Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn tạo hứng thú học tập môn hóa học bằng cách liên hệ thực tế...

Tài liệu Skkn tạo hứng thú học tập môn hóa học bằng cách liên hệ thực tế

.PDF
16
1310
67

Mô tả:

Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung SÔÛ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO ÑOÀNG NAI Ñôn vò: Tröôøng THPT Traàn Phuù Mã số:.......... Người thực hiện : NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG Lĩnh vực nghiên cứu :  Quản lý giáo dục   Phương pháp dạy học bộ môn : Hóa Học   Phương pháp giáo dục   Lĩnh vực khác  Có đính kèm : Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Năm học : 2010 – 2011 1 Hiện vật khác  Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung SƠ LƯỢC VỀ LÝ LỊCH KHOA HỌC I/ THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN : 1. Họ và tên : Nguyễn Thị Phương Dung 2. Ngày, tháng, năm sinh : 25/10/1976 3. Nam, Nữ : Nữ 4. Địa chỉ : K37, khu phố 2 – phường Xuân Bình – Thị xã Long Khánh – Đồng Nai 5. Điện thoại : 0613726311 (CQ)/ ĐTDĐ : 0933.432.806 6. Fax :…………………………….E-mail :…………………. 7. Chức vụ : Giáo viên 8. Đơn vị công tác : Trường THPT Trần Phú II/ TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO : - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất : Cử nhân Hóa học - Năm nhận bằng : 1999 - Chuyên ngành đào tạo : Hóa học III/ KINH NGHIỆM KHOA HỌC : - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm - Số năm kinh nghiệm : 11 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây : 1. Một số phương pháp giải nhanh các bài toán trắc nghiệm hóa học 2. Sử dụng phương pháp trực quan vào giảng dạy chương Oxi – Lưu huỳnh 2 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC BẰNG CÁCH LIÊN HỆ THỰC TẾ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : Môn Hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.Trước tình hình đó, Hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế. Có những vấn đề Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê học tập của học sinh. Chính vì vậy, tôi xin đưa ra sáng kiến kinh nghiệm : “ Tạo hứng thú học tập môn Hóa học bằng cách liên hệ thực tế”. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI : 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN : 1.1.CƠ SỞ KHOA HỌC : 1.1.1.Hóa học với thực tiễn cuộc sống : a) Tác động của hóa học đến đời sống con người : Không có môn khoa học nào lại có nhiều ứng dụng như môn Hóa học : - Trong tự nhiên, nhờ có hóa học mà chúng ta có thể khám phá thiên nhiên, nắm được tính chất, quy luật của thiên nhiên và con người ngày càng thành công trong ngành khoa học khám phá vũ trụ, trái đất,… - Trong đời sống, sản xuất : Hóa học được ứng dụng trong việc nghiên cứu thành phần, tác dụng, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, các quy trình sản xuất (sản xuất, chế biến các nguồn nguyên liệu thô thành các nguyên liệu có thể sử dụng trong đời sống sản xuất, chế biến các loại nông sản, chế tạo ra các đồ dùng, vật dụng hằng ngày). b) Tác dụng của các kiến thức thực tế về hóa học : - Giúp học sinh nắm được cơ sở hóa học, nắm vững và củng cố kiến thức cơ bản về hóa học. - Nắm nhanh và kĩ các kiến thức đã học trong bài. Hóa học là ngành hóa học thực nghiệm, học lý thuyết và kiểm tra lại bằng các thí nghiệm. Chính việc tiến hành các thí nghiệm sẽ phát sinh các vấn đề để các em có thể hiểu sâu và kĩ các kiến thức đã học, qua đó các em hiểu bài hơn. 3 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung - Các kiến thức hóa học thực tế làm cho học sinh hiểu được vai trò to lớn của hóa học trong đời sống : kinh tế, quốc phòng, sinh hoạt,… thúc đẩy sự ham hỏi của học sinh. - Giúp học sinh hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời sống hằng ngày một cách đúng đắn. Các em sẽ nhận thức được những gì có ích, những gì có hại để điều chỉnh hành vi của mình. 1.1.2. Tác dụng của việc liên hệ thực tế trong giảng dạy : a) Với người thầy : - Phát huy khả năng truyền thụ kiến thức của người thầy. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế trong bài giảng sẽ nâng cao hiệu quả giảng dạy. - Mở rộng kiến thức hóa học thực tế rèn luyện một số kỹ năng dạy học : + Kỹ năng diễn đạt. + Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học. + Kỹ năng tiến hành thí nghiệm. + Kỹ năng phân bố thời gian. + Kỹ năng giao tiếp - Kích thích lòng ham thích học tập của học sinh - Tạo ra giờ học lý thú bổ ích. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế sẽ có rất nhiều câu hỏi đặt ra kích thích học sinh tư duy trả lời, bầu không khí của lớp sẽ trở nên sôi động, tạo điều kiện cho các học sinh còn nhút nhát tham gia vào bài giảng. - Gần gũi với học sinh. Khi giáo viên thực hành các kỹ năng nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên sẽ có nhiều cơ hội giao tiếp với học sinh. Nhờ đó mà sẽ tạo được ấn tượng tốt với học sinh b) Với học sinh : - Các em trở nên yêu thích môn hóa. Khi học sinh được hiểu thấu đáo các vấn đề hóa học, được tham gia vào các hoạt động thực tế… Các em sẽ có hứng thú với môn học vì các em đã nắm được tầm quan trọng của môn học, từ đó nâng cao thành tích học tập. - Nắm được các kiến thức cơ bản của hóa học. Các kiến thức hóa học thực tế lấy nền tảng là các kiến thức hóa học mà học sinh đã học ở nhà trường, tác dụng của các kiến thức này là giải thích các bản chất của sự vật, hiện tượng do đó các em sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc các kiến thức hóa học, các em sẽ nắm rõ các kiến thức hơn. - Hình thành kỹ năng tư duy, sử dụng sách… Các kiến thức mới luôn thúc đẩy học sinh tìm tòi phát hiện kiến thức trong sách báo. - Phát huy tính tích cực sáng tạo trong học tập 1.1.3. Liên hệ thực tế là một biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh : Cái mới luôn là cái kích thích chúng ta tìm hiểu nhất. Việc liên hệ thực tế sẽ thúc đẩy học sinh tìm tòi khám phá trong học tập. Hiểu và giải thích được các hiện tượng tự nhiên là một động cơ thúc đẩy học sinh học tập. Các kiến thức hóa học sẽ thu hút sự chú ý lắng nghe trong giờ học và ham thích học hỏi, tìm kiếm sách vở, rèn luyện khả năng sử dụng sách… Qua đó, các em sẽ thấy được những lý thú của các kiến thức đã học, tăng thêm lòng yêu thích môn học. 4 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung Hứng thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập của học sinh. Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt kết quả, giáo viên giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập cho học sinh thì chưa thành công. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ kiến thức và tất cả các yếu tố phục vụ cho công việc dạy học. Kỹ năng tạo hứng thú là kỹ năng quan trọng nhất, mà để có được kỹ năng này thì đầu tiên người giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, phải luôn cung cấp cho học sinh lượng kiến thức : ĐỦ, ĐÚNG, MỚI, THIẾT THỰC. Với giáo viên bộ môn Hóa học, kiến thức hóa học thực tế sẽ đáp ứng mặt thiết thực của kiến thức. 1.2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN HÓA HỌC Ở TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ : 1.2.1. Thuận lợi : - 100% giáo viên đã đạt chuẩn. - Trong quá trình giảng dạy môn hóa, giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp như : phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp, phương pháp liên hệ thực tế trong bài giảng…. - Giáo viên đã có sử dụng các đồ dùng và phương tiện dạy học như thí nghiệm, mô hình, tranh …. và từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hóa học. - Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung quan sát thí nghiệm, giải thích một số hiện tượng trong cuộc sống và suy nghĩ trả lời các câu hỏi do giáo viên đặt ra. - Học sinh tích cực thảo luận nhóm và đã đem lại hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức. 1.2.2. Khó khăn : Hiện nay ở trường, một số học sinh chưa biết tác dụng của môn hóa học, do việc giảng dạy ở trường còn mắc phải một số khuyết điểm : - Còn thiên về lý thuyết thiếu thực tế. - Chưa cung cấp cho học sinh các kiến thức hóa học có ứng dụng nhiều trong thực tiễn. - Do đầu vào thấp, cho nên khả năng vận dụng kiến thức để lý giải các tượng liên quan đến hóa học đối với học sinh còn khó khăn. * Do đó, để khắc phục các nhược điểm trên và để nâng cao khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, để tạo hứng thú trong việc học môn Hóa học thì việc liên hệ thực tế trong quá trình giảng dạy là cần thiết. 2. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI : a) Liên hệ thực tế khi giới thiệu bài giảng mới.Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập. Ví dụ 1 : Khi dạy về bài CLO (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau : 5 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung - GV : Mỗi khi mở vòi nước máy chúng ta thường ngửi thấy có mùi xốc rất khó chịu. Đó là vì tại nhà máy nước người ta đã sục vào đó một chất khí có tác dụng diệt khuẩn. Các em có biết khí đó là khí gì không ? - HS có thể biết sẽ trả lời đó là khí clo. - GV : Đây cũng là tên bài học của chúng ta hôm nay. * Cách giới thiệu này sẽ tạo cho học sinh chú ý hơn để tìm hiểu tại sao clo lại có tính chất như vậy. Và trong quá trình học về tính chất của khí Clo các em sẽ giải thích được như sau : Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo, nước có tác dụng sát trùng do clo tan một phần (gây mùi) và một phần với nước : H2O + Cl2 HCl + HClO Hợp chất HClO không bền có tính oxi hóa mạnh : HClO  HCl + O Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn. Ví dụ 2 : Khi dạy về bài Amoniac và muối amoni (ở lớp 11), giáo viên có thể mở bài như sau : - GV : Khi aên baùnh bao ta thöôøng thaáy coù nhöõng loå xoáp. Ñoù laø do nhöõng boït khí thoaùt ra ñeå laïi caùc loå hoång treân boät. Ñoù laø khí gì vaäy ? - HS suy nghó traû lôøi : - GV : Thaønh phaàn ñeå laøm baùnh bao laø boät nở (NH4)2CO3 . khi nhieät phaân seõ giaûi phoùng ra khí CO 2 vaø 1 chaát khí coù muøi khai. Khí muøi khai naøy coù tính chaát gì? Noù coù ñoäc khoâng, aên baùnh bao coù nguy hieåm khoâng ? Baây giôø chuùng ta seõ tìm hieåu tính chaát cuûa chaát khí treân qua baøi : Amoniac vaø muoái amoni * Trong quá trình học về tính chất của muối amoni, học sinh sẽ hiểu được hiện tượng trên là do : (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc hấp bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy dưới tác dụng của nhiệt : t  2NH3  + CO2  + H2O (NH4)2CO3  Như vậy, khi hấp bánh bao khí CO 2, NH3 thoát ra để lại vô số lỗ nhỏ trong bánh bao làm cho bánh bao vừa to lại vừa xốp và có mùi khai là mùi đặc trưng của amoniac. Ví dụ 3 : Khi dạy về bài PHOTPHO (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế khi mở bài như sau : - GV : Trong “Văn tế thập loại chúng sinh”, thi hào Nguyễn Du đã viết : “Lập lòe ngọn lửa ma trơi Tiếng oan văng vẵng tối trời còn thương” Thế “ma trơi” là cái gì vậy ? Các nhà văn tưởng tượng ra chăng ? Không phải, “ma trơi” quả là có thật. Nếu các em có dịp đi qua các nghĩa trang vào ban đêm thì các em sẽ thấy tại một số ngôi mộ tỏa ra những ngọn lửa màu xanh lãng đãng lập lòe mà dân gian thường gọi là “ma trơi”. Bài học ngày hôm nay sẽ giúp các em hiểu được hiện tượng này. Đó là bài PHOT PHO. * Sau khi học xong bài Photpho giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được hiện tượng trên là do : o 6 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung Trong cơ thể (xương động vật) có chứa một hàm lượng photpho khi chết phân hủy tạo một phần thành khí PH3 (photphin), khi có lẫn một chút khí P 2H4 (diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí (lửa “ma trơi”)bay trong không khí. Bất kể ngày hay đêm đều có PH3 bay ra ở các nghĩa trang, chỉ có điều là ban ngày ánh sáng mặt trời quá mạnh nên ta không thấy được ma trơi. 2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O Điều trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng tăng thêm sự mê tính dị đoan. Ví dụ 4 : Khi học bài OZON (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau : - GV : Sau mỗi trận mưa, các em cảm thấy bầu trời, khí hậu như thế nào ? - HS : Bầu trời quang đãng hơn, khí hậu mát mẻ hơn. - GV : Thật vậy, sau cơn mưa to sấm nổ đùng đùng, khi mưa tạnh, nắng lên, mọi người thường cảm thấy như căn phòng, đường xá, khu phố… thậm chí cả bầu trời xanh kia mát mẻ trong lành hẳn lên. Hít thở cũng thật dễ chịu. Đó là nguyên nhân gì nhỉ ? Để hiểu được điều này, hôm nay chúng ta sẽ học bài : OXI – OZON. * Trong khi học về phần Ozon, học sinh sẽ hiểu được hiện tượng trên là do : Khi có những tia chớp điện thì một phần oxi trong không khí sẽ biến thành ozon : 3O2 → 2O3 Ozon khi rất loãng không có mùi hôi, ngược lại còn cho con người ta có cảm giác tươi mát, thanh sạch dễ chịu. Nó còn có tác dụng sát trùng, làm sạch không khí, rất có lợi cho cơ thể con người. Ví dụ 5 : Khi học về bài IOT (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau : - GV : Hằng ngày, các em thường ăn muối gì ? - HS : Đó là muối iot ? - GV : Tại sao phải ăn muối có iot ? - HS : Để trị bệnh bướu cổ. - GV : Ăn muối iot để bổ sung hàm lượng iot cho cơ thể, trong cơ thể một người trưởng thành có chứa 20 - 50mg iot chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu iot trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh : Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần độn, phụ nữ thiếu iot dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau khi sanh. Mỗi ngày phải đảm bảo cho cơ thể hấp thụ với < 150 microgam iot. Vậy iot có những tính chất như thế nào ? Bài IOT hôm nay sẽ giúp chúng ta tìm hiểu về tính chất của nguyên tố này. b) Liên hệ thực tế qua các phản ứng hóa học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh. Ví dụ 1 : Khi dạy bài ANKIN, sau khi học xong phần điều chế axetilen, giáo viên có thề liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ? Trong nông nghiệp, đất đèn dùng để làm gì ? - HS : Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua, khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hydroxit. 7 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung CaC2 + 2H2O  C2H2  + Ca(OH)2 Các chất này làm tổn thương đến các hoạt động hô hấp của cá, vì vậy có thể làm cá chết. Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dú chuối, cà chua… Ví dụ 2 : Khi dạy về bài FLO (lớp 10), sau khi học xong tính chất của axit HF, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Tại sao không đựng dung dịch HF trong bình thủy tinh . - HS : Dung dịch HF, tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn thủy tinh. Do thành phần của thủy tinh chính là SiO2, khi cho dung dịch HF vào thì có phản ứng : SiO2 + 4HF → SiF 4 + 2H2O Ví dụ 3 : Khi dạy về bài LƯU HUỲNH (ở lớp 10), sau khi học xong tính chất hóa học của lưu huỳnh tác dụng với kim loại, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên ? - HS : Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một chất độc. Vì vậy, khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi làm cho quá trình thu gom khó khăn. Ta phải rắc bột S lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi. Hg + S  HgS↓ Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn. Ví dụ 4 : Khi dạy bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM, sau khi học xong tính chất của NaHCO 3, giáo viên có thể liên hệ như sau : - GV : Vì sao muối NaHCO 3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày ? - HS : Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng : NaHCO3 + HCl  NaCl + CO2 + H2O Ví dụ 5 : Khi dạy về bài PEPTIT VÀ PROTEIN (ở lớp 12), sau khi học xong phần tính chất của protein, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau - GV : Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên ? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại ? - HS : Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị kết tủa. Ví dụ 6 : Khi dạy về bài AXIT CACBOXYLIC (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao khi bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ? (Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh thông tin : trong nọc ong, kiến, nhện có axit HCOOH) - HS : Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazo nên trung hòa axit làm ta đỡ đau. 8 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung 2HCOOH + Ca(OH)2  (HCOO)2Ca + 2H2O Ví dụ 7 : Khi dạy về bài NHÔM VÀ HỢP CHẤT CỦA NHÔM, sau khi học xong tính chất của muối nhôm sunsat, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao phèn chua có thể làm trong nước ? (Câu này nếu học sinh không giải thích được thì giáo viên phải diễn giải cho học sinh hiểu) - HS : Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước : K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O Phèn chua không độc, có vị chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lửng trong nước : Al2(SO4)3  2Al3+ + 3SO42Al3+ + H2O  AlOH2+ + H+ AlOH2+ + H2O  Al(OH)2+ + H+ Al(OH)2+ + H2O  Al(OH)3 + H+ Al2(SO4)3 + 3H2O  2Al(OH)3 + 3H2SO4 Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lửng ở trong nước này đã kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và lắng xuống. Vì vậy, mà nước trở nên trong hơn. Ví dụ 8 : Khi dạy về bài AMIN (ở lớp 12), sau khi học xong tính bazo yếu của amin giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Tại sao khi nấu canh cá người ta thường nấu canh chua ? - HS : Bởi vì chất chua (axit lactic có trong nước dưa, axit axetic có trong dấm, axit citric có trong chanh...) rất có duyên với cá. Nó nâng cao hương vị của món canh chua cá. Mặt khác, nó còn hạn chế mùi tanh của canh khi ăn. Vì trong chất tanh của cá có chứa hỗn hợp các amin như : đimêtyl amin, trimetyl amin. Hai amin trên có tính chất bazo yếu. Trong các chất chua dùng để nấu cá đều có các axit hữu cơ chúng có phản ứng với các amin có tính bazo yếu trong cá tạo thành muối do đó sẽ giảm hay làm mất vị tanh của cá. Ví dụ : CH3COOH + (CH3)2NH  CH3COOH2N(CH3)2 c) Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó ? Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài PHÂN BÓN HÓA HỌC (ở lớp 11). Để tạo cho học sinh ở khu vực làm nông nghiệp có thể kiểm nghiệm trong đời sống, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : “ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” Câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học như thế nào ? - HS : Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa : Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. - GV : Em hãy giải thích câu ca dao trên ? 9 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung - HS : Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có sấm chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động : C N2 + O2 3000   2NO Sau đó : 2NO + O 2  2NO2 Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa : 4NO2 + O2 + 2H2O  4HNO3 HNO3  H+ + NO3- GV : Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 – 7kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại, cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng lớn. Ví dụ 2 : Sau khi học xong bài TÍNH CHẤT CỦA KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà. - HS : Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1). Do đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng. Ví dụ 3 : Sau khi học xong bài OZON, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vai trò của ozon trong đời sống và công nghiệp như thế nào ? - HS : Suy nghĩ trả lời - GV củng cố : Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc như : phenol, hợp chất xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây bệnh… có trong nước thải và ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt, thiếc, chì, mangan…) biến nước thải thành nước sạch vô hại. Trên tầng cao khí quyển 10 – 30km quanh trái đất, ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp thụ các tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia tử ngoại làm cho con người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan y… Gần đây do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực… thải vào khí quyển một lượng bụi và khí ô nhiễm, thì ozon lại góp phần oxi hóa chất gây ô nhiễm, cũng chính vì vậy mà tầng ozon bị mỏng dần. Trong vòng 50 năm gần đây, lượng ozon bị thủng và gây ra không ít hiện tượng như : bão, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y… Ví dụ 4 : Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao ban đêm không để nhiều cây xanh trong nhà ? - HS : Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quanh hợp, hấp thụ CO 2 trong không khí và giải phóng khí oxi 0  (C6H10O5)n + 6nO2 ↑ 6nCO2 + 5nH2O  clorophin as 10 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2, làm cho phòng thiếu khí O2 và có nhiều khí CO 2. Ví dụ 5: Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM THỔ, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Tục ngữ Việt Nam có câu : “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào ? - HS : Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO 3. Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng : CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO 3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần. - GV (Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác ) : Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO 3 nên trong nước sẽ tồn tại phương trình điện li : CaCO3 Ca2+ + CO32- (*) Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca2+, CO32-, theo nguyên lí chuyển dịch cân bằng thì cân bằng (*) chuyển dịch theo chiều chống lại sự giảm nồng độ Ca2+, CO32- (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần. Ví dụ 6 : Sau khi học xong bài ANKAN, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4...) và không có khí oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt ? - HS : Khi xuống giếng phải đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4...) và không có khí oxi chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt.... thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc. - GV : Trong các giếng đào đặc biệt nhiều vùng đồng bằng thường có khí độc CO, CH4... và không có khí O 2. Mà người dân chúng ta có thói quen xuống giếng. Đã có nhiều trường hợp tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp khí độc (CO) gây đông máu, CH4 ... và không có oxi gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết. Ví dụ 7 : Sau khi học xong bài IOT (ở lớp 10), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Nêu cách lấy dấu vân tay của tội phạm lưu trên các vật ở hiện trường chỉ sau một vài phút thí nghiệm : Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó đem phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iot, dùng đèn cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I 2) từ ống nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn cất tờ giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng như trên Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ lưu lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi gặp hơi iot cho màu nâu (chú ý hơi iot rất độc không được ngửi). Ví dụ 8 : Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA NATRI, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl ? 11 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung - HS : Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 1000C, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi là > 1000C. Do nhiệt độ sôi của muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn. Ví dụ 9 : Sau khi học xong bài CACBON (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi ? - HS : Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê. d) Liên hệ thực tế thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mải. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hóa. Ví dụ 1 : Khi dạy bài HÓA HỌC VÀ VẤN ĐỀ MỐI TRƯỜNG (ở lớp 12), sau khi học xong phần “Ô nhiễm không khí”, giáo viên có thể kể câu chuyện hài : - GV : + Một nhà thông thái thuyết trình ở hội nghị bảo vệ môi trường : “Tại sao người ta không nghĩ đến việc xây dựng thành phố ở nông thôn nhỉ ? Ở đó không khí trong lành, lo gì bị ô nhiễm” + Cả hội trường cười ầm lên. Ví dụ 2 : Khi dạy về bài SẮT (ở lớp 12), giáo viên có thể vào bài bằng câu chuyện : Hồi đầu thế kỉ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu người dưới dạng huyết cầu tố (hemoglobin). Một sinh viên khoa Hóa đã làm gì khi nghe cô gái mình yêu hỏi anh ta lấy gì làm bằng chứng cho tình yêu đang chảy cuồn cuồn trong cơ thể anh ta ? Anh ta đã quyết định tặng người yêu dấu một chiếc nhẫn bằng … sắt, nhưng không phải bằng sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của mình ! Cứ định kì lấy máu ra, chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt ra bằng phương pháp hóa học. Nhưng chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo trên tay cô gái như một bằng chứng tình yêu bởi … nó chưa được làm ra thì chàng trai đã chết vì bị mất máu, cho dù lượng sắt lấy ra khỏi cơ thể chàng chưa tới … 3 gam ! Các chàng trai, cô gái ngày nay vẫn nhớ câu chuyện này. Nhưng chẳng ai chứng tỏ tình yêu bằng cách này nữa, cho dù thật cảm động. Ví dụ 3 : Khi học về bài BENZEN (ở lớp 11), ở cấu trúc của phân tử benzen, giáo viên có thể kể cho học sinh nghe một giai thoại về Kekule : Một lần, Kekule ngồi trên xe buýt ở London và nghĩ mãi mà chưa tìm ra được một cấu tạo nào tương ứng với tính chất của benzen. Ông mơ màng nhìn ra ngoài xe và chợt thấy trên cành cây ở công viên có sáu con khỉ, con nọ đánh đu vào chân con kia thành vòng sáu cạnh. Trong khi nô đùa, có lúc các chú khỉ bám với nhau bằng cả hai chân hai tay, có lúc lại chỉ bằng một cặp tay chân. Một tia chớp nảy ra trong đầu ông : 12 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung - “Phải chăng sáu nguyên tử cacbon trong benzen cùng liên kết với nhau giống như sáu chú khỉ con vui vẻ kia ?” Kekule đã xác định được cấu trúc vòng của benzen và xây dựng lí thuyết các hợp chất thơm nhờ … các chú khỉ. Ví dụ 4 : Khi học về bài VẬT LIỆU POLIME, giáo viên có thể kể cho học sinh giai thoại “Phát minh do … ngủ quên” (khi dạy về nilon) : Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, định chớp mắt ít phút. Nhưng … ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm : có lẽ đã tan thành mây khói ? Ai ngờ, khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay. Ví dụ 5 : Khi học bài CHẤT GIẶC RỬA, ở phần “Xà phòng”, giáo viên có thể kể câu chuyên hài sau : - Mẹ : Tại sao con nghịch xà phòng làm bẩn hết nước của mẹ ? - Con : Không phải con nghịch đâu! Thấy nước bẩn, con lấy xà phòng rửa nước đấy. Như là mẹ rửa tay bẩn của con bằng xà phòng ấy mà! e)Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày… sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn. Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm “Hồ tinh bột tác dụng iot” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm chứng ở nhà. * Cách làm : Lấy một ít cồn iot (mua ở nhà thuốc tây) bôi lên quả chuối xanh và quả chuối chín. * Giải thích (dựa vào kiến thức đã học, học sinh sẽ tự giải thích được) : Do cồn iot là dung dịch của iot trong ancol etylic, iot gặp tinh bột (trong chuối xanh) tạo ra phức màu xanh. Nhưng nếu là chuối chín thì không có hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh bột thành đường glucozo). Ví dụ 2 : Sau khi học xong bài SƠ LƯỢC VỀ MỘT SỐ KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu hiện tượng sau để học sinh có thể tự kiểm nghiệm trong cuộc sống. * Cách làm : Khi có người bị cảm, ta có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen. Để dây bạc trắng sáng trở lại, ta sẽ ngâm vào nước tiểu. * Giải thích : Người bị cảm trong cơ thể sinh ra những hợp chất dạng sunfua (S 2-) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh với bạc nên xảy ra phản ứng tạo bạc sunfua (Ag2S) kết tủa màu đen. Do đó chất độc được loại ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây chuyền thành màu đen, Ag + S2-  Ag2S Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ có phản ứng : Ag2S + 4NH3  2[Ag(NH3)2]+ + S2Nên Ag2S bị hòa tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng. 13 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung Ví dụ 3 : Sau khi học xong bài ANKIN (ở lớp 11), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm vui “Đốt nước đá cháy” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm ở nhà. * Cách làm : Ta đặt sẵn vài mẫu canxi cacbua (đất đèn), rồi lấy một ít nước đá bỏ vào ống bơ thấp và rộng miệng rồi bật diêm đốt trên mặt ống bơ. Thật kì lạ! Nước đá bốc cháy. * Giải thích : Khi bỏ nước đá vào CaC 2 sẽ có tác dụng với nước giải phóng khí C2H2 : CaC2 + 2H2O  C2H2 + Ca(OH)2 Khí C2H2 thoát lên mặt nước đá, khi đốt nó sẽ cháy trông giống hệt nước đá cháy vậy. 2C2H2 + 5O2  4CO2 + 2H2O Ví dụ 4 : Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM THỔ, giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm sau để học sinh có thể tự làm để kiểm nghiệm. * Cách làm : Lấy vôi sống (CaO) cho vào nước, rối thả ngay một quả trứng vào, trứng sẽ chín. * Giải thích : Khi vôi sống gặp nước sẽ xảy ra phản ứng : CaO + H2O  Ca(OH)2 + Q Nhiệt lượng tỏa ra rất lớn đến nổi làm cho nước sôi. Do vậy, sau khi cho vôi vào nước rồi thả một quả trứng, trứng sẽ chín. f) Để nâng cao kiến thức hóa học thực tế, giáo viên có thể phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh như đưa các em đi tham quan các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp… Qua đó, các em sẽ có cơ hội tham khảo, bổ sung các kiến thức còn trống và tìm hiểu xác thực hơn tác động của hóa học đến đời sống của chúng ta. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI : Sau khi áp dụng một số phương pháp mở rộng kiến thức thực tế trong bài giảng hóa học vào các tiết dạy, tôi thấy đã đạt được kết quả khả quan : + Lớp học sinh động, sôi nổi, giúp nâng cao hứng thú học tập của các em. + Chất lượng bài giảng được nâng lên rõ rệt : học sinh dễ tiếp thu và nhớ bài lâu hơn. + Giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập . + Phát triển năng lực chú ý, óc tò mò khoa học. IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG : Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một vài điểm cần lưu ý sau : 1. Về phía giáo viên : - Để thực hiện tốt, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với học sinh. Hình thành giáo án theo hướng phát huy tính chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lí và hài hòa. 2. Về phía nhà trường : - Nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo cho giáo viên ở thư viện. - Nhà trường cần bổ sung thêm một số hóa chất và dụng cụ cho đầy đủ để việc thực hành thí nghiệm được tốt hơn. 14 Trường THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung - Cần tạo điều kiện giúp đỡ cho một số giáo viên biết sử dụng công nghệ thông tin. - Nhà trường tạo điều kiện để cho giáo viên tổ chức Câu lạc bộ Hóa học vui, các cuộc giao lưu kiến thức sẽ hình thành hứng thú cho học sinh một cách hiệu quả. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO : - Sách giáo khoa Hóa học lớp 10, 11, 12. - Phương pháp giảng dạy môn hóa học ở trường THPT (Trịnh Văn Biều) - Hóa học và ứng dụng (Tạp chí của hội hóa học Việt Nam) - Hóa học vui (Nguyễn Xuân Trường) - NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội. Người viết Nguyễn Thị Phương Dung 15 Trường THPT Trần Phú Sở GD  ĐT Đồng Nai Đơn vị : THPT Trần Phú GV : Nguyễn Thị Phương Dung Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Long Khánh, ngày ……tháng…..năm 2011 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học : 2010 – 2011 Tên sáng kiến kinh nghiệm : TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC BẰNG CÁCH MỞ RỘNG KIẾN THỨC THỰC TẾ. Họ và tên tác giả : Nguyễn Thị Phương Dung Đơn vị (Tổ) : Hóa – Sinh Lĩnh vực nghiên cứu : Quản lý giáo dục Phương pháp dạy bộ môn : Hóa học  Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác :……………………  1. Tính mới : - Có giải pháp hoàn toàn mới  - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiệu quả : - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao.  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao.  3. Khả năng áp dụng : - Cung cấp tốt được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách : Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống : Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng. Tốt  Khá  Đạt  XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký và ghi rõ họ tên) 16 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng