Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn sử dụng văn học trong giảng dạy lịch sử...

Tài liệu Skkn sử dụng văn học trong giảng dạy lịch sử

.DOC
18
1559
84

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Tôn Đức Thắng Mã số: ……………….. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  Phần mềm  Hiện vật khác ™˜  Phim ảnh Có đính kèm:  Mô hình SỬ DỤNG VĂN HỌC Năm học: 2012- 2013 TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ Người thực hiện : Lê Thị Ngọc Lũy Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn: Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác: 0     SƠ LƯỢC LÍ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Lê Thị Ngọc lũy 2. Sinh ngày 20 tháng 8 năm 1976 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: Giáo viên trường THPT Tôn Đức Thắng huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai. 5. Điện thoại: 0973.151.465. 6. Chức vụ: Giáo viên 7. Đơn vị công tác: Trường THPT Tôn Đức Thắng huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai. II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO -Trình độ chuyên môn: Cử nhân sử học - Năm nhận bằng: 1998 - Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử Việt Nam. III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy. - Số năm kinh nghiệm:12 năm. 1 MỤC LỤC Nội dung Trang I. Lý do chọn đề tài 03 II. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 05 III. Nội dung nghiên cứu 06 IV. Kết luận và kiến nghị 14 V. Tài liệu tham khảo 16 2 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Dạy học lịch sử ở trường phổ thông sao cho sinh động, tạo cho học sinh hứng thú học tập, dễ nhớ, dễ hiểu, có sự liên tưởng, vận dụng, kích thích tư duy học sinh vốn là niềm mong ước của tất cả giáo viên dạy sử. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương đổi mới dạy học lịch sử (từ phương pháp dạy học truyền thống, thụ động sang phương pháp chủ động, lấy học sinh làm trung tâm) đã có nhiều phương pháp mới được áp dụng, mang lại nhiều lợi ích cho học sinh như: dạy học thông qua tham quan bảo tàng, dạy học bằng phim tư liệu, dạy học thông qua đóng vai (đóng kịch)… Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi trường, việc áp dụng các phương pháp này đều gặp phải những khó khăn nhất định. Các bảo tàng chỉ có ở thành phố lớn, việc tổ chức cho học sinh tham quan bảo tàng không phải lúc nào cũng thực hiện được, nhất là các trường học ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, phương tiện đi lại khó khăn. Việc chiếu phim tư liệu thuận lợi hơn so với tham quan bảo tàng nhưng lại khó khăn về nguồn phim vì không phải nội dung lịch sử nào cũng được dựng thành phim, nhất là đối với phim tư liệu về lịch sử Việt Nam lại càng thiếu, đó là chưa kể các trang thiết bị kỹ thuật, máy chiếu, phòng chiếu không phải trường học nào cũng có điều kiện để đầu tư, mua sắm. Phương pháp tổ chức cho học sinh nhập vai (đóng kịch) tuy không tốn kém về vật chất nhui7ng lại gặp khó khăn bởi quy mô lớp học; hầu hết các lớp học hiện nay có sĩ số trung bình 40 – 50 học sinh, có trường lên đến 60 học sinh, vì vậy việc tổ chức học tập theo hình thức này cũng gặp không ít trở ngại. Qua nhiều năm là giáo viên dạy sử, tôi nhận thấy trong nhà trường phổ thông hiện nay, quá trình nội dung truyền đạt cho học sinh chủ yếu là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh nhưng số lượng rất khiêm tốn. Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Những hình ảnh ngoài sách giáo khoa, những mẫu chuyện kể về nhân vật lịch sử (danh nhân) đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến đem lại hứng thú cho học sinh, làm cho tiết học trở nên sinh động hơn, giúp học sinh hào hứng trong học tập nhưng chưa được sử dụng nhiều vì cho đến nay, chưa có tài liệu hướng dẫn đối với phương pháp này. Từ thực tế dạy học lịch sử trong những năm qua, tôi chúng nhận thấy rằng, người giáo viên biết sử dụng kiến thức các môn học khác như văn học, địa lý, vật lí, hóa học… thường làm cho giờ học lịch sử sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, 3 câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích, hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lịch sử Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, chúng tôi chọn đề tài “Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử Việt Nam” với mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học. 4 II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh lớp 11 của trường THPT Tôn Đức Thắng (huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai) - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tư liệu văn học liên quan đến chương trình lịch sử 11 THPT. 2. Phương pháp nghiên cứu - Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy. - Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử. - Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 11 - Các tác phẩm văn học có liên quan - Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn lịch sử THPT, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan. - Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí 5 III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sơ lí luận a). Những yêu cầu chung đối với giáo viên lịch sử: Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng. Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, có phương pháp dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ. Giảng dạy là đưa đến cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị quí báu của loài người về phương diện tri thức cũng như về phương diện tình cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho thế hệ trẻ. Giảng lịch sử là giảng về quá khứ của xã hội loài người, quá khứ của dân tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo viên và học sinh hướng về những gì rất gần gũi đó là những con người thật những con người cụ thể chứ không phải là những con người hư cấu. Trong lịch sử dân tộc địa phương những con người đó là lại càng gần gũi hơn đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy và học tập lịch sử Để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học sinh hiểu biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục. Có câu: “Lời khen của sử còn vinh dự hơn áo đẹp vua ban, lời chê của sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời.” Qua đó ta thấy được môn lịch sử vô cùng quan trọng không những cung cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà còn góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho học sinh b). Thực trạng dạy và học ở trường THPT Tôn Đức Thắng - Thuận lợi: Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm nhân vật …. Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ 6 dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin… Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Đa số học sinh tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp… các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. - Khó khăn: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu thích môn học. Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết. - Điều tra cụ thể: Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết …. Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương, chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này với sự kiện khác. 7 2. Giải Pháp thực hiện: a) Đối với học sinh: Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các câu hỏi trong SGK phần sẽ học. Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ. Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao cho. Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này với sự kiện khác. Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa. Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử. b). Đối với giáo viên: Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện tử), bản đồ tranh ảnh, sơ đồ…. Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề. Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ kiến thức cũ. Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay các thắc mắc của học sinh. Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai. Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao? Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề. Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái. Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể. Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức. 8 Nội dung bài phải thật ngắn gọn cô động nhưng phải đảm bảo nội dung cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài. c). Một số giải pháp thực tế gây hứng thú học tập lịch sử bằng tài liệu văn học : - Phương pháp sử dụng tài liệu văn học: Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết các tác phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện tượng kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi sáng tác một tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác phẩm văn học tự nó là tư liệu lịch sử . Ví dụ như Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh… Trong việc giảng dạy, giáo viên thường sử dụng các loại tài liệu văn học chủ yếu: văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử, truyện, tiểu thuyết, thơ…. Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền thuyết, cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười…. Đây là tài liệu phản ánh nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như truyện Thánh Gióng, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồ sắt phát triển với vũ khí công cụ dùng đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt), đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn) hay Sơn Tinh – Thủy Tinh là biểu tượng đoàn kết, đồng lòng của dân tộc ta đắp đê chống bão, lũ lụt đặc trưng rất rõ của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong buổi đầu lịch sử vừa dựng nước và giữ nước. TK XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã kích chế sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước của người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một câu chuyện ngụ ngôn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy cò. Ở truyện Trê Cóc còn có ý nghĩa về luân lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét hủ bại và nực cười ở xã hội xưa, chung quanh những vụ kiện tụng trước cửa quan, người ta thấy trở đi trở lại những chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”. Chung quy thì chỉ người dân là phải chịu thiệt hại, thua cũng thiệt mà được cũng thiệt. Cóc sù sì, thô kệch giống như là những người dân chất phác hiền lành. Trê nhẵn nhụi, trơn tru hay chui luồn, có thể tiêu biểu cho những người có nết láu lĩnh, hay làm việc mờ ám... 9 Sử dụng tài liệu văn học dân gian, không chỉ góp phần làm cho bài giảng sinh động, tạo được không khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà giáo viên tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng Các tác phẩm văn học vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử có ý nghĩa đối với việc khôi phục hình ảnh quá khứ. Khi nói cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực dân nửa phong kiến thì phải kể đến tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình, một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị. Khi sử dụng tài liệu văn học phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo dục – giáo dưỡng và giá trị văn học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện, nhân vật của quá khứ để phục vụ được yêu cầu của nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận thức của học sinh, không làm loãng nội dung bài học lịch sử. - Cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam: Đưa một đoạn thơ, một đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học thêm phong phú, giờ học thêm sinh động Ví dụ khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống xâm lược (từ năm 1858 đến trước năm 1873)” khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này: Cơm thì chẳng có Rau cháo cũng không Đất trắng xóa ngoài đồng Nhà giàu niêm kín cổng Còn một bộ xương sống Vơ vất đi ăn mày. Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn lại lần lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất đến các hiệp ước Giáp Tuất, Hác măng, pa-tơ-nốt làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ, giáo viên có thể minh họa: Tan nhà cám nổi câu ly hận Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa 10 Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ Ngậm cười hết nói nổi quan ta (Cảm khái – Phan Văn Trị) Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, quân triều đình nhanh chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài thơ “Chạy giặc” Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cờ thế phút sa tay. Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy, Mất ổ đàn chim dáo dát bay. Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng, Nỡ để dân đen mắc nạn này. Khi Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì rồi chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh: đánh chìm tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua 2 câu thơ sau: Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giặc đem đi hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì khi hết người Nam đánh Tây” Vừa là ý chí chống giặc của ông cũng đồng thời là ý chí chống giặc của toàn dân Việt Nam. Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc: “Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự yếu đuối nào”. Trong bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau: Cung kiếm tài cao ít kẻ lường 11 Đáo để anh hùng lòng bất khuất Về Tàu còn nguyện giết Tây dương. Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình Dập dìu trống đánh cờ xiêu Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây Trong bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân tích cuộc sống của người công nhân giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các nội dung sau: Cao su đi dễ khó về Khi đi trai tráng khi về bủn beo Hay: Cao su xanh tốt lạ đời Mỗi cây bón một xác người công nhân Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Trung Quốc). Để khắc họa hình ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác phẩm “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc: “Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền y hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ, thuyết phục, nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ thái độ im lặng, dửng dưng. Anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đôi ngọn râu mép của cụ Phan nhếch lên một chút. Nhân chứng thứ 2 lại quả quyết cụ Phan đã nhổ vào mặt Va-ren”. Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách về văn hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết bhay bình văn thu hút được nhiều tầng lớp tham gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nông dân … một bài văn thời đó đã viết: Buổi diễn thuyết, người đông như hội Kì bình văn, khách đến như mưa Trong bài 24 “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), phần buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, từ rất sớm Người đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào. Người rất 12 khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ nên quyết định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Người quyết định sang phương Tây , đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào mình. Giáo viên có thể lấy một đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên để nhấn mạnh ý này: Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước” Không phải hình một bài thơ đã tạc nên người Một góc quê hương nửa đời quen thuộc Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai Thế đi đứng của toàn dân tộc Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động ngoại khóa cho môn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách, nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa tài liệu văn học vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính hiếu kì và lòng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh tiếp tục đọc để tìm hiểu 13 IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Việc sử dụng tài liệu văn học vào các tiết dạy học lịch sử đạt được kết quả khả quan. Khi sử dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn… minh họa cho một sự kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn, giờ học đạt hiệu quả cao. Trong dạy học dùng thơ văn cho học sinh có vai trò tích cực, chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn. Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả cao nhất của học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế. Giáo viên không chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ hội tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã biết để hiểu kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong học tập. Hướng dẫn học sinh đọc và sưu tầm các loại tài liệu tham khảo là những tác phẩm văn học cho phù hợp, giúp học sinh chọn, xác định những tác phẩm nào phục vụ cho yêu cầu của dạy học lịch sử, tránh sử dụng những tác phẩm bịa đặt ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh. Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học. kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy. Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải 14 giáo dục cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở để ứng xử trước những tình huống mới. Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học. 2. Kiến nghị: Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối với môn lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ môn này cần có thêm những yêu cầu sau: - Cần có đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân dung nhân vật lịch sử - Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học - Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử - Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương. * * * Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình học tập của học sinh trường THPT Tôn Đức Thắng nên khả năng áp dụng thực tiễn không rộng rãi và chắc chắn có nhiều hạn chế, kính mong quí thầy cô đóng góp ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn! Tân Phú, ngày 23 tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Lê Thị Ngọc Lũy 15 V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử 11– Nhà xuất bản Giáo dục. 2. Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử 3. Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục. 4. Phương pháp dạy học lịch sử của – Nhà xuất bản Giáo dục. 5. Lý luận dạy học lịch sử (Giáo trình của trường Đại học Cần Thơ) 6. Giáo dục học (lý luận dạy học tập II) – Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 7. Đại cương lịch sử Việt Nam (tập II) – Nhà xuất bản Giáo dục. 8. Tinh Tuyển Văn học Việt Nam – Nhà xuất bản Khoa học xã hội 16 SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị: THPT Tôn Đức Thắng CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Tân Phú, ngày 23 tháng 5 năm 2013 PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011-2012 Tên sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng văn học trong giảng dạy lịch sử Việt Nam. Họ và tên : Lê Thị Ngọc Lũy . Đơn vị (tổ): Sử - Địa – Công Dân Lĩnh vực: Quản lý giáo dục  Phương pháp dạy học bộ môn:………….  Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực khác: …………………… ……  1. Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới  - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiệu quả -Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến và đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khia áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách : Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Kí và ghi rõ họ tên) THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Kí tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu) 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan