Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn sử dụng di sản ở đồng nai trong dạy môn lịch sử trường thpt...

Tài liệu Skkn sử dụng di sản ở đồng nai trong dạy môn lịch sử trường thpt

.PDF
28
1671
72

Mô tả:

BM 01-Bìa SKKN Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT NAM HÀ Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG DI SẢN Ở ĐỒNG NAI TRONG DẠY MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT Người thực hiện: LÊ QUANG CẦN Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn: Lịch sử - Lĩnh vực khác: Có đính kèm:  Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học: 2014-2015 Người thực hiện - Lê Quang Cần 1 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC –––––––––––––––––– BM02-LLKHSKKN I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: LÊ QUANG CẦN 2. Ngày tháng năm sinh: 1978 3. Nam, nữ: Nam 4. Địa chỉ: Tổ 32 - KP2 - P.Trảng Dài - TP Biên Hòa - Đồng Nai 5. Điện thoại: 0613950365 (CQ); 0982996200 (ĐTDĐ) 6. Fax: E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: Phó hiệu trưởng 8. Nhiệm vụ được giao: Phụ trách thẩm định SKKN, quản lý nề nếp học sinh, hoạt động ngoài giờ lên lớp. 9. Đơn vị công tác: Trường THPT Nam Hà II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO  Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Ths.Sử học  Năm nhận bằng: 2013  Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử Việt Nam III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC  Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn lịch sử  Số năm có kinh nghiệm: 12  Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 6 năm gần đây: 1. Sử dụng kênh hình sách giáo khoa bài 21 chương IV- Lịch sử Việt Nam lớp 12 ban cơ bản trung học phổ thông. 2. Sử dụng kênh hình SGK nhằm phát huy tính tích cực của HS trong giảng dạy chương III: Các nước Á, Phi và Mĩ Latinh (1945-2000) - Lịch sử TG lớp 12 THPT. 3. Sử dụng hiệu quả kênh hình sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy lịch sử lớp 11- Phần ba: Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1918. 4. Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh trong giảng dạy Lịch sử Việt Nam lớp 12 THPT từ 1919-1945 5. Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh trong giảng dạy Lịch sử Việt Nam lớp 12 THPT từ 1945 - 1954 Người thực hiện - Lê Quang Cần 2 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí quan trọng của lịch sử dận tộc: Chỉ có thông qua lịch sử và chỉ có kiến thức hiểu biết về lịch sử mà mỗi người dân Việt Nam mới hiểu được gốc tích, cội nguồn của dân tộc mình, đất nước mình. Người viết: “Dân ta phải biết sử ta – Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Vì thế, bên cạnh tìm hiểu lịch sử dân tộc, việc giảng dạy các di sản văn hóa là nhiệm vụ rất cần thiết cho ngành giáo dục và đào tạo, đặc biệt môn học lịch sử ở trường THPT. Để đáp ứng nhiệm vụ trong giảng dạy “di sản” đến học sinh cấp THPT, tháng 10 năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành tài liệu tập huấn: Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông môn Lịch sử. Qua tài liệu hướng dẫn này, giáo viên giảng dạy có cơ sở pháp lý và điều kiện tốt cho việc biên soạn, giảng dạy lồng ghép nội dung “di sản” vào từng bài học cụ thể. Đặc biệt trong giảng dạy lồng ghép “di sản” lịch sử địa phương Đồng Nai đối với chương trình môn Lịch sử THPT phù hợp là rất cần thiết nhằm giáo dục tình yêu quê hương đất nước, con người vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai hơn 300 năm hình thành và phát triển. Trong thời kỳ xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách song song với tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, Nghị Quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu phát triển bền vững của đất nước” với: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách” [1]. Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu cả nước. Người thực hiện - Lê Quang Cần 3 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Đồng hành với phát triển kinh tế, việc giáo dục hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa là nhiệm vụ thường xuyên liên tục của ngành giáo dục và đào tạo Đồng Nai. Trong đó, giáo dục “di sản” địa phương Đồng Nai góp phần làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Đồng Nai hoàn thiện nhân cách. Chính vì thế, việc “Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy học môn Lịch sử ở trường THPT” rất quan trọng đối với giáo viên đang thực hiện nhiệm vụ giảng dạy bộ môn lịch sử trường THPT tại Đồng Nai, cho nên tôi xem đề tài “Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy học môn Lịch sử ở trường THPT” là rất cần thiết. Qua đó, sẽ góp phần giúp cho học sinh tiếp nhận kiến thức mới vững chắc, hiểu rõ hơn nữa những di sản văn hóa Đồng Nai đồng hành cùng lịch sử dân tộc trong suốt hơn 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Di sản là văn hóa tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế này sang thế hệ khác. Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hay phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường, tạo công cụ hoặc nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học và giáo dục. Năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị việc phát động phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Qua đó, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả. Một trong nhiều nội dung của phong trào“xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là “học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương”[2]. Việc khai thác các di sản văn hóa địa phương trên địa bàn tọa lạc của nhà trường như là nguồn tri thức, là phương tiện dạy học, giáo dục rất ít khi được quan tâm hoặc nếu có chỉ mang tính tự phát. Vì vậy, vai trò, thế mạnh của những di sản văn hóa đa dạng, muôn hình muôn vẻ ở địa phương Đồng Nai gần như chưa được ngành giáo dục và đào tạo, đặc biệt bộ Lịch sử vận dụng hết trong tiến trình giảng dạy lồng ghép cùng với lịch sử dân tộc một cách hệ thống và hiệu quả ở trường THPT. Sử dụng di sản trong dạy học giúp cho quá trình học tập bộ môn lịch sử của học sinh ở trường phổ thông trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát huy tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Ý nghĩa, vai trò của các di sản văn hóa địa phương đối với giảng dạy lịch sử Việt Nam được thể hiện bởi những yếu tố sau [3]: Người thực hiện - Lê Quang Cần 4 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh về lịch sử dân tộc: Các di sản văn hóa, dù là vật thật hay được phục dựng lại (thể hiện qua tranh, ảnh, phim…) sử dụng trong dạy học, giáo dục đều góp phần nâng cao tính trực quan giúp học sinh mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản văn hóa. Bằng việc tiếp cận với di sản, học sinh sẽ sử dụng hệ thống tín hiệu (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ…) để được thấy, cảm nhận và qua đó tiếp thu được những kiến thức cần thiết từ di sản đến tiến trình lịch sử dân tộc. Ngoài ra, các giá trị có trong di sản còn được giáo viên khai thác bằng cách đặt các câu hỏi mang tính định hướng hoặc gợi mở cho học sinh tìm hiểu chúng qua di sản được sử dụng như là phương tiện điều khiển quá trình nhận thức của học sinh. Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh tri thức lịch sử: Di sản lịch sử địa phương là phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn luyện một số kĩ năng như quan sát, thu thập, xử lý thông tin, thảo luận nhóm; qua đó, học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu được trong quá trình tiếp cận với di sản; kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn hóa địa phương và dân tộc. Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh: Hứng thú nhận thức là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường độ và hiệu quả của quá trình học tập. Trong giai đoạn nhận thức cảm tính của học sinh, sự tri giác các đối tượng, hiện tượng là điều kiện để phát sinh cảm giác, tạo nên biểu tượng về chúng và sau đó, nhờ nhận thức lý tính hình thành nên khái niệm hoàn chỉnh về đối tượng. Trong quá trình tiếp cận với di sản theo sự hướng dẫn của giáo viên, các sự vật hiện tượng, các giá trị ẩn chứa trong di sản sẽ được học sinh tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm. Qua đó, học sinh có được động cơ học tập đúng đắn trở nên tích cực phấn đấu tiếp nhận kiến thức mới cũng như hành vi và thái độ bảo vệ di sản ở Đồng Nai tốt hơn. Phát triển trí tuệ của học sinh: Trong quá trình học tập, trí tuệ của học sinh được phát triển nhờ sự tích cực hóa các mặt hoạt động khác nhau của tư duy. Cho học sinh tiếp cận di sản ở Đồng Nai đúng mục đích, đúng lúc với những phương pháp dạy học phù hợp, với sự hướng dẫn chi tiết mang tính định hướng, kích thích tư duy, giáo viên sẽ giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, khả năng xử lý thông tin…chủ động lĩnh hội kiến thức lịch sử. Giáo dục nhân cách học sinh: Di sản văn hóa nói chung, ở Đồng Nai nói riêng là một trong những phương tiện dạy học đa dạng, sống động. Ẩn chứa trong di sản ở Đồng Nai là những giá trị lịch sử văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thề hệ này sang thế hệ khác hơn 300 năm qua nên có khả năng tác động mạnh đến tình cảm, đạo đức, việc hình thành nhân cách của học sinh. Khai thác được những giá trị ẩn chứa trong các di sản ở Đồng Nai, chuyển giao cho học sinh để các em nhận thức được những giá trị đó, giáo viên giúp hình thành ở học sinh một hệ thống các quan điểm, các khái niệm về nhận thức thế giới xung quanh, giúp học sinh nhận thức được bản chất và có cơ sở khoa học giải thích các sự vật, hiện tượng liên quan đến các di sản ở Đồng Nai đối với lịch sử dân tộc. Người thực hiện - Lê Quang Cần 5 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Góp phần phát triển một số kĩ năng ở học sinh: Kĩ năng sống được hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và xã hội. Dạy học với di sản ở Đồng Nai tạo điều kiện cho học sinh phát triển một số kĩ năng: Kĩ năng giao tiếp: Trong quá trình học tập với di sản ở địa phương Đồng Nai, học sinh được rèn luyện cách trình bày, diễn đạt suy nghĩ, cảm xúc của bản thân dưới hình thức nói, viết phù hợp với từng đối tượng…Học tập với di sản, học sinh có được môi trường giao tiếp cởi mở với bạn bè không chỉ phạm vi trong lớp, với nhiều đối tượng khác mà học sinh gặp gỡ. Kĩ năng lắng nghe tích cực: Người có kĩ năng lắng nghe tích cực thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác. Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng: Là khả năng có thể diễn đạt ý kiến, quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của bản thân, thông qua hình thức nói, viến và cả ngôn ngữ bản thân... Kĩ năng hợp tác: Là cùng chung sức làm việc, hỗ trợ lẫn nhau trong cùng một công việc. Học tập với di sản, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của nhóm học sinh... Kĩ năng tư duy phê bình: Là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng...xảy ra. Khi làm việc với di sản, học sinh không chỉ thu thập thông tin rồi mô tả các hiện tượng sự vật được các em tìm hiểu mà còn cần phải phân tích một cách có phê phán... Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm: Đó là khả năng con người tự tin, chủ động nhận nhiệm vụ phù hợp với khả năng của bản thân, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ. Việc giáo viên giao nhiệm vụ rõ ràng, học sinh tiếp nhận nhiệm vụ và trao đổi nhóm, phân công nhau và thực hiện nhiệm vụ được giao một cách có ý thức, nhiệt tình và kết quả. Kĩ năng đạt mục tiêu: Là khả năng của con người biết đề ra cho bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Trong cả quá trình tiếp cận di sản, giáo viên cùng học sinh xác định mục tiêu chung... Kĩ năng quản lí thời gian: Đó là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc chính, trọng tâm trong một thời gian nhất định. Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin: Kĩ năng này giúp học sinh có thể thu được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác và kịp thời.Trước khi làm việc với di sản, học sinh đã cùng giáo viên xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin... *Di sản văn hóa tỉnh Đồng Nai Theo Ban quản lý di tích, danh thắng tỉnh Đồng Nai, cho đến thời điểm tháng 10 năm 2010, tỉnh Đồng Nai có 40 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng quốc gia và cấp tỉnh. Di tích căn cứ Tỉnh uỷ Biên Hoà có 2 địa điểm cấu thành một ở huyện Trảng Bom và một ở huyện Long Thành. Các loại hình di tích khá phong phú như: Di tích khảo cổ, di tích lịch sử, di tích kiến trúc và di tích truyền thống đấu tranh cách mạng. Người thực hiện - Lê Quang Cần 6 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Di tích được xếp hạng cấp quốc gia có 24 di tích (xếp theo thứ tự thời gian xếp hạng), gồm: Mộ cự thạch Hàng Gòn (1982), Địa điểm chiến thắng La Ngà (1986), Nhà Xanh (1986), Đài Chiến sĩ/Đài Kỷ Niệm (1988), Danh thắng Đá chồng Định Quán (1988), Toà Hành chánh Long Khánh (1988), Đình An Hoà (1989), Danh thắng Bửu Long (1990), Chùa Đại Giác (1990), Lăng mộ Trịnh Hoài Đức (1990), Đình Tân Lân (1991), Đền thờ và Mộ Nguyễn Hữu Cảnh (1991), Chùa Long Thiền (1991), Nhà hội Bình Trước (1991), Quảng trường Sông Phố (1991), Đền thờ Nguyễn Tri Phương (1992), Nhà lao Tân Hiệp (1994), Mộ Nguyễn Đức Ứng và 26 nghĩa binh (1994), Căn cứ Khu uỷ miền Đông Nam Bộ (1997), Mộ - đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh (1998), Địa đạo Suối Linh (1999), Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (2001), Chùa Ông/Thất phủ cổ miếu (2001), Địa đạo Nhơn Trạch (2001) Di tích được xếp hạng cấp tỉnh có 16 di tích (xếp theo thứ tự thời gian xếp hạng), gồm: Bửu Hưng tự/chùa Cô hồn (1979), Toà bố Biên Hoà (1979), Địa điểm Ngã ba Giồng Sắn (2001), Đình Bình Quan (2004), Đình Phú Mỹ (2005), Nhà cổ Trần Ngọc Du (2005), Địa điểm Căn cứ Tỉnh uỷ Biên Hoà (2005), Địa điểm thành lập chi bộ Đảng cộng sản Bình Phước Tân Triều và Tỉnh uỷ Lâm thời Biên Hoà (2007), Đình Phước Lộc (2007), Thành Biên Hoà (2008), Đình Xuân Lộc – chùa Xuân Hoà (2008), Miếu Tổ sư/Thiên hậu cổ miếu (2008), Đình Hưng Lộc (2008), Đình Phước Thiền (2009), Núi Chứa Chan (2009), Vườn Cao su đầu tiên, sân điểm đồn điền cao su Dầu Giây (2009) [4]. Di tích phân bố trên các địa bàn hành chánh như sau: Biên Hoà có 21 di tích, gồm: Bửu Hưng tự/chùa Cô hồn (phường Quang Vinh), Toà bố Biên Hoà, Nhà hội Bình Trước, Quảng trường Sông Phố (phường Thanh Bình), Nhà Xanh (phường Thống Nhất), Đài Chiến sĩ, Lăng mộ Trịnh Hoài Đức (phường Trung Dũng), Danh thắng Bửu Long, Miếu Tổ sư/Thiên hậu cổ miếu (phường Bửu Long), Chùa Đại Giác, Đền thờ - mộ Nguyễn Hữu Cảnh, Chùa Ông/Thất phủ cổ miếu, Đình Bình Quan (xã Hiệp Hoà), đình Tân Lân (phường Hoà Bình), Chùa Long Thiền, Đền thờ Nguyễn Tri Phương (phường Bửu Hoà), Nhà lao Tân Hiệp (phường Tân Tiến), Mộ - đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh (phường Long Bình và phường Tam Hiệp), Nhà cổ Trần Ngọc Du (phường Tân Vạn), Thành Biên Hoà (phường Quang Vinh), Đình An Hoà (xã An Hoà) Thị xã Long Khánh có 03 di tích, gồm: Mộ Cự thách Hàng Gòn (xã Hàng Gòn), Toà hành chánh Long Khánh, Đình Xuân Lộc – chùa Xuân Hoà (phường Xuân An). Huyện Định Quán có 02 di tích: Địa điểm chiến thắng La Ngà (xã Phú Ngọc), Danh thắng Đá chồng (thị trấn Định Quán). Huyện Long Thành có 03 di tích, gồm: Mộ Nguyễn Đức Ứng và 26 nghĩa binh (xã Long Phước), Đình Phước Lộc (thị trấn Long Thành), Căn cứ Tỉnh uỷ Biên Hoà (xã Bình Sơn). Huyện Vĩnh Cửu có 04 di tích, gồm: Căn cứ khu uỷ miền Đông Nam Bộ, Địa đạo Suối Linh (xã Hiếu Liêm), Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (xã Phú Lý), Địa điểm thành lập chi bộ Bình Phước – Tân Triều và Tình uỷ lâm thời Biên Hoà (xã Tân Bình). Huyện Nhơn Trạch có 04 di tích, gồm: Địa điểm Ngã ba Giồng Sắn (xã Phú Đông), Địa đạo Nhơn Trạch (xã Long Thọ), Đình Phú Mỹ (xã Phú Hội), Đình Phước Thiền (xã Phước Thiền). Người thực hiện - Lê Quang Cần 7 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Huyện Thống Nhất có 02 di tích, gồm: Đình Hưng Lộc (xã Hưng Lộc), Vườn cao su đầu tiên, sân điểm đồn điền cao su Dầu Giây (xã Bàu Hàm 2). Huyện Xuân Lộc có 01 di tích, gồm: Núi Chứa Chan trên địa bàn các xã Xuân Trường, Xuân Thọ, Suối Cát, Xuân Hiệp và thị trấn Gia Ray. Huyện Trảng Bom có 01 di tích, gồm: Căn cứ tỉnh uỷ Biên Hoà (xã Thanh Bình). Bên cạnh các di sản đã được công nhận cấp quốc gia, cấp tỉnh, giáo viên có thể liên hệ bảo tàng Đồng Nai, sử dụng các di sản được trưng bày, lưu giữ nhằm phục vụ giảng dạy di sản cho chương trình Lịch sử Việt Nam THPT. III.TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 1. Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy học môn Lịch sử lớp 10 THPT 1.1.Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy (SGK trang 70) Để dạy lồng ghép di sản ở Đồng Nai trong bài này, giáo viên cần thực hiện nội dung hướng dẫn giảm tải phần 3.Sự ra đời của thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước. Đồng thời, nhằm tranh thủ thêm nhiều thời gian cho dạy lồng ghép di sản, giáo viên in phần nội dung theo chuẩn kiến thức kĩ năng cho học sinh chuẩn bị trước. Nếu học sinh tại các trường THPT ở tỉnh Đồng Nai, có điều kiện cho các em tham quan bảo tàng Đồng Nai, ngược lại giáo viên giảng dạy có thể dùng máy ảnh đến bảo tàng chụp hình hoặc lấy hình ảnh từ trang web của bảo tàng về hình ảnh di sản cần sử dụng. Tại mục 1.Những dấu tích người tối cổ ở Việt Nam. Ngoài nội dung theo chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên giới thiệu di sản về bộ đàn đá Bình Đa – Phường Bình Đa – TP. Biên Hòa. Đàn đá – Bình Đa [5] Giáo viên giới thiệu, mô tả bộ đàn đá Bình Đa: Bộ sưu tập đàn đá Bình Đa gồm 5 thanh nguyên và 31 mảnh, đoạn bị gãy, vỡ được phát hiện và khai quật lần 1 năm 1979, Người thực hiện - Lê Quang Cần 8 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT lần thứ 2 năm 1993 tại di chỉ khảo cổ học Bình Đa (TP. Biên Hòa). Đàn đá Bình Đa có niên đại cách ngày nay khoảng 3.000 năm. Theo đó, truyền thống chế tạo và sử dụng đồ đá trong cộng đồng dân cư tại Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung đã có từ rất sớm trước 3.000 năm cách ngày nay. Giáo viên chốt ý: Như vậy, dựa trên di sản đàn đá Bình Đa, con người đã cư trú từ rất sớm trên địa bàn Đồng Nai. Đàn đá Bình Đa là một sản phẩm văn hóa tiêu biểu và độc đáo của cư dân cổ trên đất Đồng Nai cùng đồng hành với lịch sử dân tộc. 1.2. Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam (SGK trang 74) Đây là bài dài, lượng kiến thức cần truyền đạt cho học sinh lớn nên giáo viên thực dạy lồng ghép di sản ở Đồng Nai vào bài dạy cần có kế hoạch cụ thể. Trước hết, giáo viên cung cấp phần kiến theo chuẩn kiến thức kĩ năng cho học sinh trước nhằm tranh thủ thời gian dạy lồng ghép di sản địa phương. Thứ hai, xác định nội dung di sản cần lồng ghép dạy trong bài này. Nội dung cần dạy lồng ghép di sản Mộ cự thạch Hàng Gòn vào mục 3. Quốc gia cổ Phù Nam. Mộ cự thạch Hàng Gòn – xã Hàng Gòn – Long Khành – Đồng Nai Di tích đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia 12/1982 Người thực hiện - Lê Quang Cần 9 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh di tích qua PowerPoint hoặc cho học sinh tham quan di sản nếu có điều kiện. Giáo viên nghiên cứu tài liệu hoặc giao nhiệm vụ cho học sinh trước và mô tả như sau: Di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn, còn được gọi là Mộ Ông Đá, nằm ở ấp Hàng Gòn. Mộ do kĩ sư J. Bouchot phát hiện vào năm 1927 trong lúc đào ủi để thi công tuyến đường từ Long Khánh đi Bà Rịa – Vũng Tàu. Năm 1928, di tích này đã được xếp hạng và ghi vào danh mục các di tích lịch sử với tên “Mộ Đông Dương - Mộ Dolmen Hàng Gòn” [6]. Đây là một dạng hầm mộ, hình chữ nhật dài 4,2m, ngang 2,7 mét, cao 1,6 mét được ghép bởi sáu tấm đá hoa cương được bào khá nhẵn ở mặt ngoài; 4 tấm đá thẳng đứng dùng làm vách, nặng khoảng 30 - 40 tấn, hai tấm nằm ngang dùng làm mặt đáy và nắp đậy. Liên kết giữa tấm đá hoa cương nhờ vào hệ thống rãnh dọc chắc chắn. Xung quanh mộ có nhiều trụ đá hoa cương cao 7,5 mét, tiết diện mặt cắt ngang hình chữ nhật dài 1,10m X 0,3m, phần lớn các đầu trụ được khoét lõm hình yên ngựa. Tại khu vực mộ, có dấu vết của những vệt đất cháy kéo dài thành hình vòng cung, phía trên có rất nhiều than tro và xỉ kim loại; các mảnh đồ gốm trên thân có hoa văn làm từ chất liệu đất sét pha cát và vỏ nhuyễn thể nghiền nhỏ; phát hiện hai chiếc tù bằng đồng và hai chiếc bàn mài bằng đá có lỗ đeo. Ngoài ra, có nhiều hiện vật bằng gốm, bằng đá, các dụng cụ bàn mài, các cột đá và những vết đất cháy, than tro. Trong xưởng chế tác đá đã tìm thấy trước đó, đoàn khảo sát cũng đã tìm thấy những tấm đá, cột đá, nhiều phế vật mảnh tước đá và nhiều công cụ lao động. Niên đại của di tích được xác định trong khoảng thời gian 150 trước Công nguyên đến 240 năm sau Công nguyên [7]. Sau khi giáo viên hoặc học sinh mô tả, giáo viên chốt nội dung: Mộ cổ Hàng Gòn là công trình mộ táng đã được người xưa nghiên cứu xây dựng rất tinh xảo, tỉ mĩ, nghệ thuật và thể hiện sự phân hóa giai cấp trong xã hội lúc bấy giờ. Qua mộ cổ này, chứng tỏ phần cuối cùng phía đông bắc của vương quốc cổ Phù Nam (tỉnh Đồng Nai ngày nay) điều kiện kinh tế - xã hội đã phát triển. Đồng thời, giúp học sinh tự hào về trình độ kĩ thuật chế tác đá, lao động của người xưa trên đất Đồng Nai và trân trọng, gìn giữ di sản văn hóa dân tộc. 1.3 Bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI-XVIII (SGK trang 121) Kiến thức bài này cần truyền đạt đến học sinh với khối lượng khá lớn nên giáo viên sử dụng di sản Đồng Nai phục vụ cho bài giảng góp phần tạo hứng thu học tập và bớt nhàm chán cho học sinh. Để thực hiện điều này, giáo viên cung cấp nội dung chuẩn kiến thức kĩ năng cho học sinh trước nhằm sử dụng thời gian dôi dư để dạy lồng ghép di sản. Giáo viên sử dụng thời gian khoản 12 phút cho dạy lồng ghép di sản ở Đồng Nai nên phải lựa chọn những di sản ở địa phương tiêu biểu nhất và phù hợp với tiến trình lịch sử của dân tộc. Về di sản Chùa Ông được sử dạy nội dung I. Về tư tưởng, tôn giáo. Nội dung di sản này giáo viên chỉ sử dụng thời gian trong 6 phút. Để thực hiện điều này, giáo viên hoặc người dạy giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu di sản Chùa Ông và trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau như tham quan di tích nếu có điều kiện, chụp ảnh để thuyết trình, trình chiếu PowerPoint…với những khái quát: Chùa Ông còn được gọi là Thất Phủ cổ miếu, một ngôi chùa được xem là xưa nhất ở Nam bộ. Chùa tọa lạc tại xã Hiệp Hòa, TP Người thực hiện - Lê Quang Cần 10 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Thất Phủ cổ miếu được gọi là chùa Ông vì vị thần được thờ chính ở đây là Quan Công – vị thần tượng trưng cho trung, hiếu, tiết, nghĩa… Chùa Ông ở đây còn có tên nữa là Miếu Quan Thánh Đế. Chùa được dựng vào năm 1684, gắn liền với quá trình khai hoang mở cõi vùng đất Biên Hòa. Sau đó, do chiến tranh tàn phá, ngôi chùa gần như bị hư hại hoàn toàn. Đồng bào người Hoa ở đây trùng tu lại ngôi chùa này vào các năm 1817, 1868 và 1894. Hằng năm, chùa có rất nhiều ngày lễ lớn như: vía Ông, vía Bà, lễ Vu Lan… trong những lần lễ, vía đó, chùa thu hút rất nhiều khách thập phương đến chiêm ngưỡng và cúng bái. Có thể nói, chùa Ông ở Biên Hòa, Đồng Nai là một công trình kiến trúc xưa độc đáo thể hiện văn hóa người Hoa ở Nam bộ. Ngoài giá trị văn hóa, tín ngưỡng, còn có giá trị về mặt lịch sử: đây là một ngôi chùa gắn liền với sự định cư đầu tiên của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ vào giữa thế kỷ XVII [8]. Chùa Ông tọa lạc tại xã Hiệp Hòa – TP. Biên Hòa – tỉnh Đồng Nai được Bộ Văn hóaThông tin xếp hạng di tích kiến trúc cấp quốc gia năm 2001. Giáo viên chốt ý: Chùa Ông là công trình kiến trúc độc đáo của người Hoa phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, văn hóa cho cư dân Hoa – Việt vùng đất Cù Lao Phố – Biên Hòa. Chùa ra đời cùng với quá trình khai hoang mở cõi của lưu dân Việt – Hoa vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Trải qua bao thiên biến của lịch sử, ngày nay chùa Ông tiếp tục phục vụ nhu cầu tín ngưỡng cho nhân địa phương và khách thập phương với lễ hội chùa Ông vào trung tuần tháng giêng hàng năm. Qua đây, chúng ta sinh thấy được sự đa dạng về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử và đất nước từ Bắc chí Nam. Từ đó, trân trọng những thành quả lao động sáng tạo của các bậc tiền nhân mở cõi vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai hơn 300 năm qua. Về di sản Văn miếu Trấn Biên được sử dụng lồng ghép dạy nội dung 1.Giáo dục của mục II. Phát triển giáo dục và văn học (SGK trang 122) và mục III. Nghệ thuật và khoa học kỹ thuật (SGK trang 123). Nội dung di sản này, giáo viên thực hiện giảng dạy Người thực hiện - Lê Quang Cần 11 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT trong thời gian 6 phút. Giáo viên có thể cho học sinh tham quan di tích nếu có điều kiện hoặc sưu tầm tư liệu hình ảnh, nội dung và sử dụng PowerPoint để giới thiệu đến học sinh. Văn Miếu Trấn Biên – Phường Bửu Long – TP. Biên Hòa Giáo viên hoặc học sinh khái lược cho cả lớp hoặc đoàn tham quan: Lịch sử vùng đất Đồng Nai từ thế kỷ XVI là vùng đất hoang sơ. Đến năm 1698, chưởng cơ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược xứ Nam Bộ, lúc này kinh tế Đồng Nai phát triển khá trù phú, nên văn hóa học hiệu càng được chú trọng hơn. Vì thế, năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu sai người xây dựng Văn miếu Trấn Biên tại thôn Tân Lại, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh (nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa). Trước năm 1802, hằng năm, đích thân chúa Nguyễn Phúc Ánh (vua Gia Long) đến Văn miếu Trấn Biên để hành lễ hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Văn miếu Trấn Biên có hai lần được trùng tu lớn: Lần trùng tu thứ nhất vào năm (1794). Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (1852). Vào năm 1861, khi thực dân Pháp xâm lược miền Đông Nam Kì đánh chiếm Biên Hòa cho tàn phá văn miếu Trấn Biên nhằm thực hiện chính sách ngu dân và thống trị lâu dài. Vào năm 1998, tỉnhĐồng Nai đã khởi công xây dựng lại trên nền đất cũ [9]. Giáo viên chốt ý: Văn Miếu Trấn Biên ra đời được xem như là “Văn Miếu Quốc Tử Giám” của Nam Bộ. Ðây chính là biểu trưng cho truyền thống học tập, hào khí và văn hóa của người Việt phương Nam. Văn Miếu là nơi thờ phụng các danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước và là biểu trưng của nền văn hóa dân tộc. Với chức năng là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa - giáo dục của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, Người thực hiện - Lê Quang Cần 12 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Trung tâm Văn Miếu Trấn Biên ngày càng thể hiện vai trò là trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Đồng Nai nói riêng và vùng đất phía Nam nói chung thông qua rất nhiều hoạt động, sự kiện được tổ chức hàng năm. Không chỉ chứa đựng những giá trị về văn hóa, lịch sử, Văn Miếu Trấn Biên còn là một công trình đặc sắc về nghệ thuật, kiến trúc với phong cảnh thoáng mát, vừa cổ kính vừa trang nhã nên thu hút động đảo nhiều tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các Bộ, ngành, các đoàn ngoại giao và các đoàn khách quốc tế ghé thăm. Hàng năm, Văn Miếu Trấn Biên đã đón tiếp gần 200,000 lượt khách [10]. Với vị thế và tầm quan trọng nhất định trong sinh hoạt văn hóa của tỉnh Đồng Nai, Văn Miếu Trấn Biên đang nỗ l.ực không ngừng để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa ở Đồng Nai. Qua đây, các thế người Đồng Nai sinh ra, định cư, lớn lên tự hào về truyền thống lao động sáng tạo của các thế hệ cha ông suốt 300 năm qua và phấn đấu học tập tốt hơn nữa xứng đáng với niềm tự hào đó. 2. Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy học môn Lịch sử lớp 11 THPT 2.1 .Bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lượt (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) (SGK trang 106) Nội dung dạy di sản ở Đồng Nai trong bài này: Thành Biên Hoà (Thành Kèn). Nội dung di sản này dạy vào mục 2. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5/6/1862 thuộc phần II. Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì từ năm 1859 đến năm 1862. Nội dung bài này thực hiện giảm tải theo phân phối chương trình, giáo viên tranh thủ thời gian dôi dư dạy lồng ghép di sản trong thời 5-7 phút. Thành Biên Hoà (Thành Kèn) xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2008 Người thực hiện - Lê Quang Cần 13 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Giáo viên hoặc học sinh được giao nhiệm vụ tìm tư liệu về Thành Biên Hoà khái quát như sau: Theo thư tịch cổ, từ thế kỉ 14-15, thành do người Lạp Man (Chân Lạp) xây đắp bằng đất với tên gọi thành cựu. Thời nhà Nguyễn, thành được xây dựng lại trên nền cũ, mở rộng hơn gọi thành Biên Hòa. Chu vi thành dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng. Hào xung quanh rộng 4 trượng, sâu 6 thước. Thành có 4 cửa và 1 kỳ đài. Năm 1837, thành được xây dựng lại bằng đá ong và đổi tên thành Biên Hòa. Ngày 17/02/1859 Pháp chiếm thành Sài Gòn. Ngày 24/02/1861, thành Kỳ Hoà (Chí Hoà) bị thất thủ, Pháp chuẩn bị tấn công các vùng phụ cận trong đó có Biên Hòa. Thành Biên Hoà là trung tâm kháng chiến chống Pháp, từ trước do Tôn Thất Hợp điều khiển. Lúc này người dân Biên Hòa đã xây đắt những hộc đá và dị vật xuống đáy sông Đồng Nai nhằm ngăn chặn tiến quân của hải quân Pháp. Sáng 16/12/1861 nước lớn, chiến hạm Pháp lần sát vào bờ sông Thành Biên Hòa. Thành Biên Hòa bị công hãm quá ồ ạt nên bị thất thủ. Ngày 17/12/1861, Pháp tràn vào chiếm đóng thành của ta. Thành Biên Hoà thất thủ, lòng dân ly tán. Các gia đình đùm đề khăn gói dắt vợ, cõng con lánh nạn trong hoàn cảnh loạn lạc: “Bến Nghé: bạc tiền tan bọt nước, Đồng Nai: tranh ngói nhuốm màu mây !”. Sự mất Thành Biên Hòa chỉ là tạm thời nhưng nó chứa đựng một tinh thần chống Pháp, một tiềm năng quật khởi, một sức mạnh ngấm ngầm để vùng dậy, đứng lên khi có thời cơ của người dân Biên Hòa. Giáo viên chốt nội dung dạy di sản: Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Thành Biên Hòa đã cùng nhân dân Biên Hòa chia ngọt sẻ bùi trong sự phát triển. Trong những ngày tháng 12/1861, nhân dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ kháng chiến chống Pháp xâm lượt, Thành Biên Hòa đã góp phần giữ chân địch trong việc đánh chiếm tỉnh Biên Hòa, tạo điều kiện cho nghĩa quân, nhân dân di tản ra các vùng kháng chiến nhằm tiến hành cuộc cách mạng trường kỳ chống Pháp đến ngày thắng lợi. Qua đây, học sinh trân trọng những thành quả lao động của các thế hệ cha ông với kiến trúc Thành Biên Hòa tràn đầy giá trị lịch sử và vai trò của nó trong kháng chiến chống ngoại xâm của nười dân Biên Hòa – Đồng Nai. 2.2. Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (19141918) (SGK trang 146) Nội dung giảm tải mục II. Phong trào đấu tranh vũ trang trong chiến tranh. Theo phân phối chương trình, mỗi địa phương lựa chọn 2 trong 5 phong trào đấu tranh vũ trang trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Giáo viên sử dụng thời gian dôi dư từ phần nội dung giảm tải, dạy di sản ở Đồng Nai vào bài học nhằm giúp học sinh tìm hiểu lịch sử văn hóa địa phương đáp ứng yêu đổi mới phương pháp dạy học. Nội dung chọn dạy lồng ghép di sản 5.Phong trào hội kín ở Nam Kì thuộc mục II. Phong trào đấu tranh vũ trang trong chiến tranh (SGK trang 149). Di sản lịch sử dạy trong nội dung này là Mộ - đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh (1998). Để có nhiều thời gian cho việc dạy di sản này trong bài, giáo viên cung cấp chuẩn kiến thức kĩ năng cho học sinh trước nhằm đảm bảo theo yêu cầu tiết học. Giáo viên hoặc phân công học sinh tìm hiểu tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật bằng nhiều hình thức khác nhau. Người thực hiện - Lê Quang Cần 14 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Mộ - đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh toạ lạc tại phường Tam Hiệp - TP. Biên Hoà 0được xếp hạng cấp quốc gia năm 1998. Giáo viên hoặc học sinh được giao nhiệm vụ sưu tầm tư liệu khái quát nhân vật Đoàn Văn Cự: Đoàn Văn Cự (1835-1905) [11], là một thủ lĩnh kháng Pháp tại Biên Hoà Đồng Nai. Hoạt động của ông bị Pháp nhanh chóng dập tắt, nhưng đã có ảnh hưởng sâu rộng ở vùng miền Đông Nam Bộ trong những thập niên đầu thế kỉ XX. Đoàn Văn Cự sinh năm Ất Mùi (1835) tại làng Bình An, huyện Bình An, tỉnh Biên Hoà (nay là quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh). Cha ông là một nhà nho yêu nước, có tinh thần chống Pháp, bị đối phương theo dõi, ông phải rời bỏ Thủ Đức để tha hương. Nối chí cha, Đoàn Văn Cự đến cư ngụ tại một nơi hẻo lánh ở ấp Vĩnh Cửu thuộc xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Biên Hòa xưa (nay thuộc phường Tam Hiệp,thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai) sống bằng nghề dạy học và hốt thuốc nam, nên được gọi là ông thầy Cự. Nhờ vậy, ông che tai mắtthực dân Pháp được một thời gian, để có thể bí mật tuyên truyền và chiêu tập những người dân có cùng chí hướng. Được tin tưởng, đông đảo người dân ở các vùng Chợ Đồn, Chợ Chiếu, Bình Đa, Lù Lao Phố, Núi Nứa (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu)...đã tình nguyện đi theo và ủng hộ ông. Để chuẩn bị cho đại cuộc đánh Pháp, ông Cự chọn vùng Bưng Kiệu (thuộc xã Tam Hiệp) làm căn cứ, tổ chức lực lượng theo theo lối Thiên Địa hội (còn gọi là Hội kín), đồng thời cho tích lũy lương thực, mua sắm khí giới, lập lò rèn vũ khí, luyện tập nghĩa quân...Mọi việc còn đang trong giai đoạn chuẩn bị, thực dân Pháp phát hiện. Sáng ngày 12 tháng 4 năm 1905, một số lính mã tà (cảnh sát thời Pháp) do một viên quan ba (đại úy) chỉ huy kéo vào căn cứ Bưng Kiệu. Thừa lúc nghĩa quân canh phòng sơ ý, quân Pháp liền xông thẳng vào ngôi nhà Đoàn Văn Cự đang ở. Trước bàn thờ Tổ, Đoàn Văn Cự trong bộ trang Người thực hiện - Lê Quang Cần 15 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT phục uy nghi, vừa thấy viên quan ba dẫn lính vào liền vung đoản đao chém thẳng. Viên quan ba bị thương nhưng kịp rút súng bắn chết ông. Sau khi giết được thủ lĩnh Đoàn Văn Cự, viên quan ba cho lính đốt phá căn cứ, bắn giết và truy đuổi nghĩa quân cho đến ngày hôm sau. Kết cuộc, ngoài Đoàn Văn Cự, còn có thêm 16 nghĩa quân bị hy sinh tại trận. Sau đó, quân Pháp bắt dân làng chôn Đoàn Văn Cự cùng với 16 nghĩa quân vào một hố lớn. Ngôi mộ chung chôn thủ lĩnh Đoàn Văn Cự cùng 16 nghĩa quân, tọa lạc trên khu đất cạnh dòng suối Linh Tuyền (gọi là suối Linh), thuộc phường Long Bình, cách trung tâm thành phố Biên Hoà khoảng 8km. Ban đầu, chỉ là một ngôi mộ đơn sơ. Năm 1956, được nhân dân địa phương xây đắp lại nhưng quy mô nhỏ. Trước năm 1975, vì ngôi mộ nằm trong căn cứ quân sự Long Bình, nên người dân không thể đến sửa sang hay thăm viếng, mãi đến 1990 ngôi mộ mới được xây dựng bề thế như hiện nay. Ngôi mộ hiện có hình chữ nhật dài 16,5m, rộng 2m, cao 0,75m. Phía sau ngôi mộ là một ngôi miếu nhỏ thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh. Khu mộ được bảo vệ bởi hai vòng rào bằng gạch, có cổng ra vào. Ngôi đình cũng được xây dựng từ năm 1956, cách phần mộ khoảng 1km về hướng Đông Bắc. Đền tọa lạc trên khu đất bằng phẳng, rộng gần 3000m2, thuộc phường Tam Hiệp (TP. Biên Hoà) trên đường Phạm Văn Thuận. Ngày 8 tháng 4 (âm lịch) hàng năm, nhân dân địa phương đều làm lễ tế trang trọng để tưởng nhớ thủ lĩnh Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa quân. Giáo viên chốt ý: Trong phong trào Hội kín ở Nam Kì kháng Pháp, tại tỉnh Biên Hoà Đoàn Văn Cự cùng các nghĩa binh của mình đã mưu sự nghiệp cứu nước chống Pháp và đã hi sinh anh dũng. Mặc dù sự nghiệp của ông bị thất bại nhưng đã để lại tinh thần yêu nước nồng nàn, khát khao độc lập, tự do cho các thế hệ tiếp bước gương ông đấu tranh đòi hoà bình cho tổ quốc. Qua bài học di sản này, giúp học sinh hiểu được giá trị nền độc lập tự do trên quê hương Biên Hoà - Đồng Nai thấm đẫm máu và nước mắt của bao thế hệ đi trước đã ngã xuống. Các thế hệ học sinh hôm nay phải phấn đấu học tập, lao động tốt hơn nữa để xứng đáng sự hi sinh của các thế hệ cha anh. 3. Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy học môn Lịch sử lớp 12 THPT 3.1 Bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930 Nội dung kiến thức bài này được phân bố trong 3 tiết nên việc sử dụng di sản trong giảng dạy khá thuận lợi đặc biệt là di sản địa phương. Nội dung cần lồng ghép di sản ở Đồng Nai trong 2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của mục II. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Di sản phục vụ cho giảng dạy nội dung này: Địa điểm di tích thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Biên Hoà. Người thực hiện - Lê Quang Cần 16 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Di tích lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ Cộng sản Bình Phước – Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2001 Để sử dụng di sản này dạy lồng ghép lịch sử thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo viên sư tầm tư liệu hoặc giao nhiệm vụ cho học thực hiện. Biện pháp thực hiện: Giáo viên hoặc học sinh dùng hình ảnh thuyết trình và sử dụng câu hỏi gợi mở nhằm tạo cho học sinh cả lớp chú ý, tập trung suy nghĩ. Trước hết giáo viên hoặc học sinh thực hiện khái quát: Địa điểm thành lập Chi bộ Bình Phước – Tân triều [12]– Chi bộ đầu tiên của tỉnh Biên Hòa tọa lạc tại ấp Tân Triều, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Chi bộ thành lập tháng 2 năm 1935, tại nhà đồng chí Huỳnh Văn Ngọc do đồng chí Hoàng Minh Châu – Bí thư, Huỳnh Văn Phan – Phó Bí thư cùng nhiều đảng viên khác. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cũng cố và kiện toàn bộ máy lãnh đạo, tháng 2/1937 tại nhà đồng chí Huỳnh Văn Ngọc, tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập do đồng chí Trương Văn Bang – Bí thư cùng nhiều đồng chí tỉnh ủy viên như Huỳnh Xuân Phan, Trần Văn Triết, Lê Văn Tôn…Từ hạt nhân Chi bộ Bình Phước – Tân Triều và tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đã chỉ đạo thành lập nhiều chi bộ cho toàn tỉnh Biên Hòa từng bước chuẩn bị mọi mặt chờ thời cơ giành chính quyền năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau khi giáo viên hoặc học sinh giới thiệu khái quát di tích địa điểm Chi bộ Bình Phước – Tân Triều và tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đặt câu hỏi: Tháng 2/1935 Chi bộ Đảng ra đời đầu tiên tại Bình Phước – Tân triều và tháng 2/1937, tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa thành lập tại Bình Phước – Tân Triều nói lên điều gì? Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh trả lời và người dạy chốt ý và trả lời câu hỏi: Sự ra đời của Chi bộ cộng sản Bình Phước – Tân Triều và tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng, một bước phát triển mới của phong trào cách mạng ở tỉnh Biên Hòa. Nhiều đảng viên được kết nạp, nhiều Chi bộ Cộng sản được thành lập. Người thực hiện - Lê Quang Cần 17 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT Đảng viên, quần chúng nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng đã đấu tranh quyết liệt với nhiều kẻ thù, giành thắng lợi to lớn trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám 1945 tại tỉnh Biên Hòa. Quá đó, học sinh hôm nay trân trọng những hi sinh gian khó, tự hào những thắng lợi vẽ vang của các thế hệ cách mạng cha anh. Học sinh ngay nay cần cố gắng học tập tốt hơn nữa để xây dựng quê hương Biên Hòa – Đồng Nai giàu đẹp hơn nữa. 3.2. Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. (SGK trang 102) Bài này dạy theo phân phối chương trình 4 tiết, giáo viên có điều kiện linh động về thời gian để sử dụng di sản ở Đồng Nai lồng ghép trong bài giảng nhằm giúp học sinh hiểu được hào khí cách mạng trong cả nước và tại tỉnh Biên Hòa tháng Tám năm 1945. Tùy vào điều kiện của nhà trường, giáo viên có thể cho học sinh tham quan di tích hoặc thông qua hình ảnh trực quan, thuyết trình dưới hình thức thực địa hay tại lớp học. Quảng trường Sông Phố hiện nay Quảng trường sông phố xưa được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2001 Giáo viên hoặc giao nhiệm vụ cho học sinh nghiên cứu tư liệu về di tích Quảng trường sông phố và khái quát cả lớp hoặc nhiều lớp biết: Quảng trường Sông Phố tọa lạc tại phường Thanh Bình – TP. Biên Hòa. Sau khi chiếm tỉnh Biên Hòa, vào đầu thế kỉ XX Pháp tiến hành xây dựng nhiều công sở. Quảng trường Sông Phố được xây dựng cùng với kiến trúc Tòa Bố Biên Hòa, Dinh tỉnh trưởng tạo nên khung cảnh hài hòa giữa lòng thành phố Biên Hòa. Trước đây, tại Quảng trường Sông Phố, một hồ nước được xây dựng kiên cố nhưng hài hoà với cảnh quang nhộn nhịp của giao thông. Một cái hồ được xây dựng giữa Quảng trường, trong hồ có bệ đài phun nước, những con cá trong thế rồng dựng deáng vờn nước trông rất đẹp qua nhiều tia nước phun lên đẹp mắt vào lúc sớm mai và chiều hôm. Trong những ngày sôi sục cách mạng tháng Tám năm 1945, Quảng trường Sông Phố đã đi vào lịch sử tỉnh Biên Hoà dưới sự lãnh đạo của Đảng, hàng vạn quần chúng nổi Người thực hiện - Lê Quang Cần 18 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Tại nội ô thành phố Biên Hoà, trước làn sóng cách mạng dâng cao, bộ máy chính quyền thuộc địa hầu như bị tê liệt; các lực lượng cách mạng, yêu nước được tập hợp như Thanh niên tiền phong, tự vệ chiến đấu. Ngày 26/8/1945, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa tập trung hàng trăm quần chúng tiến vào Toà Bố Biên Hoà treo cờ đỏ sao vàng. Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh Biên Hoà buộc chính quyền thuộc địa bàn giao chính quyền cho cách mạng, báo hiệu một thời kỳ mới của độc lập, tự do. Ngày 27/8/1945, nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể chào mừng chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của tỉnh Biên Hoà. Hàng nghìn người từ các địa phương tỉnh Biên Hoà tập trung về Quảng trường Sông Phố tham gia mít tinh mừng đất nước độc lập [13]. Giáo viên chốt ý: Mặc dù Quảng trường Sông Phố nay không còn diện tích như xưa nhưng nó đã chứng kiến những thời khắc lịch sử sôi động, hào khí cách mạng quật khởi của nhân tỉnh Biên Hoà trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Qua học tập di sản này, giúp học sinh trân trọng những thành quả cách mạng của lớp lớp cha anh đã hi sinh biết bao xương máu giành độc lập tự do cho quê hương Biên Hoà - Đồng Nai tươi đẹp hôm nay. 3.3. Bài 17: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ sau ngày 2/9/145 đến trước ngày 19/12/1946 (SGK trang 121) Bài này với nội dung kiến thức nhiều được phân chia 2 tiết. Để dạy lồng ghép di sản ở Đồng Nai trong bài này đòi hỏi giáo viên giảng dạy đầu tư nhiều thời gian và công sức. Nội dung di sản Căn cứ Khu uỷ miền Đông Nam Bộ (Chiến khu D) được sử dụng dạy trong mục 1.Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ của phần I. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Để có thời gian dạy di sản trong bài này khoảng 7-10 phút, giáo viên phải cung cấp nội dung chuẩn kiến thức kĩ năng cho học sinh nhằm đảm bảo yêu cầu của bài học. Di tích này ở khá xa so với trường học nên việc tham quan thực sự rất khó khăn. Vì thế, việc sử dụng tranh ảnh trực quan, phim tư liệu để dạy di sản này là biện pháp tối ưu, dễ thực hiện. Giáo viên hoặc giao nhiệm vụ cho học sinh sưu tầm tư liệu về di tích Căn cứ Khu uỷ miền Đông Nam Bộ (Chiến khu D). Giáo viên hoặc học sinh khái quát di tích này: Danh từ “Chiến Khu Đ” chỉ vùng căn ra đời vào cuối tháng 2/1946. Khi thực dân Pháp chiếm đóng được quận lỵ Tân Uyên, thành lập chi khu. Tổng hành dinh Khu 7 và lực lượng vũ trang Biên Hòa, Thủ Dầu Một rút sâu vào rừng. Công tác xây dựng căn cứ được đặt ra một cách cấp thiết tại Hội nghị bất thường của khu bộ khu 7 ở Lạc An. Được hội nghị chấp thuận, việc xây dựng căn cứ được triển khai có hệ thống, các cơ quan, đơn vị, công xưởng… phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực đều có nhiều phương án di chuyển địa điểm tránh sự đột kích của quân Pháp và mang mật danh A, B, C, D (A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu bộ đội thường trực đóng ở Ông Đội, D là khu Tổng hành dinh khu 7 đóng ở hố Ngãi Hoang).Từ đấy, chiến khu Đ trở thành căn cứ địa của chiến khu 7 – một tổ chức hành chính – quân sự của các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn, do Trung tướng Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng và Trần Xuân Độ làm chính trị ủy viên khu. Ban đầu, Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí Người thực hiện - Lê Quang Cần 19 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015 Sử dụng di sản ở Đồng Nai trong dạy môn Lịch sử trường THPT căn cứ của khu. Dần dần về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả vùng chiến khu rộng lớn ngày càng phát triển ở miền Đông Nam Bộ [14]. Di tích căn cứ Kkhu uỷ miền Đông (Chiến khu Đ) xếp hạng cấp quốc gia năm 1997 Giáo viên kết luận: Ngay khi Pháp tái xâm lượt Nam Bộ (23/9/1945), chiến khu Đ thành lập trở căn cứ địa cách mạng quan trọng bậc nhất miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chống Pháp tái xâm lượt (1945-1954) và chống Mĩ (1954-1975). Chiến khu Đ đã oằn mình trong mưa bom bảo đạn để che chở cho hàng vạn chiến sĩ và đồng bào yêu nước sẵn sàng tiến lên đánh đuỗi kẻ, giành độc lập dân tộc. Về phương diện chính trị, tinh thần, Chiến khu Đ tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân, là nguồn hy vọng, là niềm tin của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn miền Đông Nam Bộ nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng. Người thực hiện - Lê Quang Cần 20 Trường THPT Nam Hà - Năm 2015
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan