Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn tạo hứng thú trong giờ học ngữ văn cho học sinh trường thpt nguyễn đình chi...

Tài liệu Skkn tạo hứng thú trong giờ học ngữ văn cho học sinh trường thpt nguyễn đình chiểu.

.DOC
27
2044
71

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Người thực hiện: Lê Thị Bích Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn  - Lĩnh vực khác:  Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học: 2014 - 2015 0 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Lê Thị Bích 2. Ngày tháng năm sinh: 01 – 05 - 1985 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: Tam Phước – Biên Hòa – Đồng Nai 5. Điện thoại: 01665.194.055 6. E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: Giáo viên 8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy lớp: 10A1, 10A2, 10A3, 11A7; Chủ nhiệm lớp 10A1 9. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Đại học Năm nhận bằng: 2010 Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Ngữ văn III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Ngữ văn Số năm có kinh nghiệm: 05 1 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đổi mới quan điểm, phương pháp dạy học là một yêu cầu của nền giáo dục hiện nay nhằm đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp giáo dục đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhất là hiện nay Bộ Giáo dục đang chỉ đạo về đổi mới hình thức thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh Đại học – Cao đẳng trong cả nước và cải cách chương trình sách giáo khoa thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy của mỗi giáo viên để bắt nhịp với nhu cầu đổi mới là rất quan trọng. Đặc biệt, môn Ngữ văn lâu nay lại là môn thi bắt buộc trong kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông(THPT), thế nhưng đa số phụ huynh và học sinh lại thường hướng vào chọn các môn tự nhiên ít có học sinh hứng thú học văn, “bởi phần đông học sinh nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một chút, ra đời vẫn không sao, vẫn nói và viết được, còn không học ngoại ngữ, không học khoa học kĩ thuật thì coi như chịu phép. Có thể đó là lí do làm cho đa số học sinh không cố gắng học ngữ văn” (Giáo sư Trần Đình Sử). Đó là khó khăn rất lớn đối với các thầy cô giáo dạy Văn. Vậy làm sao để khiến học sinh hứng thú khi học văn? Đó là một nhiệm vụ quan trọng mà bản thân mỗi giáo viên phải luôn trăn trở, tìm tòi, suy nghĩ. Từ năm học 2013 – 2014 Bộ chỉ đạo đổi mới hình thức ra đề thi Ngữ văn, khẳng định lại đây là môn thi bắt buộc thì nhiệm vụ đặt ra cho người thầy dạy môn Ngữ văn THPT lại nặng nề hơn, đó là làm sao để các em vừa “thích” học văn, vừa đạt điểm cao khi đi thi? Tôi nghĩ rằng tất cả những người dạy Văn đều đã, đang và sẽ nỗ lực hết mình để tìm ra một những phương pháp dạy học thật hay, thật cuốn hút để giúp các em “hứng thú” với môn Ngữ văn hơn và chắc chắn đã có những đề tài tìm hiểu về cách gây hứng thú học Văn cho học sinh. Đối với giáo viên môn Ngữ văn trường THPT Nguyễn Đình Chiểu chúng tôi đa số là tuổi đời, tuổi nghề còn trẻ, kinh nghiệm chưa có nhiều nhưng qua 5 năm công tác cùng với chị em trong tổ tôi nhận thấy rằng tất cả mọi người đã nỗ lực hết mình để làm sao tạo được hứng thú học Ngữ văn cho học sinh toàn trường. Những cố gắng đó đã được ghi nhận bằng những con số qua các kì thi nhất là kì thi tốt nghiệp THPT(đạt chỉ tiêu của trường và Sở đề ra), học sinh đạt giải môn Văn trong các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh và tôi thấy học sinh ngày càng yêu thích môn Văn hơn, không còn hoặc chỉ còn số ít em có tâm lí “chán” môn Văn. Mặc dù đã có rất nhiều ý kiến bàn về vấn đề này, nhưng trong phạm vi đề tài này tôi xin được đưa ra một số kinh nghiệm đã sử dụng trong thực tế giảng dạy của bản thân và thông qua các tiết dự giờ rút kinh nghiệm của các thành viên trong tổ Văn – trường THPT Nguyễn Đình Chiểu mà theo tôi đã ít nhiều tạo được hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn Ngữ Văn chính vì thế tôi xin được mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Tạo hứng thú trong giờ học Ngữ văn cho học sinh trường THPT Nguyễn Đình Chiểu”. 2 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận Ngày nay, thế giới ngày càng phát triển chính vì thế nó đòi hỏi nước ta cũng phải phát triển toàn diện tất các các lĩnh vực, nhất là giáo dục. Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II - Khóa VIII). Trong sự đổi mới nền giáo dục thì đổi mới phương pháp dạy học lúc nào cũng được chú trọng hàng đầu, phải làm sao, làm cách nào để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học sinh, sinh viên tiếp thu bài hiệu quả nhất. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ- BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cũng đã nêu: “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS”. Vì thế tạo hứng thú học Ngữ văn cho học sinh cũng là một phương pháp đổi mới. Theo Từ điển Tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2005, hứng thú có hai nghĩa, đó là “hứng thú là sự ham thích” và “Cảm thấy có hứng thú, hào hứng”. Qua khái niệm trên ta có thể hiểu: hứng thú có nghĩa làm tâm trạng vui vẻ, thích thú, hào hứng của con người đối với một hoạt động nào đó. Và có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công và thành công nhanh hơn. Hứng thú có tác dụng rất lớn nó làm cho tâm trạng chúng ta lúc nào cũng vui vẻ, phấn khích. Còn trong dạy học, bất kì môn học nào cũng cần sự hứng thú ở học sinh bởi vì không có hứng thú thì học sinh không hợp tác với thầy cô, cảm thấy uể oải trong giờ học; khi có hứng thú các em sẽ có động cơ học tập, hay phát biểu kiến, hay thắc mắc, khám phá tri thức, chủ động, tự giác hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao cho. Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi.... “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.” (Viện KHGD - “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.). Vì thế những người làm công tác giáo dục nói chung và người thầy dạy Văn nói riêng phải không ngừng tìm ra các biện pháp gây hứng thú cho học sinh trong mọi hoạt động học tập và giáo dục, có như vậy mới phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học, hướng trọng tâm vào học sinh, tạo tính tự giác học tập, tự học, tự nghiên cứu trong học sinh, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào đời sống 2. Cơ sở thực tiễn Thực tế trong thời gian qua thực hiện nhiệm vụ đổi mới của ngành giáo dục chúng ta đã đạt được những kết quả đáng kể, tuy nhiên đối với môn Ngữ văn học sinh vẫn chưa thật sự hứng thú, các em vẫn đua nhau tập trung vào những môn học 3 tự nhiên và ngoại ngữ nhiều hơn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả chủ quan lẫn khách quan, có thể nêu ra đây những nguyên nhân cơ bản - Xét về phía xã hội: thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, dễ hiểu là đại đa số học sinh chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế… “Tình trạng thờ ơ với các môn học, đặc biệt là môn Văn hiện đã đến mức báo động”(Văn học và Tuổi trẻ - Số tháng 12(153), 2007). - Về phía giáo viên: Lâu nay chúng ta suy nghĩ theo cách cũ là thầy nói gì thì học trò phải nghe như thế, không cãi lại dẫn đến sự trì trệ, thụ động của cả một thế hệ học sinh đã qua. Đó là sự áp đặt của thầy nên chưa phát huy tính tích cực ở học sinh. - Về nguyên nhân ở phương pháp dạy học văn: Phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng; chỉ cung cấp kiến thức áp đặt, học sinh phải học thuộc kiến giải của thầy; chưa xem học sinh là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập; chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc văn; Về dạy học làm văn nghị luận chủ yếu vẫn là dạy làm văn theo đề sẵn và văn mẫu của bộ đề; Dạy tiếng Việt thì nặng về dạy lí thuyết, ít thực hành, trau dồi ngữ cảm. Có thể là chưa hoàn toàn chính xác, song những điều nói trên có thể coi là bức tranh chung về phương pháp dạy học ngữ văn hiện nay. “Hậu quả của nó không chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục, mà hơn thế, còn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học sinh trơ lì, chán học, làm mòn mỏi trí tuệ, phá hoại tư duy. Hệ quả của nó là một hệ quả kép, vừa giảm thiểu kết quả giáo dục vừa phá hoại bản thân giáo dục. Phải thấy rõ điều đó thì mới thấy nhu cầu đổi mới”.(“Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn” – Trần Đình Sử) Đối với học sinh trường THPT Nguyễn Đình Chiểu một thực tế là lực học của các em còn yếu, đầu vào của học sinh là xét tuyển nên chưa sàng lọc hết những em thật sự có thành tích, có y thức và ham mê học tập. Cho nên vừa để các em thích học Văn, vừa để các em thi cử đạt kết quả cao quả là điều rất khó khăn đối với tập thể giáo viên trường THPT Nguyễn Đình Chiểu nói chung và tổ Văn chúng tôi nói riêng. Bản thân là giáo viên dạy Văn, tôi luôn băn khoăn, trăn trở là làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn, làm sao để chất lượng học tập môn Ngữ văn của trường mình được cải thiện hơn và điều quan trọng là làm sao các em biết tự bộc lộ mình, nói lên được những suy nghĩ trước tập thể và trong những trang viết của mình. Và làm sao trong mỗi tiết giảng luôn để lại cho học sinh những ấn tượng khó quên. Và nhất là bản thân được dự buổi Hội thảo môn Văn do Sở giáo dục và đào tạo Đồng Nai tổ chức ngày 23/4/2015 và vinh dự hơn nữa là trong buổi hội thảo đó chúng tôi được nghe thầy Nguyễn Trọng Hoàn(Vụ Giáo dục THPT) nói chuyện về việc đổi mới việc dạy Văn, đổi mới về việc kiểm tra đánh giá môn Văn thì tôi càng trăn trở hơn đó là làm sao tạo được hứng thú học Văn của các em. Xuất phát từ thực trạng học tập môn Ngữ văn hiện nay, từ thực tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp trường THPT Nguyễn Đình Chiểu tôi mong rằng đề tài này sẽ được sự đón nhận của đồng nghiệp trong trường và cả 4 trường bạn và hy vọng phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Thực trạng trước khi thực hiện giải pháp: Theo kết quả điều tra của bản thân tôi vào đầu năm học 2013 - 2014 bằng phiếu lấy ý kiến(đính kèm): ?Môn học yêu thích của em? Toán  Lí  Hóa  Ngữ văn  Lịch sử  Địa lí  Giáo dục công dân  Sinh học  Tin học  Công nghệ  Thể dục – Quốc phòng  ? Năng lực học môn Văn của em ở mức nào? Giỏi  Khá  TB  Yếu  Kết quả khảo sát cho thấy, trong tổng số 55 phiếu điều tra học sinh của lớp 11A8 và 10A6, trong đó: Thích môn Ngữ văn là 18 em; Năng lực: Giỏi: 0, Khá: 18, Trung bình: 22, Yếu: 15 Từ thực trạng đó tôi đã tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài từ đầu năm học 2013 – 2014 đến hết học kì I, năm học 2014 – 2015 bằng một số biện pháp gây hứng thú trong giờ học Ngữ văn như sau: 1. Gây hứng thú bằng nghệ thuật lên lớp của giáo viên: Nghệ thuật lên lớp của giáo viên được xem là yếu tố quan trọng nhất. Nghệ thuật lên lớp của giáo viên là: 1.1. Giáo viên phải tác động vào tình cảm, nhận thức học sinh: Đây là khâu rất quan trọng để gây hứng thú học tập Ngữ văn bởi vì môn Văn khác với các môn học tự nhiên không phải nhìn vào những con số để chỉ ra đúng – sai mà mọi y nghĩa đều nằm bên trong con chữ. Muốn dạy được một tiết Văn hoàn chỉnh trước tiên giáo viên phải xác định được mục tiêu về kiến thức và kỹ năng, có nghĩa là dạy cái gì, dạy như thế nào và dạy để làm gì? Một tác phẩm nhà văn viết ra nó chứa đựng những bài học to lớn về y nghĩa cuộc sống chứ phải là những con chữ khô khan. Chính vì thế người thầy phải làm sao sau mỗi bài học học sinh biết yêu cái đẹp, cái thiện; biết ghét xấu; đồng cảm với những số phận không may mắn; biết sống như thế nào cho tốt đó là chúng ta đã tác động vào tình cảm và nhận thức của các em 5 1.2. Xây dựng không khí lớp học: Tạo không khí lớp học sôi nổi, bám sát nội dung bài học, học sinh thoải mái là điều không phải dễ trong tiết dạy Văn. Trong các giờ dạy thời gian một tiết học là 45 phút nhưng có khi chúng ta dạy chỉ dạy khoảng 42, 43 phút, nếu là tiết học cuối buổi chúng ta nói với các em là “Các em học bài tiếp theo” thì đa số các em thường năn nỉ “Thôi cô ơi còn 2 phút nữa hết giờ cô cho chúng em được nghỉ 2 phút đó, hoặc cô kể chuyện gì cho hết giờ đi cô!”. Nghe các em nói thế chúng ta cũng không nên la mắng các em, mà nên hiểu rằng: “Bắt đầu làm việc bằng sự nghỉ ngơi” (Ngạn ngữ Đức). Đúng vậy, trong mọi công việc, 40 phút làm việc và 5 phút để thư giãn sẽ mang lại kết quả lớn so với 45 phút làm việc liên tục bị gò bó. Giáo viên có thể tạo không khí lớp học bằng các chuyện vui, các câu thơ, câu văn, bài hát hay hình thức đố vui, đóng kịch có liên quan đến nội dung bài học; bằng các tranh vẽ, sơ đồ... để gợi hứng thú, trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh. Vì thế, trong một tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu chuyện về nhà văn...sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi ngay; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại mà giáo viên kể. Và như thế lớp học sẽ sôi động hẳn lên, các em sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn. Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh tích cực làm việc hơn, quá trình tư duy sẽ được thúc đẩy. Nhờ đó kiến thức của học sinh sẽ được mở rộng và đi sâu vào bản chất của vự việc, hiện tượng; kết quả là các em nhanh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn. Ví dụ dạy Ngữ văn 10: Khi dạy bài “Ca dao thân thân, yêu thương tình nghĩa” có thể cho các em hát vài làn điệu dân ca, một điệu hò,… Dạy đoạn trích “Uy-lit-xơ trở về” có thể cho các em phân vai đóng một đoạn kịch. Dạy Truyện cổ tích “Tấm Cám”, Truyện cười: “Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày” có thể cho các em đóng kịch dựng lại cốt truyện,…. Khi dạy “Tấm Cám” để thay đổi cách tóm tắt truyện bằng lời chúng ta cũng có thể cho các em tóm tắt truyện bằng tranh ảnh: 6 Dạy Ngữ văn 11: dạy bài đọc thêm “Bài ca phong cảnh Hương Sơn” của Chu Mạnh Chinh có thể khuyến khích các em hát nói hoặc hát bài hát “Đi chùa Hương” phỏng thơ “Em đi chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp. Dạy bài “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trong phần giới thiệu về nghệ thuật viết chữ thư pháp có thể cho các em xem các bức tranh viết chữ thư pháp hoặc về Cảnh cho chữ thì xem tranh minh họa cảnh Huấn Cao cho chữ: Hoặc khi dạy phần Tiểu dẫn bài “Chữ người tử tù” đoạn tóm tắt nội dung tập truyện “Vang bóng một thời” giáo viên có thể kể cho các em nghe thêm một số truyện khác để thấy phong cách nghệ thuật văn chương Nguyễn Tuân là “đi tìm và ca ngợi cái đẹp” như truyện “Chém treo ngành”. Dù học sinh thấy sợ về cách chém đầu người của Bát Lê nhưng từ đó giáo viên có thể khẳng định lại cho các em biết rằng đối với Nguyễn Tuân ông chỉ quan tâm đến cái tài, cái đẹp. Hay sự trân trọng nét đẹp truyền thống cùng chủ đề với “Chữ người tử tù” đó là “Hương cuội”. Hoặc phân vai đóng một đoạn kịch khi học bài “Tình yêu và thù hận” Đối với môn Ngữ Văn 12, khi dạy bài “Sóng” của Xuân Quỳnh có thể cho một em hát bài hát “Thuyền và biển”, Xem các bức ảnh về sông Đà khi dạy “Người lái đò sông Đà”, về sông Hương thơ mộng khi dạy “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, hoặc dạy bài “Sóng” cho các em xem những bức ảnh về Xuân Quỳnh, về cảnh dữ dội và dịu em của sóng. Khi củng cố bài học “Đàn ghi–ta của Lor-ca” cho hai em lên biểu diễn: một em hát, một em chơi đàn Ghi –ta ,… 1.3. Phong phú, đa dạng và luôn đổi mới về phương pháp: Giáo viên luôn thay đổi về phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt. Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn của bài “ Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân, sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập I, thay vì dùng phương pháp vấn đáp (hỏi và ghi chép), giáo viên ghi sẵn trên bảng và bỏ ngỏ những ý chính sau: 1.Tác giả: a. Cuộc đời: 7 - Năm sinh: ................, năm mất............. - Quê quán:............................... - Xuất thân trong gia đình:................................. - Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời: .................... b. Sự nghiệp sáng tác: - Các tác phẩm chính:....................................... - Đánh giá:............................ 2. Tác phẩm: - Xuất xứ:................ Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động và học sinh hứng thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các em sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn nếu trong giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy- học. 1.4. Kích thích hứng thú học Ngữ văn bằng phương pháp dạy học theo tình huống và giải quyết vấn đề: Dạy học theo tình huống là việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập. Dạy học giải quyết vấn đề là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. Dạy học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Từ đó đòi hỏi các em phải suy nghĩ, lựa chọn và giải thích vì sao tình huống đó lại như thế, vì sao em chọn nó? Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào chưa tìm ra được câu trả lời. Ví dụ: Khi dạy truyện cổ tích “Tấm Cám”, Ngữ văn 10, tập I giáo viên có thể đưa ra hai kết thúc câu chuyện: một là kết thúc theo văn bản sách giáo khoa: “ Khi ở quán nước bà lão, hoàng thượng nhận ra Tấm và đưa nàng về cung. Thấy chị về xinh đẹp hơn xưa, Cám hỏi Tấm sao lại đẹp hơn như thế, Tấm bảo Cám ngồi xuống hố rồi giội nước sôi lên, Cám chết”; kết thúc thứ hai là “Khi Cám chết Tấm làm thịt Cám, chặt ra từng miếng làm mắm rồi gửi về cho dì ghẻ(lúc này bị đuổi về quê) ăn. Dì vừa ăn vừa khen ngon thì có con quạ bay qua hót “Ngon gì mà ngon – Mẹ ăn thịt con có còn xin miếng”, dì nhìn xuống thấy cái đầu lâu Cám và lăn đùng ra chết”. Khi kể xong hai cách kết thúc câu chuyện giáo viên có thể hỏi học sinh “Em đồng y với cách kết thúc nào? Vì sao? Lúc đó các em sẽ sôi nổi cùng bàn luận và đưa ra y kiến: Có em sẽ chọn kết thúc trong sách giáo khoa vì em lí giải là nếu theo kết thúc cô kể thì Tấm không còn hiền lành nữa mà giết người rồi làm mắm thì ác quá. Nhưng ngược lại em khác sẽ đứng lên phản bác lại là em chọn kết thúc theo lời cô kể vì như thế mới đúng với quan niệm của nhân dân ta “gieo nhân nào thì gặp quả ấy”, Cám giết Tấm nhiều lần như thế nào là làm thịt chim vàng anh, nào là chặt cây xoan đào, 8 …. mà Tấm giết Cám chỉ một lần và làm mắm Cám thì mới trừng trị thích đáng cái ác được. Sau khi các em tranh luận, chọn câu trả lời xong thì giáo viên mới nhận xét và định hướng cách giải quyết. Hoặc cũng có thể đưa ra tình huống: “Vì sao tác giả dân gian lại cho Tấm biến hóa nhiều lần như vậy?”. Khi dạy “Hồi trống Cổ Thành”, giáo viên có thể đặt câu hỏi: “Vì sao tác giả lại cho Sái Dương dẫn quân xuất hiện khi Quan Công vừa nói với Trương Phi “Nếu ta đến bắt em, tất phải đem quân mã chứ!”?”. Khi dạy tác phẩm “Chí Phèo”- sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên đặt ra những tình huống có vấn đề: -“Tại sao Nam Cao lại để cho ba con chó “lên tiếng” đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo?” – “Tại sao Nam Cao lại xây dựng nhân vật thị Nở xấu ma chê, quỷ hờn như vậy?” Dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” – Sách Ngữ văn 11, tập II, giáo viên có thể đặt ra tình huống có vấn đề: - “Hãy chỉ ra mạch cảm xúc liên kết ba khổ thơ tưởng chừng như rời rạc?” Tập luyện cho học sinh biết giải quyết các vấn đề từ đơn giản đến phức tạp trong học tập không những tạo nên sự hưng phấn mà chính là chuẩn bị cho các em khả năng sáng tạo, giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống. 1.5. Gắn bài giảng với thực tế cuộc sống: Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ giáo viên chỉ mải mê với những lí thuyết khô khan mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Lúc này, Ngữ văn đối với học sinh chỉ còn là một môn học bắt buộc, xa lạ....Trong khi đó, Ngữ văn lại có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn, với tâm hồn học sinh. Vì vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những có tính chất bắt buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng thú học tập cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài “Thương vợ” hay “Tự tình – bài II” – Sách Ngữ văn 11, tập I giáo viên có thể liên hệ với cuộc sống ngày nay bằng câu hỏi: “Người phụ nữ ngày nay có gì giống và khác với hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ?”, hay trong “Chiếu cầu hiền”, “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” giáo viên cũng đặt câu hỏi để học sinh liên hệ thực tế: “Em suy nghĩ như thế nào về vai trò của “người hiền” ngày nay? Nhà nước ta có những chính sách gì để kêu gọi những người có tài ra giúp nước?”. Với “Vội vàng” sau khi học xong giáo viên có thể nêu câu hỏi để học sinh liên hệ bản thân: “Từ quan niệm sống của Xuân Diệu em hãy nêu bài học về quan niệm sống của bản thân em?”. Đối với bài “Phong cách ngôn ngữ báo chí”, ngoài những ví dụ trong sách giáo khoa chúng ta có thể yêu cầu các em viết một bản tin về tình hình học tập hay phong trào của lớp; thực hiện một phóng sự về trường em. Với việc học sinh thực hiện nhiệm vụ này chúng ta đã phần nào đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp, đó là phương pháp Vận dụng dạy học định hướng hành động. Khi dạy bài “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn”, ngoài những bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên yêu cầu học sinh viết một bài phỏng vấn thầy cô về công việc dạy học ở trường mình hoặc viết bài phỏng vấn bạn cùng lớp về việc thực hiện 9 nề nếp, học tập. Từ đó làm cho hoạt động trí học và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau, vận dụng được nguyên lí giáo dục kết hợp lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội. 1.6. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lí vào dạy học Ngữ văn để gây hứng thú: Chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin. Đây là một phương tiện giúp chúng ta thuận lợi hơn trong mọi công việc. Nhất là ngày nay ở lứa tuổi học sinh từ khi còn ở bậc tiểu học các em đà tò mò khám phá những điều thú vị từ công nghệ thông tin, vậy thì đến bậc THPT các em còn hiểu biết nhiều hơn. Nếu bản thân giáo viên biết ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học thì chắc hẳn môn Ngữ văn sẽ tác động mạnh mẽ đến tâm hồn các em hơn, làm các em thấy môn học này gần gũi, thú vị dễ khám phá và nắm bắt tri thức hơn; không còn bắt các em chỉ nhìn vào phấn trắng, bảng đen đơn thuần nữa. Những đoạn phim, những tranh ảnh, những lời ca tiếng hát...không những nói hộ giáo viên nhiều điều mà còn làm cho các em say mê, hứng thú hơn môn học này. Ví dụ: Khi dạy bài “Tấm Cám” chúng ta có thể cho các em xem tranh ảnh, trích một số đoạn phim về nội dung câu chuyện. Khi dạy “Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa” có thể cho các em nghe một bài hát, một làn điệu dân ca nào đó. Với “Hồi trống Cổ Thành” giáo viên cũng có thể cho các em xem phim về đoạn trích. Khi dạy“ Chí Phèo”Sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên cho học sinh xem một vài đoạn phim nhỏ nói về hình ảnh Chí Phèo cùng với tiếng chửi, hình ảnh của thị Nở cùng với bát cháo hành, hình ảnh chí Phèo hiền lành sau khi ăn cháo hành... Với đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” có thể cho các em xem một số đoạn phim, như cảnh đám ma, cảnh hạ huyệt cậu Tú Tân chụp hình,… Khi dạy bài “ Phong cách ngôn ngữ báo chí” thay vì tìm hiểu “chay” những thể loại và đặc điểm của chúng thì giáo viên có thể tận dụng công nghệ thông tin đưa một bản tin thời sự, một đoạn phóng sự ngắn, hay đoạn quảng cáo,…Hoặc bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” chúng ta cũng có thể tận dụng đưa lên trình chiếu đoạn hội thoại trong sách giáo khoa hoặc cho các em xem một đoạn phim có sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt. Đối với những bài thơ có thể cho các em nghe những bài ngâm của các nghệ sĩ như “Đây thôn Vĩ Dạ” có thể nghe nghệ sĩ Hồng Ngát ngâm. Khi dạy lớp 12, một số bài chúng ta cũng có thể tận dụng thao tác này như “Sóng”, “Đàn ghi-ta của Lor-ca”, hay lời đọc “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Có thể xem một đoạn phim hay những bức ảnh về hình ảnh sông Hương hay sông Đà khi dạy “Ai đã đặt tên cho dòng sông” và “Người lái đò sông Đà”. Ở bài “Vợ chồng A Phủ” có thể cho các em nghe bài hát “Bài ca trên núi” khi dạy Tiểu dẫn. Ở bài “Tóm tắt văn bản thuyết minh”- Ngữ văn 10, tập II trong bài luyện tập trang 72,73 thay vì đọc tóm tăt văn bản “Đền Ngọc Sơn và hồn thơ Hà Nội” giáo viên có thể cho các em xem một đoạn phim có lồng lời thuyết minh cho văn bản này. Tất cả sẽ tác động trực tiếp đến tâm hồn của các em, làm cho các em phải trăn trở suy nghĩ và từ đó sẽ gây hứng thú hơn trong việc tìm hiểu tác phẩm, tìm hiểu về số phận của nhân vật và chắc hẳn niềm hứng thú học văn chương sẽ tăng lên rất nhiều trong tâm hồn các em. 2. Gây hứng thú bằng việc lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn 10 Chúng ta thường nghe nói “Học mà chơi, chơi mà học”. Chính vì thế việc tận dụng các trò chơi cũng góp phần làm nên sự thành công trong bài học. Giáo viên có thể cho các em chơi các trò chơi như ô chữ, đoán từ qua hình ảnh – hành động, tiếp sức,… * Ví dụ: với bài “Thực hành về thành ngữ, điển cố”- Ngữ văn 11, Tập I giáo viên có thể cho cho học sinh chơi trò chơi là nhìn vào hình ảnh động trên máy chiếu và đoán xem đó là thành ngữ, điển cố gì khi củng cố bài học. Hay trong bài “Sóng” cũng có thể cho các em chơi trò chơi tiếp sức: đó là trong phần tìm hiểu Tiểu dẫn giáo viên chuẩn bị hai bảng phụ có ghi tên các sáng tác của Xuân Quỳnh, trong vòng một phút hai dãy của lớp thay nhau lên điền năm sáng tác bên cạnh các sáng tác đã có sẵn, đội nào đúng – đủ và nhanh nhất sẽ là đội chiến thắng. Từ đó có thể nhận thấy các em rất hứng thú, sôi nổi, chủ động. * Ví dụ: Khi học bài ôn tập “ Văn học dân gian Việt Nam” sách Ngữ văn 10, tập 1, giáo viên yêu cầu học sinh điền tiếp vào sau các từ mở đầu Thân em như... và Chiều chiều... thành những bài ca dao trọn vẹn. Lớp chia thành hai dãy và chuẩn bị nội dung đã bốc thăm - Dãy 1: Chủ đề “ Thân em như...” - Dãy 2: Chủ đề “ Chiều chiều...” Mỗi nhóm lần lượt cử đại diện lên trình bày. Các em luân phiên đọc diễn cảm các bài ca dao và bình giá trị nghệ thuật cũng như nội dung các bài ca dao vừa đọc. Học sinh nào trong thời gian ngắn nhất mà vừa đọc diễn cảm bài ca dao, vừa bình tốt giá trị nội dung và nghệ thuật thì giáo viên ghi nhận và cho điểm. 3. Giáo án minh họa: Giáo án trước khi áp dụng đề tài: Tiết 17, 18: Đọc văn TẤM CÁM I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT - Hiểu được ý nghĩa của những mâu thuẫn, xung đột trong truyện và sự biến hoá của Tấm. - Nắm được đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích thần kì qua một truyện cụ thể. B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG 1. Kiến thức - Những mâu thuẫn, xung đột giữa dì ghẻ và con chồng trong gia đình phụ quyền thời cổ, giữa thiện và ác trong xã hội. Sức sống mãnh liệt của con người và niềm tin của nhân dân. - Kết cấu của truyện cổ tích: người nghèo khổ, bất hạnh trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Sử dụng hợp lí, sáng tạo các yếu tố thần kì. 2. Kĩ năng - Tóm tắt văn bản tự sự. - Phân tích một truyện cổ tích thần kì theo đặc trưng thể loại. 11 C. NỘI DUNG LÊN LỚP 1. Ổn định, kiểm tra - Ổn định lớp: kiểm tra sĩ số - Kiểm tra bài cũ : Em có cảm nhận gì về con người Ra-ma qua đoạn trích “ Ra-ma buộc tội”? 2. Tiến trình tổ chức dạy học bài mới Hoạt động của thầy và trò Nội dung * Hoạt động 1: - Tạo tâm thế: giới thiệu bài - Tìm hiểu tiểu dẫn I. Tiểu dẫn Cho học sinh đọc phần tiểu dẫn trong SGK. 1. Thể loại 1. Hãy nêu các thể loại truyện cổ tích? "Tấm Truyện cổ tích thần kỳ Cám" thuộc thể loại nào? 2. Nêu đặc trưng cơ bản của thể loại cổ tích 2. Đặc trưng thần kì? Gv yêu cầu học sinh lấy ví dụ? Có sự tham gia của các yếu tố thần kỳ vào tiến trình phát triển của câu chuyện (Bụt, Tiên, hay sự biến hoá thần kỳ). * Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản II. Đọc - hiểu văn bản GV gọi HS đọc hướng dẫn HS đọc đúng thể loại tự sự. Cho HS tìm hiểu các chú thích. GV chốt lại các chú thích tiêu biểu.) (Cách đọc: - Đọc theo đặc trưng, thể loại tự sự chú ý 1. Cách đọc giọng điệu câu từng nhân vật trong cách nó. - Chú ý các chi tiết tình tiết thể hiện sự xung đột giữa các nhân vật. - Chú thích: Bụt, Trầu cánh phượng, Áo mớ ba GV yêu cầu HS ?Hãy tóm tắt lại cốt truyện? 2. Tóm tắt cốt truyện Học sinh kể tóm tắt lại câu chuyện, có thể gọi những em khác nhận xét, bổ sung các chi tiết, sự kiện còn thiếu. Sau đó GV kể lại câu chuyện. Gv cho học sinh trả lời theo từng câu hỏi II. Phân tích 1. Hoàn cảnh đẫn đến mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám 1.Cuộc đời và số phận bất hạnh của Tấm a. Thân phận của Tấm được miêu tả như thế nào? - Tấm mồ côi mẹ từ nhỏ. 12 - Không bao lâu cha mất Tấm ở với dì ghẻ độc ác. 2. Qua đó em suy nghĩ gì? 3. Tác giả dân gian đã miêu tả diễn biến truyện như thế nào để dẫn đến xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám? Mâu thuẫn này phát triển như thế nào? 4. Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám thuộc phạm vi gia đình hay xã hội? Cụ thể là mâu thuẫn gì? (Học sinh tự tìm hiểu, liệt kê các chi tiết, hành động của mẹ con Cám đối với Tấm và phản ứng của Tấm trước những sự việc đó). 5. Quá trình biến hoá của Tấm diễn ra như thế nào? { Cho Hs vẽ sơ đồ và nhận xét }. 13 - Phải làm lụng vất vả từ sáng đến tối: “Hàng ngày…việc nặng”. -> Tấm là cô gái chăm chỉ, hiền lành, đôn hậu. b. Mâu thuẫn giữa Tấm và Mẹ con Cám - Cám lừa Tấm trút hết giỏ tép để giành phần thưởng chiếc yếm đỏ. - Mẹ con Cám lừa giết cá bống ăn thịt. - Mẹ con Cám không muốn cho Tấm đi xem hội đổ thóc trộn lẫn gạo bắt nhặt. - Khi thấy Tấm thử giày, mụ dì ghẻ bĩu môi tỏ vẻ khinh miệt. - Giết Tấm và giết cả những kiếp hồi sinh của Tấm. -> Mâu thuẫn chủ yếu trong tác phẩm là mâu thuẫn giữa cô Tấm mồ côi, xinh đẹp, hiền lành với dì ghẻ và Cám ác độc, tàn nhẫn. Mâu thuẫn này phát triển từ thấp đến cao : ban đầu chỉ là những hơn thua về vật chất, tinh thần, sự ganh ghét mẹ ghẻ con chồng,... Khi đó, Tấm luôn là người nhường nhịn, chịu thua thiệt. Càng về sau, mâu thuẫn chuyển thành sự đố kị, một mất một còn, tiêu diệt lẫn nhau. => Đây là những mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ nhưng trên hết là mâu thuẫn giữa thiện và ác trong xã hội. Mâu thuẫn này được tác giả dân gian giải quyết theo hướng thiện thắng ác. 2. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành lại hạnh phúc - Chim vàng Anh  xoan đào  khung cửi  quả thị  người (xinh đẹp hơn xưa). - Sự biến hóa của Tấm: Cái thiện không bao giờ chịu khuất 6. Vậy ý nghĩa của sự biến hoá? phục, chính nghĩa không bao giờ (Gọi HS Lấy một vài ví dụ tương tự). đầu hàng, cái thiện sẽ chiến đấu - Dù bị mẹ con Cám tìm mọi cách tận diệt, đến cùng để bảo vệ lẽ phải và Tấm vẫn tái sinh dưới các dạng thức khác công lí. nhau. Càng về sau, Tấm càng đấu tranh quyết liệt để giành lại sự sống. 7. Việc Tấm trả thù Cám ở cuối truyện có ý - Ý nghĩa việc trả thù của Tấm: là hành động của cái thiện trừng nghĩa gì? trị cái ác. Nó phù hợp với quan niệm "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo" của nhân dân. Giáo dục kĩ năng sống: cho HS thảo luận nhóm: Em suy nghĩ như thế nào về mối quan hệ dì ghẻ, con chồng ngày nay? 8. Nêu những đặc điểm nghệ thuật nổi bật 3. Nghệ thuật - Xây dựng những mâu thuẫn, trong truyện xung đột ngày càng tăng tiến. - Xây dựng nhân vật theo hai tuyến đối lập cùng tồn tại và song song phát triển. ở đó, bản chất của từng tuyến nhân vật được nhấn mạnh, tô đậm. - Có nhiều yếu tố thần kì song vai trò của yếu tố thần kì cũng khác nhau trong từng giai đoạn. - Kết cấu quen thuộc của truyện cổ tích : người nghèo khổ, bất hạnh trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng được hưởng hạnh phúc. III. Tổng kết * Hoạt động 3 : Tổng kết - Ghi nhớ Sgk - Gv yêu cầu học sinh đọc ghi nhớ SGK. - Ý nghĩa văn bản - Gv nêu ý nghĩa văn bản Truyện Tấm Cám ngợi ca sức sống bất diệt, sự trỗi dậy mạnh mẽ của con người và cái thiện trước sự vùi dập của kẻ xấu, cái ác, đồng thời thể hiện niềm tin của nhân dân vào công lí và chính nghĩa. 14 * Hoạt động 4: Luyện tập IV. Luyện tập Gv hướng dẫn học sinh làm luyện tập. Hãy chọn và phân tích những chi tiết tiêu biểu trong truyện Tấm cám để chứng tỏ rằng: “Truyện cổ tích là một giấc mơ đẹp” của nhân dân lao động. D. HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP Ở NHÀ 1. Hướng dẫn học bài - Đọc (kể) bằng giọng phù hợp với đặc điểm nhân vật : Tấm hiền thục, Cám chanh chua, Bụt nhân từ, dì ghẻ độc ác. - Tại sao nói Tấm Cám rất tiêu biểu cho đặc điểm nghệ thuật của thể loại truyện cổ tích nhất là truyện cổ tích thần kì ? 2. Hướng dẫn soạn bài Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học tập làm văn “Chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu trong bài văn tự sự”. Gợi ý: - Thế nào là sự việc, chi tiết tiêu biểu? - Ý nghĩa của việc lựa chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu? Giáo án khi áp dụng đề tài: Tạo hứng thú bằng cách tạo không khí lớp học bằng tranh ảnh; Sử dụng công nghệ thông tin và Kích thích hứng thú học Ngữ văn bằng phương pháp dạy học theo tình huống và giải quyết vấn đề: Tiết 17, 18: Đọc văn TẤM CÁM I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT - Hiểu được ý nghĩa của những mâu thuẫn, xung đột trong truyện và sự biến hoá của Tấm ; - Nắm được đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích thần kì qua một truyện cụ thể. B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG 1. Kiến thức - Những mâu thuẫn, xung đột giữa dì ghẻ và con chồng trong gia đình phụ quyền thời cổ, giữa thiện và ác trong xã hội. Sức sống mãnh liệt của con người và niềm tin của nhân dân. - Kết cấu của truyện cổ tích: người nghèo khổ, bất hạnh trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Sử dụng hợp lí, sáng tạo các yếu tố thần kì. 2. Kĩ năng - Tóm tắt văn bản tự sự. - Phân tích một truyện cổ tích thần kì theo đặc trưng thể loại. 15 C. NỘI DUNG LÊN LỚP 1. Ổn định, kiểm tra - Ổn định lớp: kiểm tra sĩ số - Kiểm tra bài cũ : Em có cảm nhận gì về con người Ra-ma qua đoạn trích “ Ra-ma buộc tội”? 2. Tiến trình tổ chức dạy học bài mới Hoạt động của thầy và trò Nội dung * Hoạt động 1: - Tạo tâm thế: giới thiệu bài I. Tiểu dẫn - Tìm hiểu tiểu dẫn Cho học sinh đọc phần tiểu dẫn trong SGK. 1. Thể loại 1. Hãy nêu các thể loại truyện cổ tích? "Tấm Cám" thuộc thể loại nào? Truyện cổ tích thần kỳ 2. Đặc trưng 2. Nêu đặc trưng cơ bản của thể loại cổ tích Có sự tham gia của các yếu tố thần kì? Gv yêu cầu học sinh lấy ví dụ? thần kỳ vào tiến trình phát triển của câu chuyện (Bụt, Tiên, hay sự biến hoá thần kỳ). * Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản II. Đọc - hiểu văn bản GV gọi HS đọc hướng dẫn HS đọc đúng thể loại tự sự. Cho HS tìm hiểu các chú thích. GV chốt lại các chú thích tiêu biểu.) (Cách đọc: - Đọc theo đặc trưng, thể loại tự sự chú ý 1. Cách đọc giọng điệu câu từng nhân vật trong cách nó. - Chú ý các chi tiết tình tiết thể hiện sự xung đột giữa các nhân vật. - Chú thích: Bụt, Trầu cánh phượng, Áo mớ ba GV yêu cầu HS ?Hãy tóm tắt lại cốt truyện dựa vào những 2. Tóm tắt cốt truyện hình ảnh sau? 16 Học sinh kể tóm tắt lại câu chuyện theo từng bức ảnh, các em khác nhìn, nghe xem bạn kể đúng chưa để nhận xét, bổ sung các chi tiết, sự kiện còn thiếu. Sau đó GV kể lại câu chuyện. Gv cho học sinh trả lời theo từng câu hỏi: 1. Cuộc đời và số phận bất hạnh của Tấm được miêu tả như thế nào? 2. Qua đó em suy nghĩ gì? 3. Tác giả dân gian đã miêu tả diễn biến truyện như thế nào để dẫn đến xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám? Mâu thuẫn phát triển ra sao? 17 II. Phân tích 1. Hoàn cảnh đẫn đến mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám a. Thân phận của Tấm - Tấm mồ côi mẹ từ nhỏ. - Không bao lâu cha mất Tấm ở với dì ghẻ độc ác. - Phải làm lụng vất vả từ sáng đến tối: “Hàng ngày…việc nặng”. -> Tấm là cô gái chăm chỉ, hiền lành, đôn hậu. b. Mâu thuẫn giữa Tấm và Mẹ con Cám - Cám lừa Tấm trút hết giỏ tép để giành phần thưởng chiếc yếm đỏ. - Mẹ con Cám lừa giết cá bống ăn thịt. - Mẹ con Cám không muốn cho Tấm đi xem hội đổ thóc trộn lẫn gạo bắt nhặt. - Khi thấy Tấm thử giày, mụ dì ghẻ bĩu môi tỏ vẻ khinh miệt. - Giết Tấm và giết cả những kiếp hồi sinh của Tấm. Gv cho học sinh xem một đoạn phim từ chỗ mẹ con Cám giết cá bống đến lúc chặt cây cau, Tấm chết. 4. Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám thuộc phạm vi gia đình hay xã hội? Cụ thể là mâu thuẫn gì? (Học sinh tự tìm hiểu, liệt kê các chi tiết, hành động của mẹ con Cám đối với Tấm và phản ứng của Tấm trước những sự việc đó). -> Mâu thuẫn chủ yếu trong tác phẩm là mâu thuẫn giữa cô Tấm mồ côi, xinh đẹp, hiền lành với dì ghẻ và Cám ác độc, tàn nhẫn. Mâu thuẫn này phát triển từ thấp đến cao : ban đầu chỉ là những hơn thua về vật chất, tinh thần, sự ganh ghét mẹ ghẻ con chồng,... Khi đó, Tấm luôn là người nhường nhịn, chịu thua thiệt. Càng về sau, mâu thuẫn chuyển thành sự đố kị, một mất một còn, tiêu diệt lẫn nhau. => Đây là những mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ nhưng trên hết là mâu thuẫn giữa thiện và ác trong xã hội. Mâu thuẫn này được tác giả dân gian giải quyết theo hướng thiện thắng ác. 5. Quá trình biến hoá của Tấm diễn ra như 2. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành lại thế nào? { Cho Hs vẽ sơ đồ và nhận xét }. - Chim vàng Anh  xoan đào  khung cửi hạnh phúc  quả thị  người (xinh đẹp hơn xưa). 6. Vì sao tác giả dân gian lại cho Tấm biến hóa nhiều lần như vậy? - Các em sẽ lần lượt thay nhau phát biểu y kiến để trả lời câu hỏi có vấn đề, đó là cô Tấm hiền lành, nết na như thế không thể chết một cách dễ dàng mà phải có những yếu tố thần kì, những lần biến hóa để thể hiện tình thần nhân đạo của nhân dân ta, ước mơ về công lí, lẽ phải. Đó là động lực để mỗi người chúng ta luôn luôn đấu tranh, đấu tranh đến cùng để tiêu diệt cái xấu, cái ác. Cho nên dù bị mẹ con Cám tìm mọi cách tận diệt, Tấm vẫn tái sinh dưới các dạng thức khác nhau. Càng về sau, Tấm càng đấu tranh quyết liệt để giành lại sự sống. 18 - Sự biến hóa của Tấm: Cái thiện không bao giờ chịu khuất phục, chính nghĩa không bao giờ đầu hàng, cái thiện sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ lẽ phải và công lí.  Giáo dục kĩ năng sống: Em suy nghĩ gì về mối quan hệ dì ghẻ - con chồng hiện nay? 7. Nêu câu hỏi về tình huống có vấn đề: Có hai kết thúc truyện: một là theo sách giáo khoa, kết thúc thứ hai là “Khi Cám chết Tấm làm thịt Cám, chặt ra từng miếng làm mắm rồi gửi về cho dì ghẻ(lúc này bị đuổi về quê) ăn. Dì vừa ăn vừa khen ngon thì có con quạ bay qua hót “Ngon gì mà ngon – Mẹ ăn thịt con có còn xin miếng”, dì nhìn xuống thấy cái đầu lâu Cám và lăn đùng ra chết”. ?Em đồng ý với cách kết thúc nào? Vì sao? Cho HS thảo luận nhóm: trình bày suy nghĩ về những quan điểm, cách đánh giá khác nhau về kết thúc câu chuyện: Có thể chọn kết thúc trong sách giáo khoa vì nếu theo kết thúc cô kể thì Tấm không còn hiền lành nữa mà giết người rồi làm mắm thì ác quá. Nhưng ngược lại có em khác sẽ phản bác lại là em chọn kết thúc theo lời cô kể vì như thế mới đúng với quan niệm của nhân dân ta “gieo nhân nào thì gặp quả ấy”, Cám giết Tấm nhiều lần như thế nào là làm thịt chim vàng anh, nào là chặt cây xoan đào,…. mà Tấm giết Cám chỉ một lần và làm mắm Cám thì mới trừng trị thích đáng cái ác được. Sau khi các em tranh luận, chọn câu trả lời xong thì giáo viên mới nhận xét và định hướng cách giải quyết - Ý nghĩa việc trả thù của Tấm: 8. Từ đó nêu ý nghĩa việc trả thù của Tấm ở là hành động của cái thiện trừng cuối truyện? trị cái ác. Nó phù hợp với quan niệm "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo" của nhân dân. 9. Nêu những đặc điểm nghệ thuật nổi bật 3. Nghệ thuật trong truyện - Xây dựng những mâu thuẫn, xung đột ngày càng tăng tiến. - Xây dựng nhân vật theo hai tuyến đối lập cùng tồn tại và song song phát triển. Ở đó, bản chất của từng tuyến nhân vật được nhấn mạnh, tô đậm. - Có nhiều yếu tố thần kì song vai trò của yếu tố thần kì cũng khác nhau trong từng giai đoạn. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan