Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
A- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
1- Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Việc
tìm kiếm và vận dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy học các môn
học ở Tiểu học nói chung và môn Khoa học nói riêng là vấn đề quan trọng nhằm
hình thành cho học sinh phương pháp học tập độc lập, sáng tạo, qua đó nâng cao
chất lượng dạy học. Một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng
được mục tiêu yêu cầu đổi mới và vận dụng tốt vào quá trình dạy học môn Khoa ở
tiểu học hiện nay đó là phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong những năm gần đây
phương pháp ‘Bàn tay nặn bột” bước đầu được đưa vào thử nghiệm trong dạy học
môn Khoa học ở một số trường Tiểu học tại Việt Nam. Việc nghiên cứu áp dụng
phương pháp này vào dạy học sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà
trường là vấn đề hết sức cần thiết góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Có như
vậy mới hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, giúp họ thực sự
trở thành “chủ thể” tìm kiếm tri thức.
Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Mục tiêu của
môn khoa học lớp 4,5 là giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về sự
trao đổi chất; sự sinh sản của động vật, thực vật; đặc điểm và ứng dụng của một số
chất, một số vật liệu và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản
xuất. Bước đầu hình thành và phát triển cho các em những kỹ năng cần thiết như
quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời
***********************
1
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông
tin để giải đáp. Biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,
phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện
tượng đơn giản trong tự nhiên. Qua đó hình thành và phát triển những thái độ và
hành vi như: Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học
vào đời sống, yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và hành
động bảo vệ môi trường xung quanh.
Môn khoa học ở các lớp 4,5 được xây dựng trên cơ sở nối tiếp những kiến
thức về tự nhiên của môn Tự nhiên và Xã hội các lớp 1,2,3. Nội dung chương trình
được cấu trúc đồng tâm mở rộng và nâng cao theo các chủ đề. Nội dung kiến thức
tích hợp các nội dung của các khoa học tự nhiên với khoa học về sức khoẻ. Những
nội dung được lựa chọn thiết thực gần gũi và có ý nghĩa đối với học sinh, giúp các
em có thể vận dụng những kiến thức khoa học vào đời sống hàng ngày. Chương
trình cũng đã chú trọng tới hình thành và phát triển các kỹ năng trong học tập các
môn khoa học thực nghiệm như: Quan sát, thí nghiệm, phán đoán, giải thích các sự
vật hiện tượng trong tự nhiên và kỹ năng vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc
sống. Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh
phát huy tính tích cực, tự lực, tìm tòi phát hiện ra kiến thức.
Tên các bài học trong sách giáo khoa thường được trình bày dưới dạng một
câu hỏi, lúc hoàn thành bài học cũng là lúc học sinh tìm được câu trả lời cho câu
hỏi. Điều này rất phù hợp với phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Hơn thế nữa, ở lứa
tuổi học sinh Tiểu học, thế giới tự nhiên đối với các em chứa đựng bao điều bí ẩn.
Sự tác động của nó hàng ngày qua mắt các em làm cho các em lạ lẫm, khiến các
***********************
2
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
em tò mò, muốn khám phá để hiểu biết về chúng. Các em không bằng lòng với
việc quan sát mà còn thao tác trực tiếp để hiểu chúng hơn. Các em rất sung sướng
khi phát hiện ra một điều gì đó mới lạ liên quan đến thực tế. Điều đó thể hiện rõ
trên vẻ mặt vui tươi khi tìm người thân để chia sẻ niềm vui của mình. Chính trí tò
mò, ham hiểu biết khoa học là động cơ thúc đẩy các em học tập một cách tích cực.
Sự hứng thú sẽ làm nảy sinh khát vọng, lòng ham mê hoạt động và hoạt động sáng
tạo. Điều này sẽ hình thành động cơ học tập (động cơ bên trong) cho HS.
Từ phân tích những đặc điểm trên, tôi nhận thấy đây là môn học rất thuận lợi
để giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, đưa các phương pháp dạy học mới vào
giảng dạy đặc biệt là phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Việc đưa phương pháp dạy
học này trong dạy môn khoa học ở nhà trường Tiểu học là hoàn toàn hợp lý.
Hướng đổi mới này không những nâng cao hiệu quả dạy học môn khoa học mà
còn phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học và yêu cầu đào tạo con
người trong giai đoạn hiện nay. Điều thật đáng mừng là trong năm học này, Phù
Cừ đã là nơi tập huấn cho toàn tỉnh, chính thức đưa phương pháp “Bàn tay nặn
bột” vào giảng dạy môn Tự nhiên- Xã hội ở tiểu học. Điều đó càng khẳng định vị
trí, vai trò và hiệu quả của việc ứng dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy
học là vô cùng cần thiết và nên làm. Tôi tha thiết mong muốn phương pháp Bàn
tay nặn bột sớm được áp dụng rộng rãi và trở thành một phương pháp dạy học
quen thuộc trong các nhà trường Tiểu học hiện nay.
2- Cơ sở thực tiễn.
a- Đối với giáo viên.
***********************
3
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
Chúng ta đã biết, môn khoa học được đưa vào giảng dạy ở các lớp 4,5 với
một dung lượng kiến thức lớn. Đội ngũ giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc
trao đổi, học hỏi, tự bồi dưỡng cũng như trong việc cải tiến các phương pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy học.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nói trên, việc dạy học môn Khoa học
còn có những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học
môn học này. Khó khăn lớn nhất của giáo viên trong dạy học môn khoa học đó là
việc vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Đặc biệt là về mặt
phương pháp, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng các phương pháp
dạy học, chưa tìm thấy phương pháp dạy học hữu hiệu sao cho phù hợp với mục
đích, yêu cầu của từng bài học cũng như đặc trưng của môn học. Trong khi cần
chú trọng việc hình thành cho học sinh phương pháp học tập, rèn kỹ năng và thói
quen tự tìm tòi nghiên cứu trước các sự vật, hiện tượng tự nhiên thì không ít giáo
viên lại yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng, nhồi nhét kiến thức, bắt học sinh phải
công nhận một cách miễn cưỡng không phát huy được tính tò mò ham hiểu biết
của học sinh.
b- Đối với học sinh.
Qua dự giờ tôi thấy, các em biết làm việc tập thể, hợp tác, trao đổi, trình bày
các ý kiến cá nhân, biết làm một số thí nghiệm thực hành đơn giản. Tuy nhiên, giờ
học thiếu sinh động, không khí học tập còn nặng nề, các em không được tự chủ
trong việc tìm kiếm tri thức nên không gây được hứng thú trong học tập, thờ ơ với
bài học và chưa thật sự chú tâm. Các em ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc
và hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm
***********************
4
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng kỹ xảo thực hành còn vụng về, lúng túng.
Việc vận dụng những kiến thức mà các em thu thập được vào thực tiễn là khoảng
cách khá xa, bởi vì các em thiếu hẳn kỹ năng thực hành. Các em chưa có thói quen
ghi lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục
đích của thí nghiệm còn kém.
3- Kết luận.
Các phương pháp dạy học mới từng bước được giáo viên đưa vào sử dụng
trong thực tiễn dạy học. Số giáo viên tâm huyết đã tích cực tìm kiếm đưa những
phương pháp dạy học mới vào dạy học nhưng nhìn chung các bước đi vẫn đang
còn lộn xộn không theo một quy trình chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao. Từ việc sử
dụng các phương pháp dạy học kém hiệu quả đã ảnh hưởng đến chất lượng của
học sinh trên bình diện cả về tri thức lẫn kỹ năng và thái độ. Các em chưa hứng
thú học tập và không được nói nên những điều mà các em biết, không đựoc làm thí
nghiệm, giờ học không có đồ dùng học tập phù hợp, cô giáo lại yêu cầu phải ghi
nhớ nhiều kiến thức. Những điều đó làm hạn chế trong việc phát huy những năng
lực vốn có của học sinh.
Vì vậy, việc vận dụng những phương pháp dạy học mới mà trong đó học
sinh được độc lập tự chủ, mạnh dạn nói nên những hiểu biết của mình và được tập
thể tôn trọng, đồng thời được bảo vệ quan điểm của mình trước tập thể bằng cách
đề xuất và tự tiến hành thí nghiệm mà không còn phải thấy e ngại, rụt rè là rất cần
thiết. Sự cuốn hút học sinh say mê khám phá thể giới tự nhiên không chỉ ở chỗ độc
lập, sáng tạo, mà còn thấy mình ngày càng hiểu biết được nhiều, nghĩ ra nhiều
phương án, nhiều phát minh được tập thể lớp, cô giáo và mọi người xung quanh
***********************
5
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
chấp nhận. Khoa học chứa đựng nhiều điều thú vị kèm theo sự say mê, chinh
phục, thắc mắc và đặt câu hỏi rồi đi tìm câu trả lời thuyết phục, làm cho hoạt động
khám phá diễn ra không ngừng nơi đứa trẻ, dần dần hình thành ở các em phương
pháp học, phương pháp tiếp cận tri thức khoa học để đáp ứng được xu thế thời đại
- Thời đại bùng nổ thông tin, với một khối lương tri thức khổng lồ mà nhà trường
không đủ khả năng truyền tải hết. Có như vậy mới phù hợp với bậc tiểu học là
“Bậc học phương pháp”.
B– Mục đích nghiên cứu:
Đó là phương pháp “ Bàn tay nặn bột”. Phương pháp này là ý tưởng
sáng tạo của nhà vật lý người Mỹ Leon Ledeman vào những năm 40 của thế kỷ
XX. Năm 1995 Giáo sư George Charpak cùng một số nhà khoa học Pháp đã
nghiên cứu xây dựng chương trình thí điểm dạy học khoa học. Tôi đã được học
trong chương trình đào tạo nâng chuẩn khóa học 2003 – 2006. Với tinh thần tự
học, tự bồi dưỡng, tìm tòi, khám phá để có thêm kiến thức về phương pháp. Bản
thân thấy rõ những ưu điểm vượt trội của phương pháp và đã vận dụng vào quá
trình giảng dạy môn Khoa học ở Tiểu học nhiều năm qua bước đầu đã thu được
kết quả đáng khích lệ. Vì vậy, tôi quyết định lựa chọn đề tài này nghiên cứu nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học môn Khoa học ở Tiểu học, đặc biệt là với học sinh
khối 4.
C- Đối tượng nghiên cứu:
- Tôi tiến hành nghiên cứu, đề xuất cách sử dụng một phương pháp dạy học
mới, phương pháp “Bàn tay nặn bột” có nhiều ưu điểm vào dạy môn khoa học ở
Tiểu học.
***********************
6
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
D- Phạm vi nghiên cứu :
- Đề tài tập trung nghiên cứu việc sử dụng “Bàn tay nặn bột” vào dạy học môn
Khoa học cho học sinh khối 4.
E- Khách thể nghiên cứu :
- Giáo viên và học sinh khối 4 của trường Tiểu học Nguyên Hòa – Phù Cừ Hưng Yên.
G- Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tôi tiến hành tìm hiểu tình hình dạy học môn Khoa học lớp 4, thực hành xác
định phương pháp, hình thức tổ chức và các kiến thức cần thiết. Dự giờ, kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình học tập ở phân môn. Từ đó
đề xuất cách thực hiện sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” phù hợp trong quá
trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học cho học sinh.
H- Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp đọc tài liệu.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
I – TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU:
- Đối với đề tài này, tôi thực hiện nghiên cứu các nội dung chính theo tiến
trình sau:
1/ Khái niệm “Bàn tay nặn bột”.
***********************
7
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
2/ Một số đặc điểm của phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
3/ Một số nguyên tắc khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào quá trình
dạy học ở Tiểu học.
4/ Bản chất của việc dạy – học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
5/ Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
6/ Ứng dụng “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học ở Tiểu học.
6.1. Quy trình dạy học của Bàn tay nặn bột.
6.2. Đề xuất quy trình cụ thể trong dạy học Khoa học ở Tiểu học theo phương
pháp Bàn tay nặn bột.
6.3. Ví dụ minh hoạ.
6.4. Một số trích đoạn trong quá trình sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột của GV và
HS trong dạy học Khoa học 4.
7/ Những bài học trong chương trình Khoa học 4 có thể áp dụng phương pháp Bàn
tay nặn bột.
K- KẾT QUẢ ĐIỀU TRA:
Để xác lập cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát
thực trạng việc dạy và học của giáo viên và học sinh trường Tiểu học Nguyên
Hòa.
- Tôi tiến hành làm một đợt khảo sát chất lượng lớp. Tôi lựa chọn lớp thực nghiệm
là lớp 4A, lớp đối chứng là lớp 4B để đánh giá chất lượng ban đầu các khối lớp
làm cơ sở để khảo sát thực nghiệm của đề tài.
***********************
8
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
- Nội dung khảo sát nhằm đánh giá khả năng nắm kiến thức của các em, kỹ năng
vận dụng các kiến thức đã học để làm bài tập, hệ thống kiến thức, trả lời câu hỏi,
Vận dụng thực tế…
* Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm ở hai lớp 4A và 4B của trường Tiểu học
Nguyên Hòa như sau:
Lớp
Số
Điểm giỏi
SL
%
Điểm khá
SL
%
Điểm TB
SL
%
Điểm yếu
SL
%
HS
4A
32
5
15,6 7
21,9 15
53
3
9,5
4B
30
6
20
6
20
16
53,4 2
6,6
Qua kết quả khảo sát thì thấy rằng chất lượng của hai lớp trong cùng một khối
là tương đương, sự chênh lệch giữa trình độ hai lớp là không đáng kể. Môi trường
sống tương đương nhau vì các em là học sinh thuộc địa bàn trong cùng một xã.
PHẦN II- NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DẠY - HỌC KHOA
HỌC CHO HS LỚP 4.
Để ứng dụng giảng dạy đạt hiệu quả, trước hết, người giáo viên cần nghiên
cứu kỹ, hiểu và nắm vững những vấn đề sau:
1/ Khái niệm “Bàn tay nặn bột”.
Theo Gioerges Charpak thì:
“Bàn tay nặn bột” vượt quá sự tách đôi truyền thống giữa phương pháp và
chương trình. Trong đó, trẻ em hành động, thí nghiệm, nghiên cứu, tìm kiếm và có
những câu hỏi đi kèm, hướng tới xây dựng những kiến thức cơ bản để hiểu biết thế
giới tự nhiên và kỹ thuật.
1.1. Giải thích về thuật ngữ “Bàn tay nặn bột”.
***********************
9
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
“Bàn tay nặn bột” nói vậy để cho ngắn gọn nhưng thực ra, nó huy động cả
năm giác quan: xúc giác cũng như thị giác, thính giác và có cả khứu giác, vị giác
nữa để phát triển trong các em sự tiếp xúc diệu kỳ với thế giới bao quanh, để các
em học cách khám phá và tìm hiểu nó.
1.2. Ý nghĩa của thuật ngữ “Bàn tay nặn bột”:
- Bàn tay- tượng trưng cho việc học sinh tự hành động, trực tiếp hành động.
- Nặn bột - tượng trưng cho sản phẩm của chính các em trong hoạt động tự tìm tòi,
sáng tạo.
- Lòng bàn tay tượng trưng cho trái đất tròn. Năm ngón tay tượng trưng cho trẻ em
ở năm châu lục khác nhau.
Ý nói: Toàn trẻ em trên trái đất đều cùng nhau tham gia vào chương trình học
tiên tiến, thú vị này để xây dựng một trái đất đẹp trong tương lai.
2/ Khái niệm “Bàn tay nặn bột”của nhóm nghiên cứu:
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mà trong
đó, học sinh tiến hành các thao tác trí tuệ có sự hỗ trợ của một sô dụng cụ và
những giác quan để nghiên cứu, tìm tò, khám phá ra tri thức mới. Tất cả suy
nghĩ và kết quả được học sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ.
*Hay nói cách khác:
“ Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học được tổ chức nhằm giúp học
sinh tự phát hiện ra tri thức khoa học. Trên cơ sở vận dụng tất cả các giác quan
của mình, kinh nghiệm, tri thức cũ và tham gia làm thực nghiệm khoa học.
Như vậy, phương pháp Bàn tay nặn bột đề cao vai trò chủ thể tích cực, độc
lập, sáng tạo của HS, hình thành cho các em phương pháp học tập đúng đắn. Các
***********************
10
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
em học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động. Các em sẽ tiến bộ dần
bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, hỏi đáp với bạn, trình bày quan điểm
của mình, đối lập với các quan điểm của người khác, tranh luận, tạo ra môi trường
học tập tích cực.
2/ Một số đặc điểm của phương pháp “ Bàn tay nặn bột”.
- Mục tiêu hàng đầu của phương pháp là giúp học sinh tiếp cận dần các khái niệm
khoa học và kỹ thuật thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt, trong nói
và viết.
- Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đưa ra một tiến trình ưu tiên cho việc xây dựng
tri thức bằng hoạt động, thí nghiệm và thảo luận.
- Đó là sự thực hành khoa học bằng hành động hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây
dựng một tập thể tốt và thu được kiến thức cơ bản để hiểu biết thế giới tự nhiên và
kĩ thuật.
- Phương pháp này đặt học sinh vào vị trí của một nhà nghiên cứu khoa học. Các
em tự mình tìm tòi, khám phá ra kiến thức của bài học thông qua việc tiến hành
các thí nghiệm khoa học, trao đổi, thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
- Học sinh học tập nhờ hành động. Các em học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi
vấn. Bạn bè trao đổi, quan niệm về một vấn đề khoa học nào đó với nhau và được
kiểm tra (sự đúng sai) bằng cách tiến hành làm các thí nghiệm.
- Trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”, học sinh được thoải mái đưa ra quan
điểm của mình về sự vật, hiện tượng. Đó là những hiểu biết ban đầu của học sinh.
Những hiểu biết này có thể đúng, chưa đầy đủ, hoặc có thể sai, đôi khi là ngây thơ,
***********************
11
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
ngờ nghệch nhưng vẫn được tôn trọng, động viên và khích lệ. Khi học sinh đưa ra
biểu tượng ban đầu của mình về vấn đề đặt ra, giáo viên không đưa ra lời nhận xét
đúng, sai mà để các em tự nhận thấy được trong quá trình kiểm tra giả thuyết.
* Đối với học sinh: Khi tồn tại quan niệm sai hoặc không thích hợp, các em sẽ
được tự mình nhận thức lại, sửa chữa lại ở cuối tiết học hoặc trong quá trình diễn
biến của tiết học. Do có sự khác nhau về quan niệm nên gây ra sự tranh luận, thắc
mắc mà muốn được tháo gỡ thì phải đi tìm câu trả lời chính xác (tìm ra chân lý
khoa học). Vậy muốn có câu trả lời thì buộc phải suy nghĩ, mày mò để tìm một
hướng đi hiệu quả và tiến hành hành động để đi đến đích cuối cùng. Tóm lai, đối
với học sinh, biểu tượng ban đầu là điểm xuất phát, là nền tảng mà trên đó kiến
thức sẽ được thành lập.
* Đối với giáo viên: Giáo viên biết được sự hiểu biết của học sinh về vấn đề sắp
học đạt ở mức độ nào để tính đến những chướng ngại ẩn ngầm, nhận thức được
con đường còn phải trải qua giữa các quan niệm của người học với mục đích của
giáo viên để tìm cách xử lý thích hợp như: xác định một cách thực tế về trình độ
bắt buộc phải đạt được, lựa chọn những tình huống sư phạm, các kiểu can thiệp và
những công cụ so với kiến thức hoa học được coi là chuẩn thích đáng nhất. và cuối
cùng để có sự đánh giá chuẩn mực, sát thực nhất.
3/ Một số nguyên tắc khi sử dụng phương pháp“ Bàn tay nặn bột” vào quá
trình dạy học.
Trong quá trình sử dụng phương pháp“ Bàn tay nặn bột” để thực sự có hiệu
quả đòi hỏi người giáo viên và học sinh cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
***********************
12
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
- Các em cần được quan sát một số sự vật, hiện tượng của thế giới thực tại, gần
gũi, dễ cảm nhận và tiến hành thực nghiệm về chúng.
- Trong quá trình học tập, các em tự lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận những ý
nghĩ và các kết quả đạt được trên cơ sở xây dựng kiến thức cho mình. Một hoạt
động mà hoàn toàn chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
- Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức trong các giờ học nhằm
đến một sự tiến bộ trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và dành
phần lớn quyền tự chủ cho học sinh.
- Mỗi học sinh có một quyển vở ghi chép thí nghiệm và các em trình bày trong đó
bằng ngôn ngữ của riêng mình.
- Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được
thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.
4/ Bản chất của việc dạy – học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Dạy học theo phương pháp “ Bàn tay năn bột, các em có thể tiến hành
những nghiên cứu dẫn đến sự hiểu biết. Nhưng các em cần được hướng dẫn và
giúp đỡ bởi các câu hỏi của thầy giáo và hoạt động trong khuôn khổ một đề tài đã
được xây dựng chứ không phải chỉ lựa chọn theo các “cơ hội”. Trong quá trình
nghiên cứu, học sinh phải sử dụng tất cả các giác quan để tìm ra tri thức mới. Các
em cần có vở ghi chép cá nhân để ghi lại những ý tưởng của mình, những điều đã
được sửa chữa lại, cho phép giữ lại vết tích của những thử nghiệm liên tiếp, đánh
dấu được tiến trình nghiên cứu. Vở ghi chép được học sinh giữ suốt trong thời
gian học Tiểu học và cuối cấp học sẽ hình thành một tập vở ghi nhớ đặc biệt.
***********************
13
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
Như vậy bản chất của “ Bàn tay nặn bột” không phải là phương thức mới cho
phép các em hội nhập tốt hơn vào đời sống tự nhiên mà tạo cho các em một cách
xử lý độc lập, có phần nào giống như một nhà nghiên cứu. Khi xử lý độc lập, học
sinh sử dụng giác quan và một số dụng cụ hỗ trợ cho các thao tác trí tuệ.
Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” không đòi hỏi phải sử dụng
những dụng cụ thí nghiệm phức tạp, hiện đại, đắt tiền mà các dụng cụ ở đây không
quá tốn kém, đa số là các vật dụng dễ kiếm và dễ sử dụng, không nặng nề. Nó
được sử dụng hàng ngày với vài vật liệu đơn giản là đủ. Các thao tác trên những
dụng cụ thí nghiệm cũng hết sức đơn giản và không cần có hiểu biết kĩ thuật gì đặc
biệt. Các em có thể thử nghiệm nhu cầu của cây trồng bằng cách thay đổi các
thông số : đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, không khí, bằng cách so sánh và phân tích
kết quả thực nghiệm. Các em sẽ phát hiện ra rằng: chỉ cần thay đổi mỗi lần một
thông số là có thể có những kết luận khác nhau.Và trong quá trình ấy, học sinh sẽ
đặt ra những câu hỏi thắc mắc: Tại sao có những loại cây sống bám trên cây khác
mà không cần đến yếu tố đất? Tại sao sự nảy mầm không chỉ xảy ra trong đất mà
còn cả trên nhựa, tờ giấy?... Như vậy trong hạt có gì? Cây trồng có ăn đất không?
Tại sao lại bón phân cho cây ?....
5/ Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
- Trong quá trình HS thực hành, GV phải khéo léo theo dõi, quan sát học sinh xem
các em đang nghĩ gì về vấn đề mà mình đặt ra để nắm được tình hình. Nếu có điều
gì không khớp với dự định ban đầu thì cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp.
- Các biểu tượng HS đưa ra có thể đúng, có thể sai nhưng giáo viên không đánh
giá và cũng không đưa ra câu trả lời. GV chỉ gợi ý hay đặt thêm những câu hỏi dẫn
***********************
14
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
dắt HS đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của chính các em chứ không làm thay. Ví dụ;
“ Theo em, nó sẽ như thế nào”? “ Em nghĩ (làm) thử xem”? “Em tìm cách làm nào
đó để xem có đúng không”?..... Ví dụ khi các em lọc nước mà kết quả vẫn đục Gv
chỉ gợi ý “ Các em thử xem thiết bị thí nghiệm có vấn đề gì không”? “ Xem lại các
bước tiến hành lọc nước của các em”.....Trong trường hợp thí nghiệm cần đến các
điều kiện, GV phải giúp các em xác định được điều kiện của thí nghiệm (Ví dụ:
Về mặt thời gian, môi trường, nhiệt độ...). Điều này, bước đầu HS có thể gặp khó
khăn nhưng thực hiện nhiều lần các em sẽ quen dần trong việc đặt điều kiện cho
thí nghiệm để đảm bảo độ chính xác cao.
* Tình huống xuất phát từ câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu sau :
- Câu hỏi thường mang tính chất mở hoặc nửa mở phù hợp với mục tiêu bài học và
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh sao cho các em có khả năng giải
quyết.
- Có tác dụng khêu gợi trí tò mò và ham hiểu biết khoa học, kích thích các em suy
nghĩ và tiến hành giải quyết để đem lại những hiểu biết.
- Câu hỏi phải gọn, rõ ràng, dễ hiểu, hạn chế những từ ngữ mang khái niệm mà các
em chưa biết. Nếu có, GV nên tìm những từ ngữ thay thế sao cho vừa đảm bảo HS
hiểu được vừa vẫn giữ nguyên được ý nghĩa của nó.
- Khi nêu câu hỏi phải đảm bảo cho tất cả học sinh nghe và biết được mình cần
phải làm gì.
- Việc chuẩn bị các vật liệu, đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng. Đối với
phương pháp Bàn tay nặn bột nếu không có đồ dùng dạy học thì không thể tiến
hành được.
***********************
15
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
- Đối với phương pháp Bàn tay nặn bột nếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá bằng điểm
số thì chưa đủ mà cần phải phối hợp đánh giá về năng lực quan sát, năng lực tư
duy, khả năng suy luận và phán đoán, kỹ năng làm thí nghiệm, cách sử dụng ngôn
ngữ để biểu đạt (kể cả trong khi nói và viết), sự hứng thú tìm tòi, sự tò mò ham
hiểu biết, sự tham gia tích cực trong giờ học...Tất cả những điều đó nhằm kích
thích, lôi kéo các em khám phá thế giới không ngừng, tạo ra sự cân đối ở các em
giữa kiến thức và kỹ năng, giữa lý thuyết và thực hành.
- Không chia nhóm HS quá đông, mỗi nhóm chỉ từ 2, 4 đến 6 em và từ hai bàn
ghép lại.
- Không nên cho HS biết trước kiến thức của bài học một cách tiêu cực mà phải để
cho các em tự khám phá ra chúng. Không để các em sử dụng sách giáo khoa để trả
lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì như vậy sẽ làm cho HS có thói quen ỷ lại không
chịu suy nghĩ, tìm tòi trong học tập. Sách giáo khoa có thể chỉ được sử dụng làm
tài liệu quy chiếu với các kết quả nghiên cứu của HS ở cuối tiết học.
- Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài học ở
đề bài).
- Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp Bàn tay nặn bột để áp dụng,
không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này.
Đó là những lưu ý đối với Gv khi sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào
giảng dạy môn Khoa học ở Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn
học này đạt hiệu quả hơn.
6/ Ứng dụng “Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
***********************
16
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
6.1.Quy trình chung khi sử dụng phương pháp“ Bàn tay nặn bột” trong dạy học Khoa học ở Tiểu học.
***********************
17
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
Sơ đồ: Quy trình sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học
môn Khoa học ở Tiểu học.
GIÁO
Xác định mục
Chuẩn bị đồ
Lập kế hoạch dạy học
Nêu ra tình huố
Tổ chức HS T
GT
Yêu cầu các nh
Lựa chọn nhữ
hợp
Tổ chức các n
GT G
Yêu cầu HS
ra PA kiể
Yêu cầu cá
xuất PA kiểm
chọn những
tiến hành
Yêu cầu các
hành kiểm
Theo dõi, g
sin
Yêu cầu các n
kết quả; giúp
hóa và chốt
trọng tâm.
***********************
18
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Đánh giá
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
6.2. Đề xuất quy trình cụ thể trong dạy học môn Khoa học ở Tiểu học.
Bước 1 : Giao nhiệm vụ.
+ Chia lớp thành các nhóm, thường thì mỗi nhóm có 2; 4 hoặc 6 học sinh.
+ Giao nhiệm vụ cho các nhóm.
+ Phát cho từng nhóm những phương tiện cần thiết để làm thí nghiệm.
+ Làm thực nghiệm khoa học theo yêu cầu .( thường làm ra một kết quả cụ thể ).
+ Quan sát hiện tượng xảy ra rồi ghi chép lại.( Mỗi nhóm có một quyển sổ )
+ Giải thích hiện tượng và rút ra kết luận khoa học .
Bước 2 : Học sinh thực hiện nhiệm vụ.
- Học sinh thảo luận đề xuất các phương án giải quyết.
- Học sinh lần lượt thử các phương án đề xuất.
- Trong trường hợp thành công, các em ghi lại diễn biến của thí nghiệm vào sổ.
- Học sinh tập giải thích hiện tượng và rút ra kết luận khoa học.(Đây chính là tri thức
khoa học mà học sinh tìm ra).
Bước 3 : Trình bày kết quả.
- Một nhóm học sinh trình bày kết quả thí nghiệm trước lớp. Các nhóm khác đặt câu
hỏi mà nhóm mình quan tâm thắc mắc.
- Các nhóm khác có thể tiếp tục làm thí nghiệm nếu có cách giải quyết khác.
Bước 4: Tổng kết, đánh giá.
- Giáo viên kết luận : Khẳng định kết quả thí nghiệm đúng và kết luận khoa học
tương ứng mà học sinh phát hiện.
6.3. Ví dụ minh hoạ khi ứng dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào bài cụ thể .
( Đây chỉ là một trong những cách làm được cho là hiệu quả trong nhiều cách thể
hiện của phương pháp Bàn tay nặn bột mà tôi đã thực hiện trong giảng dạy Khoa học 4
thời gian qua).
***********************
19
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
Sử dụng phương pháp“Bàn tay nặn bột” trong dạy - học môn Khoa học 4.
**************************************************************
*****
* Ví dụ 1: Trích đoạn bài:
“ Tính chất của nước” ( Trang 42) Lớp 4.
Kiến thức cần đạt: ( Học sinh đưa ra được các kết luận).
1- Nước là chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi, không vị, không có hình dạng
nhất định .
Phương tiện : Một viên phấn trắng, một viên bi, một cốc thuỷ tinh, nước
trắng, thìa, muối, cát một cái chai.
Giao nhiệm vụ :
*Lệnh : Hãy dùng một cốc nước để dấu đi một viên bi ?
( Học sinh tìm nhiều cách nhưng sẽ không có cách nào dấu được viên bi )
* Kết luận : Nước trong suốt.
*Lệnh : Hãy dùng một cốc nước để làm đổi màu viên phấn?
( Viên phấn không đổi màu )
Kết luận : Nước không màu.
***********************
20
***************************
Nguyễn Thị Ly. Trường Tiểu học Nguyên Hòa. Năm học 2012 – 2013.
- Xem thêm -