Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài môn gdcd lớp 10 và...

Tài liệu Skkn tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài môn gdcd lớp 10 và 11

.PDF
40
2886
124

Mô tả:

MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đế tài 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Phạm vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận của vấn đề 2. Thực trạng của vấn đề 3. Các biện pháp tiến hành 3.1. Xác định mục tiêu tích hợp giáo dục KNS 3.2. Xác định mức độ tích hợp giáo dục KNS. 3.3. Xây dựng nội dung tích hợ giáo dục KNS 3.4. Các bước thực hiện một bài giáo dục kĩ năng sống 3.5. Nội dung và địa chỉ giáo dục KNS trong một số bài dạy của môn GDCD 10, GDCD 11 3.6. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 4. Nội dung thực hiện 4.1. Nội dung ứng dụng tích hợp giáo dục KNS vào một số bài giảng của bộ môn GDCD 10 4.1.1. Bài 10: Quan niệm về đạo đức 4.1.2. Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học 4.1.3. Bài 12: Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình 4.2. Nội dung ứng dụng tích hợp giáo dục KNS vào một số bài giảng của bộ môn GDCD 11 4.2.1. Bài 12 : Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường 4.2.2. Bài 14 : Chính sách quốc phòng và an ninh 5. Những kết quả đạt được sau khi thực hiện đề tài 5.1. Qua tiết dạy 5.2. Qua điểm số của học sinh 5.3. Bài học kinh nghiệm III. KẾT LUẬN 1. Kết luận 2. Ý kiến đề xuất IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phụ lục 1: Phiếu khảo sát Phụ lục 2: Đề kiểm tra 15 phút lớp 10 / học kì II Phụ lục 3: Đề kiểm tra 1 tiết lớp 10 /học kì II Phụ lục 4: Đề kiểm tra học kì II / lớp 1 Phụ luc 5: Bảng điểm lớp đối chứng và lớp thực nghiệm Phụ luc 6: Giáo án soạn theo hướng có tích hợp giáo dục KNS -1- TRANG 3 3 3 4 4 4 5 5 7 9 9 10 10 11 12 14 15 15 15 17 19 21 21 25 26 26 28 30 30 30 30 31 34 35 36 38 40 45 BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT DÙNG TRONG ĐỀ TÀI Viết tắt Viết đầy đủ KNS Kĩ năng sống GV Giáo viên HS Học sinh THPT GDCD Trung học phổ thông Giáo dục công dân Bộ GD&ĐT Bộ giáo dục và đào tạo CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên Chuẩn KTKN PPDH Chuẩn kiến thức kĩ năng Phương pháp dạy học ĐC Đối chứng TN Thực nghiệm -2- TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG VÀO GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI TRONG BỘ MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 VÀ LỚP 11 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển mạnh mẽ bên cạnh những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kì hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơn…Bên cạnh đó, kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của học sinh. Thực tế hiện nay một bộ phận lớn học sinh còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống có văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý chí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức. Vấn đề học sinh hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc làm cha mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập. Trước những yêu cầu thiết thực trên và nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ môn GDCD trong việc giáo dục hình thành nhân cách của thế hệ trẻ,việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân cách con người toàn diện thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Như vậy việc tiến hành tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào trong các môn học, đặc biệt là môn GDCD là việc làm có tính tất yếu. Chính vì vậy bản thân tôi đã chọn đề “Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài trong bộ môn GDCD 10 và GDCD 11” 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu từ thực tế những tiết dạy môn học GDCD ở trường THPT Phan Bội Châu – Thành phố Cam Ranh, với đề tài này tôi xin đề xuất sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực làm thế nào có thể biến hành vi từ chương trình kiến thức đã học trong chương trình thành hành động cụ thể đi vào cuộc sống của cá nhân một cách hiệu quả, tổ chức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội. Bằng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “ Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài trong bộ môn GDCD 10 và GDCD 11”, giúp: -3- + Học sinh giải quyết được nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả thông qua bài dạy, giúp học sinh có kiến thức, thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. + Hình thành KNS cho HS, giúp các em có kĩ năng vững vàng trước khó khăn, thử thách; biết ứng xử giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của mình. 3. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh THPT khối 10 và khối 11 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, sưu tầm, liên hệ - Phương pháp kiểm tra, đánh giá - Phương pháp điều tra, khảo sát 5. Phạm vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu - Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài trong bộ môn GDCD 10 VÀ GDCD 11 - Đề tài nghiên cứu trong hai năm từ tháng 9/2013 đến tháng 4/2014 -4- II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận của vấn đề Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức khác nhau. Thông thường, kĩ năng sống (KNS) được hiểu là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Thuật ngữ KNS bắt đầu xuất hiện trong nhà trường phổ thông Việt nam từ những năm 1995-1996, thông qua dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS dành cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”, do Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ GD& ĐT phối hợp cùng Hội Chử thập đỏ Việt Nam thực hiện. (*) Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), KNS là hành vi có khả năng thích ứng và tích cực, giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức cuộc sống hàng ngày. (*) Theo UNICEF, KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hay hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng và tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng. (*) Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm các kỹ năng tư duy như: Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả.,…; Học làm người gồm các khả năng cá nhân như: Ứng phó với căng thẳng, kìm chế cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…; Học để sống với người khác gồm cá kỹ năng xã hội: Giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác làm việc theo nhóm. Học để làm gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm… (*) Tài liệu giáo dục KNS trong môn GDCD THPT của Bộ GD& ĐT. Nxb Giáo dục, Việt Nam. Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là kĩ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Như vậy, các kĩ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức "cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị - "cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế - “làm gì và làm bằng cách nào?” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng. Kĩ năng sống thường được thiết lập với một nền tảng riêng biệt, do đó mọi người có thể hiểu và thực hành. Kĩ năng sống liên hệ mật thiết với những nội dung giáo dục thực hành giúp chúng ta trả lời những câu hỏi như là: Chúng ta cần làm gì để có thái độ quyết đoán? Quyết định của chúng ta liên quan đến -5- những điều gì?... Khái niệm kĩ năng sống được hiểu rất khác nhau. Ở một số nước như: Trung Quốc; Singapore; Thái Lan ... đào tạo kĩ năng sống chính là để giáo dục cách vệ sinh, dinh dưỡng, giáo dục phòng chống bệnh tật hoặc giáo dục hòa bình ... Ở một số nước khác như: Mỹ; Anh; Pháp; Nhật ... kĩ năng sống đào tạo tập trung vào giáo dục hành vi, giáo dục an toàn trên đường phố, hay giao dục bảo vệ môi trường ... Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn cầu nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các kĩ năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã hội và tự nhiên. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một nội dung cơ bản của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong các trường phổ thông, giai đoạn 2008 - 2013 do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, triển khai và thực hiện. Trong những năm gần đây, việc giáo dục học sinh trong nhà trường đã không bó hẹp ở việc giảng dạy, cung cấp tri thức văn hóa mà yêu cầu cần phải cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết về kĩ năng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt từ năm học 2011- 2012, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục KNS vào các môn học và đã tập huấn cho đội ngũ cán bộ cốt cán, cho đến giáo viên trực tiếp đứng lớp ở các cấp học và triển khai nội dung này một cách có hệ thống. Và đây cũng là xu thế giáo dục chung của nhiều nước trên thế giới. Việc giáo dục, rèn luyện KNS là một phạm trù rộng, tất cả các bộ môn, các tổ chức đoàn thể: Đoàn, Đội….tất cả giáo viên và học sinh đều phải bắt tay vào thực hiện. Trong đó môn GDCD là môn học có nhiều khả năng để thực hiện nội dung này nhất. (Hầu hết tất cả các chủ đề và nội dung bài học đều có thể lồng ghép các nội dung giáo dục KNS). Điều đó được thể hiện: - Nhiệm vụ và nội dung môn GDCD chứa đựng những yếu tố của giáo dục KNS, phù hợp với trọng tâm của giáo dục KNS là quá trình đối thoại, tương tác lẫn nhau, sử dụng vốn kinh nghiệm của người học để thực hành kĩ năng; phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống. - Một trong những đặc điểm của môn GDCD là sự tích hợp nhiều nội dung giáo dục, trong đó có các nội dung giáo dục về các vấn đề xã hội. Vì vậy, việc tích hợp nội dung giáo dục KNS vào môn GDCD là điều có thể thực hiện và phù hợp với xu thế hiện nay. - Việc giáo dục các chuẩn mực xã hội không thể chỉ xuất phát từ yêu cầu nhà giáo mà phải xuất phát từ quyền lợi và nhu cầu phát triển của học sinh. Giáo dục KNS giúp học sinh có những kĩ năng thiết thực để sống an toàn, lành mạnh, có hiệu quả, do đó học sinh hứng thú học tập và lĩnh hội các chuẩn mực một cách chủ động, tự giác. Từ khả năng giáo dục KNS trong môn GDCD được xác định là hết sức quan trọng và cần thiết, mục tiêu giáo dục KNS trong môn GDCD cũng được xác định rõ ràng. Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT nhằm giúp học sinh: -6- + Hiểu được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân có thể sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần. + Có kĩ năng làm chủ bản thân, biết xử trí linh hoạt trong các tình huống giao tiếp hằng ngày; có kĩ năng tự bảo vệ mình; rèn luyện lối sống có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và cộng đồng. + Có nhu cầu rèn luyện KNS trong cuộc sống hằng ngày; ưa thích lối sống lành mạnh, có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh; tích cực, tự tin tham gia các hoạt động, có quyết định đúng đắn trong cuộc sống. Vì vậy, việc tích hợp KNS vào môn GDCD chính là rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc. Giúp các em có khả năng ứng phó tích cực, trước tình huống của cuộc sống nhằm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh, chủ động an toàn, hài hòa và lịch sự. 2. Thực trạng của vấn đề Đối với các trường THPT hiện nay việc đưa vào tích hợp KNS trong chương trình môn học là hoàn toàn mới mẽ, vì chương trình này mới được BGD& ĐT triển khai. Vì thế, vấn đề vận dụng tích hợp KNS vào trong bộ môn học cụ thể gặp rất nhiều khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Như đã nói ở trên, môn GDCD có vị trí và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong trường THPT đối với việc hình thành và phát triển nhân cách góp phần xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân là những người chủ tương lai của đất nước. Song vấn đề thực tế hiện nay mà bất cứ ai cũng nhìn thấy rõ khi nó đã và đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, đó là một bộ phận thanh thiếu niên nói chung và học sinh THPT nói riêng đang xuống cấp về mặt đạo đức, có lối sống buông thả, chạy theo thị hiếu tầm thường mà ít hoặc không quan tâm tu dưỡng đạo đức dẫn đến vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, thiếu kĩ năng ứng phó trước những lôi cuốn mà mặt trái của xã hội phát triển để lại. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, năm học 2009 – 2010 trên toàn quốc đã xảy ra khoảng 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trường học. Các nhà trường đã xử lý kỷ luật khiển trách 881 học sinh, cảnh cáo 1. 558 học sinh, buộc thôi học có thời hạn (3 ngày, 1 tuần, 1 năm học) 735 học sinh. Theo số lượng trường học và học sinh hiện nay thì cứ 5.260 học sinh lại xảy ra một vụ đánh nhau, và cứ 9 trường học lại xảy ra một vụ đánh nhau. Cứ 10.000 học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật khiển trách, cứ 5.555 học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật cảnh cáo vì đánh nhau, cứ 11.111 học sinh thì có 1 học sinh bị buộc thôi học có thời hạn vì đánh nhau. Theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt Nam năm 2010, tỉ lệ học sinh đi học muộn: THPT 58%; tỉ lệ quay cóp: THPT 60%; tỉ lệ nói dối cha, mẹ: THPT 64%; tỉ lệ không chấp hành an toàn giao thông:THPT 70%, ...Tại trường THPT Phan Bội Châu- Cam Ranh- Khánh Hòa, học kì I của năm học 2013- 2014, tỉ lệ học sinh không chấp hành an toàn giao thông là 3,2%... Những con số này cho thấy, càng lớn ý thức đạo đức của học sinh càng đi xuống. -7- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và thời buổi cơ chế thị trường như hiện nay thì việc tích hợp KNS vào giảng dạy trong bộ môn GDCD là hết sức cần cấp bách, vì lứa tuổi học sinh THPT đang hình thành những giá trị sống với những ước mơ, hoài bão luôn tìm tòi khám phá… nhưng lại thiếu hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội, thiếu KNS nên dễ bị lôi kéo, kích động có những hành vi tiêu cực, bạo lực, sống ích kỉ, thực dụng và rơi vào phạm tội: Đua xe, nghiện hút, chích ma túy, cãi thậm chí hành hung cha mẹ.... Nhưng trong thực tế việc giảng dạy ở bộ môn này gặp rất nhiều khó khăn bất cập vì từ trước tới nay bộ môn vẫn xem là một môn học phụ có vai trò thứ yếu và mờ nhạt trong nhà trường, việc giảng dạy thường diễn ra một cách khô khan, nặng nề, đơn điệu ít gây hứng thú cho học sinh. Do đó chất lượng và hiệu quả giảng dạy còn thấp, chưa mang lại hiệu quả giáo dục, đặc biệt học sinh chưa thấy được những điều bổ ích rõ rệt, việc học tập chưa gắn với thực tiễn nhất là những thay đổi mau lẹ diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Từ những thách thức và yêu cầu cấp bách trên thì việc đưa KNS vào trong giảng dạy là hết sức cần thiết và bổ ích, góp phần quan trọng to lớn vào sự hình thành nhân cách cũng như KNS cho học sinh. Tuy nhiên, lồng ghép vào mục nào trong bài, sử dụng phương pháp gì nhìn chung vẫn còn hạn chế hoặc xa lạ đối với một số giáo viên khi kinh nghiệm thực tế chưa nhiều. * Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, trong đó có nguyên nhân chủ yếu sau đây: - Xã hội chưa tạo được nhiều khu vui chơi giải trí công cộng thích hợp với độ tuổi, chưa quản lí tốt những văn hóa lai căng, đồi trụy đang lan rộng khắp nơi trên cả nước… - Cơ sở tổ chức đoàn trong nhà trường còn mang tính bề nổi, chưa có những hoạt động thu hút đoàn viên, thanh niên tham gia… - Cách truyền đạt của giáo viên chưa thu hút, chưa chú trọng đến kỹ năng sống cho học sinh… - Do áp lực thành tích của gia đình, do áp lực kiến thức môn học quá nhiều, do yêu cầu của giáo viên, nhà trường và xã hội ngày càng cao… - Do bản thân học sinh chưa chủ động trong học tập, do một số thầy cô quá nghiêm khắc sẽ làm cho học sinh bị áp lực, căng thẳng. - Do đa số học sinh, nhà trường và ngay cả xã hội cũng coi bộ môn GDCD là môn phụ nên tâm lí thờ ơ, học đối phó kiếm điểm cho qua. - Do tác động bởi mội trường xã hội: phim ảnh, Internet, game online… Để giải quyết và thoát ra tình trạng báo động này cần có sự phối hợp hành động đồng bộ của nhiều ngành, nhiều cấp. Riêng đối với giáo viên cần nhận thức đúng, sâu sắc ý nghĩa, vị trí bộ môn GDCD trong chương trình giáo dục và phát huy vai trò giáo dục bộ môn, giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp học sinh có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh. Giáo viên phải là những người có lòng nhiệt huyết, biết lựa chọn và kết hợp tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả, động viên kịp thời học -8- sinh có những tiến bộ. Trên cơ sở đó tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện được mục tiêu giáo dục THPT. Vì vậy, nhận thấy trong rất nhiều biện pháp nhằm phát huy vai trò giáo dục bộ môn, tôi mạnh dạn sử dụng biện pháp “ Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài trong bộ môn GDCD 10 và GDCD 11” * Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài: - Thuận lợi: + Giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để lồng ghép (Cần nói thêm là chọn một vài phương pháp phù hợp với nội dung kiến thức cần tích hợp cho từng đề mục chứ không phải tất cả phương pháp đều áp dụng vào đó). + Giáo viên dễ dàng đưa vào tích hợp nhiều KNS với những vấn đề nóng bỏng mà xã hội đang quan tâm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên không nên đưa quá nhiều nội dung vào 1 tiết như vậy sẽ làm cho người tiếp nhận bị “bội thực” và ảnh hưởng đến nội dung chính của bài học. + Người trình bày chủ động về thời gian trình bày theo nội dung chuẩn bị trước hoặc yêu cầu học sinh chuẩn bị. + Do đặc thù của bộ môn GDCD nên việc giáo dục KNS là gần gũi, thích hợp từ trong chương trình bày dạy gắn liền với liên kết thực tế cuộc sống. - Khó khăn: + Đây là chương trình mời được Bộ Giáo dục - Đào tạo triển khai nên việc vận dụng tích hợp vào mục nào của bài dạy, sử dụng phương pháp gì cho phù hợp thì vấn đề lúng túng là không thể tránh khỏi. + Tài liệu phục vụ giảng dạy và giáo dục KNS còn thiếu, chỉ mang tính định hướng nên giáo viên phải tự nghiên cứu, tìm tòi các thông tin, tài liệu khác để bổ trợ cho việc dạy - học. + Cơ sở vật chất tuy đã được đầu tư và cải tiến nhiều song nó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như thiếu không gian rộng để chia nhóm, di chuyển học sinh trong lớp học khi sử dụng phương pháp phòng tranh, bản đồ tư duy hay kĩ thuật khăn phủ bàn…. + Thời gian tích hợp KNS khoảng 5 →8 phút, giáo viên dễ bị cuốn theo những vấn đề HS quan tâm về KNS của mình ở một số trường hợp cụ thể nhất định. + Một số giáo viên KNS của bản thân chưa nhiều. Kinh nghiệm giảng dạy còn ít. + HS chỉ thích ứng tích cực với môn học này nhưng chưa có được liên hệ với những môn học khác và ngoài xã hội. 3.Các biện pháp tiến hành 3.1. Xác định mục tiêu tích hợp giáo dục KNS Mục tiêu giáo dục của Việt Nam đã chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mục tiêu của giáo dục Việt Nam thể hiện mục tiêu giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống(Delor, 1996). -9- Giáo dục KNS trong nhà trường phổ thông nhằm các mục tiêu sau: - Trang bị cho HS những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen làng mạnh, tích cực trong các mối quan hệ, các tình huống, các hoạt động hàng ngày. - Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. 3.2. Xác định mức độ tích hợp giáo dục KNS. Tuy theo nội dung, đặc điểm và khả năng thực hiện việc tích hợp giáo dục KNS của bài dạy, của đơn vị kiến thức để lựa chọn mức độ tích hợp thích hợp. - Mức độ thấp: Từ liên hệ(chỉ khai thác nội dung bài học và liên hệ với kiến thức về cần lồng ghép giáo dục KNS.) - Mức độ trung bình: Tích hợp bộ phận (chỉ một phần bài học, một đơn vị kiến thức) - Mức độ cao: Tích hợp toàn phần (cả một bài dạy có nhiều nội dung phù hợp để tích hợp ghép giáo dục KNS) 3.3. Xây dựng nội dung cần tích hợp giáo dục KNS Để xây dựng nội dung cần tích hợp giáo dục KNS vào bài học thì: Thứ nhất: Giáo viên phải xác định rõ bài học có những yêu cầu gì, yêu cầu nào là trọng tâm, xác định những nội dung cần truyền đạt, nội dung nào phù hợp với phương pháp nào, từ đó mới xác định và xây dựng nội dung tích hợp giáo dục KNS cho hợp lí. Thứ hai: Cần định hướng cho học sinh cách học tập chủ động, giáo viên không nên thuyết trình nhiều vì pháp luật mà chỉ nói suông thì sẽ rất khó nhớ, mà phải thông qua các tình huống nhất định, giáo viên có thể đưa ra tình huống và yêu cầu học sinh giải quyết tình huống nhưng cũng cần hướng dẫn để các em không bị sa đà, lạc đề. Thứ ba: Xây dựng các câu hỏi khai thác từ tình huống để học sinh trả lời. Nội dung câu hỏi cần hướng đến nội dung bài dạy một cách gần gũi và rõ ràng. (Trong phần này, giáo viên cần dự trữ những phương án trả lời phát sinh vì các em sẽ có những cách giải quyết khác nhau, tuỳ theo mặt bằng lớp, theo cách các em cảm nhận từ thực tiễn cuộc sống) Cần lưu ý: Tuỳ theo nội dung từng vấn đề mà nội dung tích hợp có thể dài hay ngắn, song phải phù hợp với nội dung bài học, trình độ học sinh và thời lượng tiết học. Quá trình áp dụng cũng cần linh hoạt, hài hoà với nội dung bài học. Việc sử dụng cần tránh sa đà, lạm dụng và cần chuẩn bị những phương án phát sinh. - 10 - 3.4. Các bước thực hiện một bài giáo dục kĩ năng sống Một bài giáo dục KNS thường được thực hiện theo 4 bước / giai đoạn sau: Các bước Mục đích Mô tả quá trình Vai trò của GV và thực hiện HS / Gợi ý một số kiến thức dạy học -GV cùng với HS - GV đóng vai trò lập 1. Khám - Kích thích HS tự tìm hiểu xem thiết kế hoạt động( kế hoạch , khởi động, phá các em đã biết gì có tính chất trải đặt câu hỏi, nêu vấn về những khái nghiệm) đề, ghi chép…. niệm, kĩ năng, - GV cùng với HS - HS cần chia sẻ, trao kiến thức… sẽ đặt các câu hỏi đổi, phản hồi, xử lý được học. nhằm gợi lại những thông tin, ghi chép… - Giúp GV đánh hiểu biết đã có liên - Một số kĩ thuật dạy giá / xác định quan đến bài học học chính: Động não, thực trạng ( kĩ mới. phân loại / xác định năng, kiến thức) - GV giúp HS xử lí chùm vấn đề, thảo của HS trước khi / phân tích các hiểu luận, chơi trò chơi giới thiệu vấn đề biết hặc trải tương tác , đặt câu mới. nghiệm của HS tổ hỏi,…. chức phân loại chúng. - GV nên đóng vai của 2. Kết nối - Giới thiệu thông - GV giới thiệu tin, kiến thức và mục tiêu bài học người hướng dẫn: HS kĩ năng mới và kết nối chung là người phản hồi, thông qua việc với các vấn đề đã trình bày quan điểm / tạo “cầu nối” liên chia sẽ ở bước 1. ý kiến , đặt câu hỏi / kết giữa cái “ đã - GV giới thiệu trả lời. biết” và “ chưa kiến thức và kĩ - Một số kĩ thuật dạy biết”. Cầu nối năng mới. học chính: Chia nhóm này sẽ kết nối - Kiểm tra xem các thảo luận, người học kinh nghiệm hiện kiến thức và kĩ trình bày, khách mời, có của HS với bài năng mới đã được đóng vai,sử dụng học mới. cung cấp toàn diện phương tiện dạy học và chính xá chưa. đa chức năng ( chiếu - Nêu ví dụ khi cần phim, băng, đài, thiết. đĩa….) - Tạo cơ hội cho - GV thiết kế / - GV nên đóng vai của 3. Thực người học thực chuẩn bị hoạt động người hướng dẫn, hành / hành vận dụng mà theo đó yêu cầu người hỗ trợ. Luyện kiến thức và kĩ HS phải sử dụng - HS đóng vai trò tập năng mới vào kiến thức và kĩ người thực hiện, người một bối cảnh / năng mới. khám phá. hoàn cảnh / điều - HS làm việc theo - Một số kĩ thuật dạy kiện có ý nghĩa. nhóm, cặp hoặc cá học chính: Đóng kịch - 11 - - Định hướng để HS thực hành đúng cách. - Điều chỉnh những hiểu biết và những kĩ năng còn sai lệch. 4. Vận dụng nhân để hoàn thành nhiệm vụ. - GV giám sát tất cả mọi hoạt động và điều chỉnh khi cần thiết. - GV khuyến khích HS thể hiện những điều các em suy nghĩ hoặc mới lĩnh hội được. Tạo cơ hội cho - GV (cùng với HS HS tích hợp, mở )lập kế hoạch các rộng và vận dụng hoạt động đối với kiến thức và kĩ nhiều môn học/ năng có được vào lĩnh vực học tập các tình huống / đòi hỏi HS vận các bối cảnh mới. dụng kiến thức và kĩ năng mới . - HS làm việc theo nhóm, cặp hoặc cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ. - GV cùng tham gia hỏi và trả lời trong suốt quá trình tổ chức hoạt động . - GV có thể đánh giá kết quả học tập của học sinh tại bước này, ngắn, viết luận, mô phỏng, hỏi – đáp, trò chơi, thỏa luận nhóm / tranh luận …. - GV nên đóng vai của người hướng dẫn và người đánh giá . - HS đóng vai trò người lập kế hoạch, người sáng tạo thành viên nhóm, người trình bày và người đánh giá. - Một số kĩ thuật dạy học: Dạy học hợp tác, làm việc theo nhóm, trình bày cá nhân, dạy học dự án… 3. 5. Nội dung và địa chỉ giáo dục KNS trong một số bài dạy của môn GDCD 10, GDCD 11 Môn GDCD có khả năng giáo dục nhiều KNS cho HS, cụ thể là : - Kĩ năng giao tiếp - Kĩ năng tự nhận thứ - Kĩ năng xác định giá trị - Kĩ năng ra quyết định - Kĩ năng giải quyết vấn đề - Kĩ năng tư duy sáng tạo - Kĩ năng tư duy phê phán - Kĩ năng từ chối, hợp tác, ứng phó với căng thẳng - Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, đảm nhận trách nhiệm - Kĩ năng đặt mục tiêu, tự tin, tự quản - 12 - Các KNS được chuyển tại trong quá trình dạy học theo các bài dạy giáo dục công dân, cụ thể như sau: LỚP 10 Tên bài dạy Các KNS được giáo dục Bài 10: - KN so sánh sự giống nhau Quan niệm về và khác nhau giữa đạo đức đạo đức với pháp luật trong việc điều chỉnh hành vi của con người. - KN xác định giá trị, tự nhận thức khi đánh giá việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức của bản thân. - KN thể hiện sự tự tin khi trình bày vai trò của đạo dức đối với cá nhân, gia đình, xã hội. - KN phán đoán, trình bày Bài 11: Một suy nghĩ / ý tưởng khi xem số phạm trù một số tranh, ảnh ( hoặc băng cơ bản của hình) có nội dung liên quan đạo đức học đến bài học. - KN phê phán, so sánh các hành vi rong một tình huống, KN tư duy sáng tạo, hợp tác, lắng nghe và phản hồi tích cực. Bài 12: Công - KN giải quyết vấn đè, ra dân với tình quyết định trong tình huống yêu, hôn với những điều nên tranh nhân và gia trong tình yêu nam nữ thanh đình. niên. - KN từ chối quan hệ tình dục trước hôn nhân. - KN hợp tác trong thảo luận về mối quan hệ gia đình và trách nhiệm của các thành viên. - KN đảm nhận trách nhiệm thực hiện trách nhiệm với gia đình. - 13 - Các phương pháp / kĩ thật dạy học tích cực có thể sử dụng. - Động não. - Xử lý tình huống, - Đàm thoại. - Thảo luận - Thảo luận nhóm. - Đàm thoại - Phân tích tình huống. - Trình bày một phút. - Thảo luận nhóm. - Đàm thoại - Xử lí tình huống. - Tranh luận Ghi chú LỚP 11 Các KNS được giáo dục Tên bài dạy Bài 12: Chính sách tài nguyên và bảo vệ mội trường Bài 14: Chính sách quốc phòng và an ninh Các phương pháp / kĩ thật dạy học tích cực có thể sử dụng. Ghi chú. - KN tìm kiếm và xử lý thông tin về tình hình tài nguyên và môi trường ở Việt Nam. - KN trình bày suy nghĩ / ý tưởng. - KN giải quyết vấn đề về tình huống liên quan đến chính sách tài nguyên và môi trường. - KN tư duy sáng tạo về trách nhiệm của công dân đối với việc thực hiện chính sách tài nguyên và môi trường. - KN phản hồi / lắng nghe tích cực, hợp tác, - KN tìm kiếm và xử lý thông tin về việc thực hiện chính sách chính sách quốc phòng và an ninh. - KN hợp tác tìm hiểu vai trò và trách nhiệm của quốc phòng và an ninh. - KN giải quyết vấn đề về tình huống liên quan đến sách quốc phòng và an ninh. - KN trình bày suy nghĩ / ý tưởng 3.6. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh Để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh trong bài học GDCD thì việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh là hết sức cần thiết, là khâu quan trọng quyết định sự thành công. * Đối với giáo viên - Nghiên cứu SGK, SGV, chuẩn KTKN để xác định đúng mục tiêu bài học - 14 - - Tìm hiểu nội dung và địa chỉ giáo dục KNS trong từng bài học để xác định các KNS cơ bản cần được giáo dục qua bài học đó. - Hướng dẫn chu đáo, giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh về nội dung, phương tiện cho từng bài học. - Chuẩn bị các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc dạy và học của từng bài. Cụ thể như: + SGK, SGV, chuẩn KTKN + Máy tính (phần mềm P.P), Tivi, bút dạ, giấy khổ lớn, phiếu học tập…. + Các tư liệu, thông tin, tranh ảnh phục vụ cho nội dung bài học. * Đối với học sinh - Học sinh tìm hiểu thông tin liên quan đến nội dung bài học, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh (nếu có), tìm hiểu trước nội dung bài học để tạo sự chủ động trong việc tìm kiếm, xử lí và tiếp nhận thông tin, kiến thức cho các em trong mỗi bài học. - Học sinh luôn có tâm lí sẵn sàng, tự tin khi tham gia hoạt động nhóm, giải quyết tình huống hay tham gia vào các trò chơi đó là cách thức, là cơ hội để các em rèn luyện cho mình những kĩ năng cần thiết. 4. Nội dung tiến hành cụ thể 4.1. Nội dung ứng dụng tích hợp giáo dục KNS vào một số bài giảng của bộ môn GDCD 10 4.1.1. Bài 10: Quan niệm về đạo đức - Giáo viên có thể tích hợp kĩ năng so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng thể hiện sự thông cảm, xử lí tình huống, giải quyết vấn đề, ra quyết định... - Phương pháp: Tình huống, đóng vai * Tích hợp mục 1-a / Đạo đức là gì? Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lấy một số ví dụ về hành vi của cá nhân tuy không vi phạm pháp luật nhưng lại trái với chuẩn mực đạo đức xã hội. Qua ví dụ đó, em rút ra cho mình được điều gì? Ví dụ 1: Một số bạn đi xe buýt gặp người tàn tật, thương bệnh binh, người già, trẻ em, phụ nữ mang thai ... nhưng không nhường ghế ngồi. Câu hỏi: 1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy? 2. Nếu gặp các trường hợp trên em sẽ hành động như thế nào? Vì sao? Ví dụ 2: Trong lớp bố bạn Hoa đau nặng, phải nằm viện, nhưng một số bạn không hề hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ Hoa. Câu hỏi: 1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy? Vì sao? 2. Nếu chúng ta biết hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ thì sẽ giúp ích được gì cho bạn Hoa? * Tích hợp mục 1-b/ Phân biệt giữa đạo đức, pháp luật - Nội dung này đã được GV giao tình huống cho HS khi kết thúc tiết dạy bài 9, chuẩn bị 3 nội dung giao về cho 3 tổ thực hiện ( GV gợi ý trước nội dung nào HS thắc mắc). - Khi dạy bài 10 cho HS tiến hành tại lớp như sau. - 15 - * Cách tiến hành: Tổ 1: Đóng vai (Giúp người hoạn nạn, gặp khó khăn khi qua đường: người già, người tàn tật, trẻ em…) Tổ 2: Đóng vai (Hành vi vi phạm đạo đức: Con bất hiếu với ông bà cha mẹ…) Tổ 3: Đóng vai (Hành vi vi phạm pháp luật của HS hiện nay: An toàn giao thông, bạo lực trong học đường…) - HS: 3 tổ lên thực hiện, cả lớp trao đổi, bổ sung nhận xét. - GV: Nhận xét, kết luận và rút ra KNS cho HS qua phương pháp đóng vai trên. - Sau khi HS kết thúc GV đặt câu hỏi bài tập để làm rõ. + Bài tập: Làm con cha mẹ dạy bảo → cãi lại? Khi cha mẹ nói nặng liền dùng hành động đánh cha mẹ rồi lấy xe 10cc của cha mẹ bỏ nhà ra đi? Không có tiền vì quen theo thói ăn sài đã đi cướp giật… Hỏi: Em hãy chỉ ra đâu là vi phạm pháp luật? Vi phạm đạo đức? - Giúp HS nhận biết và hiểu đạo đức, pháp luật, các em có thể tự rút ra điểm giống nhau đều là điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với cộng đồng và xã hội. Từ đó, điều chỉnh hành vi của bản thân theo hướng tích cực. - Kĩ năng tự tin thể hiện mình trước tập thể, HS có thể bộc lộ khả năng cá tính của mình thông qua vai diễn, và có đã biết vận dụng những kĩ năng đã học ở bài học vào đời sống . - Biết giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn, biết quan tâm chia sẽ với mọi người xung quanh một cách tự nguyện. (Giúp bạn trong lớp nhà có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhường ghế cho người phụ nữ mang thai khi đi xe bus từ nhà tới trường…). - Có khả năng tự đánh giá năng lực của bản thân làm sao cho phù hợp với cộng đồng, xã hội. Hiện nay vấn đề về học sinh đánh nhau trong nhà trường đặc biệt là học sinh nữ, ngay cả trường chúng ta đã diễn ra các em cần tu dưỡng đạo đức, tham gia các hoạt động lành mạnh do đoàn trường và nhà trường tổ chức, tránh xa những thói quen không tốt. - Biết được cái nào cần thực hiện, việc gì nên tránh và hướng dẫn mọi người không vi phạm đạo đức, pháp luật … - Có ý thức tu rèn luyện đạo đức, đấu tranh loại bỏ những thói hư tật xấu trong bản thân: Đi xe gắn máy đội nón bảo hiểm, không chở quá người theo quy định, không dàn hàng ngang trên đường, không nói tục chửi thề, không cải lời cha mẹ… * Qua tiết dạy có tích hợp giáo dục KNS trong từng đơn vị kiến thức, bản thân tôi rút ra một số bài học: - HS sôi nổi, hứng thú và tích cực hơn trong giờ học, đa số các em tự tìn thể hiện mình trứơc tập thể và biết liên hệ thực tiễn cuộc sống tốt hơn. - Tuy nhiên vẫn còn có một số ít học sinh còn rút re chưa mạng dạn trong giao tiếp và còn ngại ngùng khi phát biểu suy nghĩ của bản thân về việc thực hiện đạo đức và pháp luật của mình trong thực tế. * Vậy để đạt hiệu quả ở bài dạy này, ta cần lưu ý một số điểm sau : - 16 - - GV phải chọn những bài hay những đơn vị kiến thức ngắn, tính trừu tuợng ít. - GV chọn những mẫu chuyện, tình huống, thông tin tích hợp vào từng nội dung bài dạy phải phù hợp với lứa tuổi, tâm lý để HS có thể thực hiện hiểu quả nhất ý đồ mà GV muốn truyền đạt tới HS. 4.1.2 Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học 1-a/ khái niệm nghĩa vụ - Phương pháp: Động não, so sánh, hình ảnh trực quan. - Giáo viên có thể tích hợp các kĩ năng phù hợp như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng phó với những căng thẳng ... - GV: Đưa ra bài tập tình huống cho HS so sánh, Sau đó cho HS bài tập để làm rõ khái niệm nghĩa vụ. Từ đó liên hệ nghĩa vụ của bản thân đối với bản thân, gia đình và xã hội. * Cách tiến hành: - Bước 1: Em hãy so sánh điểm giống và khác nhau giữa cha mẹ nuôi con và vật nuôi ở nhà nuôi con? - Bước 2: Đưa ra câu hỏi hoặc bài tập có tình huống cho HS giải thích. Bài tập: Trong xã hội hiện nay có một số người sống theo kiểu “ Đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Em có suy nghĩ và nhận xét gì? Em có đồng tình với kiểu sống của một số người như trên không? Vì sao? - Bước 3: Chiếu hình ảnh trực quan về “Nghĩa vụ” cho các em liên hệ thực tế. ( Thanh niên lên đường nhập ngũ) (Canh gác hải đảo) (Nghĩa vụ đối với xã hội) - 17 - - Muốn có được cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, không có chiến tranh thì nghĩa vụ đặt ra chúng ta cần phải làm gì? - Bước 4: Nhận xét, kết luận và rút ra KNS cho HS. * Giúp học sinh hiểu được nghĩa vụ là gì, xác định được nghĩa vụ của bản thân cần phải làm gì? Trong gia đình làm con, học sinh phải biết nghĩa vụ ngoan ngoãn, vâng lời ông bà cha mẹ, chăm sóc và phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, biết phụ giúp gia đình những công việc phù hợp với bản thân, sức khỏe… Trong nhà trường: Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng học phí, làm bài và học bài trước khi đến lớp, biết vâng lời thầy cô, thực hiện tốt nội quy nhà trường… Ngoài xã hội có ý thức tham gia những hoạt động chung của xã hội như: Bảo vệ môi trường, tham gia tình nguyện mùa hè xanh, giúp đỡ những người không may mắn trong cuộc sống, tham gia nghĩa vụ quân sự khi đủ tuổi… Những hình ảnh, bài tập và ví dụ trên giúp học sinh có kỹ năng phân tích, đánh giá nghĩa vụ của bản thân vận dụng vào trong thực tế cuộc sống. Phê phán những người thiếu ý thức nghĩa vụ đối với bản thân, gia đình và xã hội như quan điểm sống “Đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Đấu tranh với tư tưởng né tránh trong xã hội như gặp tai nạn giao thông không giúp đỡ, thấy người khác vứt xác động vật ra đường không tố cáo,… * Mục 4a: Hạnh phúc là gì? GV hướng dẫn hoc sinh trong lớp chơi một trò chơi “vẽ cây tâm trí ’’ bằng cách đặt câu hỏi sau : -“ Theo em hạnh phúc thể hiện như thế nào ?” - GV chia lớp thành 4 nhóm. - GV yêu cầu mỗi nhóm học sinh vẽ ra những điểu làm mình hạnh phúc bằng cách thể hiện trên những nhánh của cây . - Với mỗi biểu hiện học sinh dùng một màu khác nhau để vẽ ra . - Nhóm nào vẽ được nhiều nhánh cây thể hiện điều làm mình hạnh phúc, biểu thị bằng những hình tròn khép kín, đẹp sẽ là nhóm thắng cuộc. - Sau phần hoạt động của học sinh, giáo viên kết luận hạnh phúc là gì? Định hướng trong nhận thức và xác định giá trị cho học sinh. Qua hoạt động này sẽ tăng kỹ năng hợp tác và biết lắng nghe ý kiến, chia sẽ giữa các bạn trong nhóm của học sinh, khi đó học sinh tiếp thu khái niệm hạnh phúc một cách sâu sắc và hoàn thiện hơn. * Qua tiết dạy có tích hợp giáo dục KNS trong từng đơn vị kiến thức, bản thân tôi rút ra một số bài học: - HS tích cực, các em biết về nghĩa vụ của mình và có thể kể về những công việc mà các em đã làm để thể hiện nghĩa vụ của mình đối với lớp học, truờng, đối với gia đình và xã hội . - HS hiểu đuợc học tập không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của các em đối với bản thân, gia đình và xã hội. - 18 - - Thông qua tiết học các em thể hiện tình thần đoàn kết, chia sẽ, lắng nghe ý kiến khi cùng nhau làm nhiệm vụ GV phân công . 4.1.3 Bài 12: Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình - Phương pháp: nêu vấn đề, xử lí tình huống. - Giáo viên có thể tích hợp các kĩ năng phù hợp như: Kĩ năng giải quyết vấn đề, ra quyết định, kỹ năng từ chối, trình bày suy nghĩ , ý tưởng. - Mục đích: Giúp học sinh hiểu được và biết điều nào trong tình yêu chúng ta cần giữ gìn và điều nào cần tránh. * Mục 1.b: Thế nào là một tình yêu chân chính? * Cách tiến hành: - Giáo viên có thể đưa ra các mẩu chuyện sau: Mẩu chuyện 1: Trong một buổi giao lưu Hồng đã gặp Sơn và đã thầm yêu Sơn - một người chiến sỹ biên phòng. Gia đình và bạn bè chê bai Hồng vì sao không yêu những chàng trai có địa vị xã hội, có học vấn, có tiền của ... lại yêu một người lính. Mẩu chuyện 2: Hùng và Hòa học với nhau một lớp từ phổ thông. Hai người thường xuyên giúp đỡ nhau trong cuộc sống và học tập. Cả hai đều đậu vào Đại học và đến năm cuối Đại học họ đã công bố cho gia đình và bạn bè về tình yêu của họ. Mẩu chuyện 3: Ông An và ông Hoàng là chỗ bạn bè thân thiết. Thủy con gái ông An một người con gái giỏi giang, xinh đẹp ... Hai ông muốn làm thông gia với nhau nên đã cùng với con trai ông Hoàng tìm mọi cách để có được tình cảm của Thủy. Câu hỏi: Trình bày quan điểm về các trường hợp trên? * Mục 1-c. Những điều cần tránh trong tình yêu của nam nữ thanh niên hiện nay * Cách tiến hành: Bước 1: GV cho HS tìm hiểu và giải quyết tình huống sau: Hiện nay có một số quan niệm cho rằng: +“Tuổi HS trung học phổ thông là lứa tuổi đệp nhất, không yêu sẽ bị thiệt thòi.”Em cho biết ý kiến của mình, có đồng tình với quan niệm trên hay không? Vì sao? + Thời kì phong kiến cho rằng “Nam nữ thụ thụ bất thân”, thời đó không được lựa chọn người mình yêu…là xưa rồi, thời nay chúng ta phải yêu một lúc nhiều người để có nhiều cơ hội lựa chọn. + Theo em “ Nam nữ thụ thụ bất thân” của thời kì phong kiến áp dụng vào thời kì hiện nay có còn phù hợp không? Em có đồng tình với quan niệm yêu một lúc nhiều người để có nhiều lựa chọn? Vì sao ? + Hiện nay quan niệm của giới trẻ cho rằng: Khi yêu là yêu hết mình, hiến dâng cho nhau tất cả (sống thử trước hôn nhân) mà không cần suy nghĩ đắn đo. Câu hỏi: Em có đồng tình với quan niệm trên hay không? Nếu là em, em sẽ thể hiện quan niệm tình yêu của mình như thế nào? - 19 - - HS Trình bày quan niện sống của mình về tình yêu, tất nhiên có rất nhiều quan điểm khác nhau được nêu ra, GV cần lắng nghe và tôn trọng tất cả các ý kiến trên (không nên phủ nhận). Cần có thái độ tế nhị, chia sẽ kiến thức như một người bạn đáng tin cậy để HS có thể bọc lộ tâm tư, tình cảm của mình khi chia sẽ vấn đề này. từ đó giúp các em hiểu sâu sắc ý nghĩa của tình yêu trong sáng, lành mạnh phù hợp với quan niệm đạo đức xã hội. có trách nhiệm sống nghiêm túc với bản thân. - GV: Sau khi HS thể hiện hết ý kiến của mình, GV nhận xét và đưa ra những dẫn chứng bằng kinh nghiệm sống của mình dưới nhiều góc độ khác nhau để thuyết phục. Ví dụ: Sống thử trước hôn nhân đặc biệt ở lứa tuổi học trò là vi phạm pháp luật dù có đồng tình từ 2 phía nhưng chưa tới độ tuổi pháp luật cho phép, “Sống thử” có thể để lại nhiều vấn đề phức tạp như có thai ngoài ý muốn, mất khả năng làm mẹ, quan hệ tình dục không an toàn dẫn đến HIV/AIDS. Đặc biệt, phái nữ sẽ bị thiệt thòi và chịu nhiều tai tiếng… - Các giá trị truyền thống cho tới nay vẫn còn có ý nghĩa nhất định và tình yêu chân chính không nhất thiết phải chứng minh bằng sống thử trước hôn nhân. - Không đổ lỗi cho hoàn cảnh xã hội, gia đình sau khi hiểu rõ tác hại của việc yêu sớm và sống thử hay chạy theo mốt yêu nhiều người mới chứng tỏ mình với bạn khác phái…Các em hãy tập trung học tập thật tốt, sau khi có công việc ổn định tuổi tác đã chửng chạc thì xác định yêu và tiến tới hôn nhân vẫn chưa muộn màng. - Biết đấu tranh chống lại tư tưởng về lối sống buông thả vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội, biết cách bảo vệ mình và làm chủ được danh dự và nhân phẩm của chính mình, đừng để sự việc xảy ra mới hối hận muộn màng. * Qua tiết dạy có tích hợp giáo dục KNS trong từng đơn vị kiến thức, bản thân tôi rút ra một số bài học: - Với những câu chuyện phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn GV đã sự tập trung của học sinh. -Thông qua những câu chuyện, tác động trực tiếp tới suy nghĩ, cảm xúc của người học. - Học sinh hình thành kĩ năng xác định giá trị, cảm thông, chia sẻ với những người xung quanh mình. - Học sinh tích cực suy nghĩ để có thể lập luận chặt chẽ, đưa ra những ví dụ dẫn chứng, rèn luyện tính kiên định, tư duy phê phán và khả năng giao tiếp có hiệu quả. - Với những mối quan hệ trong cuộc sống như quan hệ với bạn bè, bố, mẹ, hàng xóm ... Học sinh sẽ lựa chọn cách ứng xử phù hợp với từng đối tượng và trong từng hoàn cảnh cụ thể. - Đây là đơn vị kiến thức hay giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ thực tế là dẫn chứng tuy nhiên trong quá trình dạy tôi thấy một số ít học sinh (đặc biệt là nam sinh) các em còn e dè và lãng trách những vấn đề về tình yêu, giáo dục giới tính. * Vậy để đạt hiệu quả ở đơn vị kiến thức này, ta cần lưu ý một số điểm sau: - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng