiến thức lịch sử sẽ bớt khô khan, được “mềm” hóa rất nhiều mà không khí giờ học trở nên nhẹ nhàng, học sinh rất hứng thú. Học sinh sẽ hiểu được việc nhận thức lịch sử không chỉ thông qua một con đường, một nguồn tài liệu là sách giáo khoa. Thứ hai, sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử sẽ góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm và thái độ cho học sinh. Có thể nói, bộ môn Lịch sử có ưu thế giáo dục hơn bất cứ bộ môn nào khác bởi đặc trưng của nó. Những chiến công oanh liệt của dân tộc ta trong lịch sử chống ngoại xâm, những tấm gương anh hùng bất khuất quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập dân tộc; tấm gương vĩ đại và sáng ngời của lãnh tụ Hồ Chí Minh và biết bao nhiêu hình ảnh đẹp đẽ khác được khắc họa trong các tác phẩm văn học chính là chất liệu hình thành trong các em tình yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc, niềm yêu kính lãnh tụ, lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ và rất nhiều tình cảm khác nữa. Như vậy, sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử góp phần rất đắc lực trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục bởi dạy sử là “dạy chữ nên dạy người”, góp phần đắc lực thực hiện lời dạy “vì lợi ích trăm năm trồng người” của Bác Hồ kính yêu. Thứ ba, sử dụng tài liệu Văn học theo hướng phân tích, so sánh, tập hợp các sự kiện lịch sử … sẽ có tác dụng kích thích học sinh phải động não, góp phần rèn luyện kỹ năng, phát triển tư duy trong học tập; giúp các em hiểu được bản chất của sự kiện, hiểu được mối quan hệ giữa các sự kiện trong một bài, một chương, giữa các giai đoạn lịch sử. Từ đó, rút ra ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi (hoặc thất bại), bài học kinh nghiệm và quy luật lịch sử. Đây là ý nghĩa rất quan trọng của việc sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử, góp phần đánh giá mức độ nhận thức lịch sử của học sinh. II.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN II.2.1. Mục đích điều tra Tác giả đề tài trực tiếp điều tra thực tế dạy học Lịch sử ở các trường phổ thông nói trên để thấy rõ tình hình sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử 10 Việt Nam, từ đó lựa chọn và tập hợp tài liệu tối ưu và đề xuất phương pháp sử dụng tài liệu Văn học một cách hợp lý để đạt hiệu quả mong muốn. II.2.2. Nội dung điều tra Đối với giáo viên, kết hợp dự giờ thăm lớp với các phương pháp khác như phỏng vấn, hỏi chuyện, trả lời phiếu điều tra, tập trung vào một số vấn đề sau: - Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết, mục đích sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử dân tộc nói chung và dạy học Lịch sử Việt Nam nói riêng. - Tình hình sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử nói chung, dạy học Lịch sử dân tộc nói riêng ở trường ta, của cá nhân thầy (cô) cũng như của đồng nghiệp. - Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử. - Phương pháp, cách thức sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử hiện nay của thầy (cô). - Ý kiến đề xuất của giáo viên về việc sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Cũng với cách làm việc như trên, đối với học sinh, chúng tôi tập trung vào một số vấn đề chủ yếu: - Thái độ, tinh thần học tập bộ môn Lịch sử nói chung của học sinh ở trường ta hiện nay (vấn đề 1). - Nhận thức của học sinh về tài liệu Văn học và vai trò của tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử (vấn đề 2). - Mức độ hứng thú và khả năng ghi nhớ của học sinh khi thầy (cô) sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử (vấn đề 3). - Hiểu biết của học sinh về tài liệu Văn học liên quan đến giai đoạn lịch sử 1930 - 1954 (vấn đề 4). II.2.3. Kết quả điều tra  Về phía giáo viên: Về mức độ cần thiết phải sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử dân tộc nói chung và dạy học lịch sử Việt Nam nói riêng, có 8/9 giáo viên (chiếm tỷ lệ 11 89%) cho rằng: nếu sử dụng được tài liệu Văn học để dạy học chắc chắn sẽ hiệu quả hơn bởi tài liệu Văn học phản ánh các sự kiện, hiện tượng lịch sử, sử dụng nó sẽ góp phần làm cho giờ học lịch sử sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em nhận thức bài học lịch sử sâu sắc hơn. Một trong số giáo viên được phỏng vấn, điều tra cho rằng họ chưa tự tin để sử dụng vì mới ra trường, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều. Khi được hỏi về phương pháp, cách thức sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử dân tộc, có 100% giáo viên trả lời rằng họ sử dụng tài liệu Văn học để minh họa, cụ thể hóa sự kiện, nhân vật lịch sử nhằm làm cho nội dung bài học hấp dẫn hơn. Chưa có giáo viên sử dụng tài liệu Văn học để kiểm tra, đánh giá, hay chứng minh một luận điểm khoa học. Hai trong số 9 giáo viên được điều tra (chiếm tỉ lệ 22%) thỉnh thoảng có sử dụng tài liệu Văn học để rút ra nguyên nhân, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm. Với phiếu điều tra Tình hình sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam hiện nay ở các trường Trung học phổ thông nói trên, có gần 90% giáo viên được hỏi có sử dụng tài liệu Văn học, nhưng sử dụng không thường xuyên. Cụ thể, có 3/9 giáo viên (33%) sử dụng thường xuyên và 6/9 giáo viên (66%) thỉnh thoảng có sử dụng tài liệu Văn học. Về nguồn tài liệu tham khảo, điều kiện thư viện của các trường, khi chúng tôi hỏi thầy (cô) trong giảng dạy, việc sử dụng tài liệu Văn học đã gặp những khó khăn và thuận lợi như thế nào? Trong số giáo viên được hỏi, có 5/9 người (56%) cho rằng nhà trường có thư viện và cũng có tài liệu Văn học để tham khảo nhưng không đầy đủ. Nguồn tài liệu Văn học để sử dụng chủ yếu do họ tự sưu tầm. Có 2/9 giáo viên (22%) cho rằng nhà trường có tạo điều kiện trong mức độ và hoàn cảnh cụ thể nhưng các tài liệu còn rất nghèo nàn, thư viện còn rất sơ sài. Khi được hỏi về thể loại tài liệu Văn học mà thầy cô thường sử dụng khi dạy học, đa số giáo viên trả lời chủ yếu là dùng thể loại thơ. Họ cho rằng, sử dụng tài liệu Văn học thể loại văn xuôi phải mất nhiều công sức và thời gian chuẩn bị hơn. Về hình thức tổ chức dạy học, trong số thầy cô được hỏi, có 8/9 giáo viên (89%) trả lời họ sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học nội khóa. Đây là một thực tế phổ biến vì để tổ chức được việc dạy học Lịch sử có sử dụng tài liệu Văn học 12 dưới những hình thức khác còn liên quan đến nhiều yếu tố như kinh phí, quỹ thời gian, sự an toàn….Khi được hỏi tổ bộ môn có đề đạt hình thức dạy học ngoại khóa, dã ngoại không và lãnh đạo trường có tạo điều kiện không, 2/9 giáo viên (22%) khẳng định là có nhưng các trường hợp này lại rơi vào những trường Trung học phổ thông có lãnh đạo là giáo viên dạy Văn hoặc Sử. Một vài giáo viên (thường là cán bộ Đoàn) khẳng định họ đã nhiều lần sử dụng tài liệu Văn học để tổ chức ngoại khóa cho toàn trường hoặc từng khối nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc như ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, ngày Cách mạng tháng Tám thành công 19/08… Nhìn chung, số lượng giáo viên, số lần cũng như hình thức sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử chưa thường xuyên, chưa được chú ý với tư cách là một phương pháp. Với câu hỏi: sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử, thầy (cô) hướng tới mục đích gì ? Có 8/9 giáo viên (89%) trả lời rằng, ý đồ của họ (xuất phát điểm) là nhằm tăng thêm hứng thú, sự chú ý đối với học sinh, làm cho tiết dạy bớt nặng nề, đơn điệu. Đối với các tiêu chí khác như nhằm phát triển năng lực tư duy, nhằm rút ra bài học, quy luật lịch sử thì đa số giáo viên trả lời là chưa thực sự tính đến điều đó. Nhìn chung, vấn đề sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử ở các trường Trung học phổ thông nói trên, ở những giáo viên được điều tra đã được tiến hành nhưng vẫn còn hạn chế.  Về phía học sinh: Chúng tôi tiến hành điều tra 7 lớp 12 của trường THPT Phước Thiền nói trên với số lượng là 310 HS. Kết quả thu được như sau (XEM PHỤ LỤC): Nhìn chung, đại đa số học sinh ở các trường được điều tra vẫn thích học bộ môn Lịch sử. Các em hứng thú hơn, thích học Sử hơn khi thầy, cô sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử. Việc giáo viên sử dụng tài liệu Văn học để dạy học lịch sử đã có tác dụng tích cực là làm cho học sinh hiểu bài hơn. Về phía thầy, cô giáo, vấn đề sử dụng tài liệu Văn học đã được nhìn nhận và đặt ra nhưng chưa được chú trọng và thường xuyên. Đa số giáo viên vẫn coi việc sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử như là một thủ pháp của cá nhân. Thực tế này chính là cơ sở để chúng tôi giải quyết các vấn đề mang tính lý luận ở chương tiếp theo. 13 III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP. III. 1.TƯ LIỆU VĂN HỌC ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945-1954 III.1.1. Đặc điểm của khóa trình Lịch sử Việt Nam 1945- 1954 trong chương trình Lịch sử lớp 12 Trung học phổ thông (chương trình chuẩn) Giai đoạn 1945-1954(Từ sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến ngày 21-7-1954).Giai đoạn lịch sử này có những nội dung lớn cơ bản sau. - Sau khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn thử thách, nhân dân ta vừa xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính, vừa đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản, bảo vệ chính quyền từ cuối năm 1946, chống thực dân Pháp mở rộng cả nước. - Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) tiến hành trong điều kiện nước ta có độc lập và chính quyền. Vì vậy, kháng chiến và kiến quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kì này: + Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, và từ năm 1950 chống cả sự can thiệp của Mĩ, trải qua nhiều giai đoạn với các mốc chiến tháng Việt Bắc - ThuĐông 1947, chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, chiến thắng trong Đông - Xuân 1953-1954. Điện Biên Phủ là trận chiến thắng quyết định đưa đến kí kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương kết thúc chiến tranh. + Kiến quốc nhằm xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân sinh, tạo điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh kết thúc. III.1.2. Phân loại tư liệu Văn học được sử dụng theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 III.2.1. Thể loại văn xuôi - Văn chính luận là thể văn phân tích, bình luận các vấn đề chính trị, xã hội đương thời. Vì vậy, thể loại này mang tính hiện thực rất cao., Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và nhiều tác phẩm khác của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xét về giá trị lịch 14 sử thì đây là những văn kiện, tài liệu gốc trực tiếp liên quan đến sự kiện, xuất hiện đồng thời với sự kiện lịch sử diễn ra. - Tiểu thuyết lịch sử là một thể loại tác phẩm Văn học khai thác về chủ đề lịch sử, thường đề cập đến những sự kiện, nhân vật tiêu biểu. Vì lẽ đó, đây là một loại tài liệu tham khảo khá quan trọng, cần khai thác trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, khi sử dụng, giáo viên phải nắm vững cốt lõi, hiểu đúng sự kiện, hiện tượng lịch sử, không để bị chi phối bởi phần hư cấu của nhà văn. Tiêu biểu cho thể loại này ở giai đoạn lịch sử liên quan là Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc. - Truyện, ký sự và truyện ký là các thể thể loại phổ biến trong giai đoạn này. Với chủ trương văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận kháng chiến nên những nhà văn đồng thời là những chiến sĩ Vệ quốc đã có mặt trên mọi nẻo đường đất nước, trong từng chiến dịch lịch sử, ghi chép (ký) lại mọi khía cạnh của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Vì vậy, đây là những thể loại có giá trị lịch sử cao. - Hồi ký cách mạng là những ghi chép trên cơ sở nhớ lại những sự việc đã trải qua của những người trực tiếp tham gia, chứng kiến sự kiện. Tác giả là những chiến sĩ cách mạng, thông thường là những nhà lãnh đạo. Đây là thể loại có giá trị lịch sử. Tiêu biểu cho thể loại này là những tác phẩm Những năm tháng không thể nào quên, tổng hồi ký Điện Biên Phủ. - Thư viết trong kháng chiến là một dạng nhật ký của những chiến sĩ Vệ quốc. Đây là những bức thư tác giả viết cho người thân ở hậu phương kể lại chuyện chiến trường mà mình đã trải qua đồng thời bày tỏ niềm thương nỗi nhớ của chính mình cũng như khát vọng độc lập, đoàn tụ. Đây là những tư liệu quý nằm rải rác ở trong nhân dân, sau này được các nhà báo, nhà nghiên cứu sưu tầm, biên tập và công bố với sự đồng ý của người sở hữu (giống như nhật ký của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc thời chống Mỹ). Vì lẽ đó, loại tài liệu Văn học cũng rất có giá trị nếu khai thác và sử dụng đúng phương pháp. III.1.2. Thể loại thơ, ca - Thơ Hồ Chủ tịch được viết trong kháng chiến chống Pháp không nhiều nhưng đã phản ánh rất cô đọng, đầy đủ tinh thần của cuộc kháng chiến “thần thánh” 15 mà Người là kết tinh cao cả. Đó là tinh thần chủ động, lạc quan và niềm tin kháng chiến nhất định thắng lợi. - Thơ của các nhà thơ đương thời là một “vườn thơ” hết sức phong phú và rực rỡ. Có thể nói đây là thể loại phản ánh một cách sâu sắc và toàn diện nhất về con người kháng chiến và cuộc sống kháng chiến. Các nhà thơ Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Quang Dũng…đã để lại nhiều bài thơ đặc sắc, trong đó, Việt Bắc của Tố Hữu là một nhành hoa tươi thắm nhất, là đỉnh cao của dòng văn học kháng chiến chống Pháp. - Ca dao kháng chiến là loại văn vần, chủ yếu bằng thể thơ lục bát khuyết danh, được sáng tác theo lối tức cảnh. Đó là những đóa hoa đồng nội nhiều màu, nhiều vẻ, mùi hương thoang thoảng rất đượm .Đó là những “vần thơ báng súng” của anh bộ đội, là “câu hò tiếp vận” của chị dân công - những viên ngọc quý như lời ngợi khen của Hồ Chủ tịch. III.1.4. Bảng thống kê các nhóm tài liệu Văn học có ưu thế trong việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954( XEM PHỤ LỤC 2) III.2. BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TƯ LIỆU VĂN HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945-1954 III..2.1. Sử dụng tài liệu Văn học để xây dựng biểu tượng lịch sử Xây dựng biểu tượng lịch sử nói chung, biểu tượng nhân vật lịch sử nói riêng là yêu cầu mang tính bắt buộc trong dạy học lịch sử. Đặc trưng của bộ môn lịch sử rất có ưu thế trong việc này, đặc biệt càng thuận lợi hơn khi kết hợp với việc sử dụng tài liệu Văn học. Trong giai đoạn lịch sử 1930 -1954 có rất nhiều biểu tượng lịch sử cần phải xây dựng cho học sinh để các em hiểu sâu sắc hơn về một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc: biểu tượng về một dân tộc Việt Nam đoàn kết, quật khởi trong Cách mạng tháng Tám 1945, biểu tượng chiến sỹ Cộng sản trong tù, biểu tượng về anh bộ đội Cụ Hồ, đặc biệt là biểu tượng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh…v.v… Khi giảng bài 18 - Những năm dầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954), tại mục 2 (IV) - Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, 16 để xây dựng biểu tượng Bác Hồ trực tiếp ra trận để động viên bộ đội và chỉ đạo chiến dịch, giáo viên sử dụng những đoạn tài liệu Văn học sau đây: Người Cha mái tóc bạc Đốt lửa cho anh nằm Rồi Bác đi dém chăn Từng người, từng người một. Sợ cháu mình giật thột, Bác dón chân nhẹ nhàng.[20, tr. 30] Đồng thời kể cho các em nghe câu chuyện Bác Hồ từ chối đi ngựa ra chiến dịch để cùng với bộ đội “chống gậy lên non xem trận địa”, dành ngựa để thồ hàng và chở người đau yếu. Khi đó, các em sẽ hiểu và cảm phục, kính yêu vô cùng vị lãnh tụ vĩ đại - người Cha già của dân tộc Việt Nam: Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ. Người ngồi đó với cây chì đỏ Vạch đường đi, từng bước, từng giờ [20, tr. 29]. Trong cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược có rất nhiều biểu tượng đẹp đẽ được thơ ca khắc họa thành công. Chỉ bằng ít câu thơ, biểu tượng dân tộc Việt Nam ra trận để đánh đuổi xâm lăng hiện lên một cách hùng vĩ, đầy tính thần thoại nhưng lại rất hiện thực: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung. Quân đi điệp điệp, trùng trùng, Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc những đoàn, Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay [20, tr. 312]. Một ví dụ khác, để xây dựng biểu tượng quân và dân Bình-Trị-Thiên “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950), đoạn tài liệu Văn học sau đây sẽ góp phần rất đắc lực: 17 “Đêm qua có cuộc họp giữa Ban chỉ huy trung đoàn các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, tại Xê-ca Bốn để quyết định những vấn đề cấp thiết của chiến khu Hoà Mỹ lúc này. Cuộc tấn công bao vây chiến khu của giặc đã bước sang ngày thứ mười hai. Trong mười hai ngày qua, cường độ các đợt tấn công của giặc vào núi càng dữ dội. Tất cả các đợt tấn công đều bị quân ta đánh bật ra. Quân ta vũ khí ít, quân số không đông, nhưng được rừng cây che phủ, và bọn giặc lại không thông thuộc địa hình, nên Ban chỉ huy trung đoàn tin chắc dù chúng tấn công với lực lượng gấp đôi cũng không thể vào được trong núi. Nhưng gay go nhất vẫn là lương thực. Ba ngày qua cả chiến khu đều ăn sắn. Những lon gạo cuối cùng được vét được vet vét dồn cho bệnh viện với mấy chục thương binh. Tỉnh uỷ và Uỷ ban tỉnh đã liên tiếp cử nhiều đoàn cán bộ, đêm bí mật bò qua phòng tuyến địch, vượt sông Ô Lâu, về đồng bằng hai huyện Phong, Quảng huy động lương thực tiếp tế cho chiến khu đang bị bao vây. Nhưng bọn giặc bao vây chiến khu rất chặt. Không tấn công được vào núi, chúng xoay đổi chiến thuật, vây hãm chiến khu dài ngày, cắt đứt mọi đường tiếp tế từ đồng bằng lên. Chiến khu sẽ kiệt lương thực. Việt minh tất phải ra hàng, nếu không hàng thì chết đói. Trong mười hai ngày qua, hàng chục đoàn dân công tiếp tế của các xã đồng bằng, gánh gạo, muối lên chiến khu, đã bị bọn địch phục kích tiêu diệt. Gạo, muối lẫn với máu và xác người nằm lăn lóc trên đường từ đồng bằng lên núi. Nhưng nhân dân các huyện đồng bằng vẫn gan góc, quyết liều thân với giặc để cứu chiến khu. Đoàn tiếp tế này vừa ngã xuống, xác vừa được mang về chưa kịp chôn cất, đoàn tiếp tế khác đã hăm hở lên đướng. Nhiều đoàn đã phải đi một quãng đường dài gấp năm, gấp bảy đường chính, với hy vọng lọt được qua vòng vây giặc. Họ băng qua Quảng Trị, vòng lên núi xanh, rồi từ núi xanh quặt trở lại Hoà Mỹ.” [25, tr. 755]. Cũng là câu chuyện về việc người thương binh Bùi Xuân Tảo bị thương gãy chân khi tấn công tiểu đội Âu Phi tại Biên Hòa (Đồng Nai) ngày 01 tháng 01 năm 1946, phải cắt chân bằng biện pháp thủ công trên chiến trường do không có thuốc gây mê, dưới ngòi bút của nhà thơ, người đọc, người nghe phải rơi nước mắt: 18 “Bác sĩ đang cưa chân một thương binh bằng cưa thợ mộc. Bác sĩ vừa cưa, vừa khóc, Chị cứu thương nước mắt tràn trề. Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre, Người chiễn sĩ vẫn mải mê hát. Cưa cứ cưa, xương cứ đứt, Máu cứ rơi từng giọt đỏ hồng. Hai tay anh siết chặt đôi hông, Dồn đôi phổi vào trong tiếng hát Đoàn quân Việt Nam đi, Chung lòng cứu quốc” [18, tr. 176-177]. Ngoài ra, có rất nhiều biểu tượng lịch sử đẹp đẽ, hùng tráng trong giai đoạn lịch sử này mà giáo viên có thể xây dựng cho học sinh thông qua việc sử dụng tài liệu Văn học như biểu tượng về chiến sĩ Cộng sản bất khuất, kiên cường đấu tranh trong chốn lao tù, biểu tượng anh Vệ quốc quân, biểu tượng Chiến sĩ Điện Biên, biểu tượng chiến khu Việt Bắc… III.2.2. Sử dụng tài liệu Văn học để nêu câu hỏi, bài tập nhận thức Trong mỗi tiết học, bài học, việc xác định nhiệm vụ nhận thức có ý nghĩa cực kì quan trọng mang tính quyết định đối với hiệu quả của nó. Mục đích của việc nêu nhiệm vụ nhận thức là giúp học sinh ý thức được những vấn đề cơ bản nhất cần phải hiểu và nắm chắc của bài sắp học, tức là đặt ra ngay từ đầu nhiệm vụ để học sinh hình dung trước những sự kiện và hiện tượng lịch sử cơ bản, then chốt của bài học. Thông thường, nhiệm vụ nhận thức được giáo viên nêu lên bằng một hoặc vài câu hỏi trước khi vào dạy bài mới để kích thích tư duy của học sinh, giúp các em suy nghĩ, tập trung vào những nhiệm vụ cốt lõi. Quá trình của bài học diễn ra nhằm giải quyết những nhiệm vụ nhận thức đã được đặt ra. Cuối tiết học, học sinh trả lời được những câu hỏi đó là bài học đã đạt kết quả Ngoài ra, đối với loại bài tập về nhà, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh sưu tầm những tài liệu Văn học về một số giai đoạn hoặc một số chủ đề lịch sử 19 như thơ văn viết về Bác Hồ, thơ văn của Bác viết về lịch sử … Làm được điều này, chẳng những học sinh sẽ tự mình bổ sung thêm những hiểu biết về văn học, về lịch sử mà các em còn được làm quen với công tác nghiên cứu khoa học. III.2.3. Sử dụng tài liệu Văn học để khái quát, rút ra bài học lịch sử Rút ra bài học lịch sử là một đích đến của người dạy và học lịch sử. Quá trình nhận thức, tiếp cận chân lý là quá trình “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng; từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Trước hết, chúng ta cần phải nhận thức rằng: “Học tập lịch sử phải đạt đến trình độ nắm quy luật và ý nghĩa thực tiễn của việc học lịch sử là biết vận dụng những bài học của quá khứ trong cuộc sống hiện tại. Công việc này cũng là một bộ phận quan trọng của việc phát triển tư duy và năng lực” [13, tr. 168]. Lịch sử Việt Nam có rất nhiều bài học sâu sắc quý báu, đã được các nhà nghiên cứu tổng kết và đúc rút ra, có sẵn trong tài liệu lịch sử, trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, nhiệm vụ của người giáo viên không phải là thông báo cho học sinh những quy luật, bài học lịch sử đó, vì như thế, các em sẽ không hiểu được mối liên hệ bên trong, bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Với cách dạy học này, quy luật, bài học lịch sử mà các em được nghe chỉ là một sự áp đặt, giáo điều, nhồi sọ như nhà giáo dục người Đức Disterverg đã khẳng định: người giáo viên tồi truyền đạt chân lý, người giáo viên giỏi dạy cách tìm chân lý [13. tr. 255]. Mặt khác, sách giáo khoa hiện nay được viết theo hướng giảm rất nhiều phần kết luận khái quát. Vì vậy, việc giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh rút ra bài học, nêu quy luật… là một yêu cầu không thể thiếu. Không phải tài liệu Văn học nào cũng có thể sử dụng để rút ra bài học lịch sử được. Điều này đòi hỏi giáo viên cần phải đầu tư nhiều công sức trong việc lựa chọn tài liệu Văn học. Để giúp học sinh rút ra được bài học: nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, mỗi khi có giặc ngoại xâm thì tinh thần yêu nước ấy kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước (lời Hồ Chủ tịch), giáo viên đọc cho học sinh nghe đoạn thơ trích trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi viết trong kháng chiến chống Pháp: Xiềng xích chúng bay không khóa được 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan