Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn sáng kiến kinh nghiệm vài biện pháp khắc phục học sinh yếu toán 3...

Tài liệu Skkn sáng kiến kinh nghiệm vài biện pháp khắc phục học sinh yếu toán 3

.PDF
26
54
118

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU: I. BỐI CẢNH: Hiện nay đất nước ta đang trong sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc, với mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ năm 2001-2020 theo Nghị Quyết TW2( khóa VIII) đã khẳng định: “Đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản đã trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa”. Để tiến hành sự nghiệp đổi mới đó thì chúng ta phải hết sức coi trọng con người. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế xã hội, xây dựng đất nước. Muốn vậy phải phát triển giáo dục “Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu” mà “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người”. Như vậy con người được đặt ở trung tâm chiến lược, trong đó lớp thiếu niên, nhi đồng hôm nay sẽ là những công dân, những người làm chủ tương lai đất nước sau này. II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết, bậc Tiểu học là một cấp học nền tảng, là tiền đề, cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người. Là nền 2010 Trang:1 2011 tảng của và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển của kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ những năm đầu thế kỉ XXI. Chương trình giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và trên thế ngày càng quan tâm đúng mức đến mục tiêu cần đạt, các năng lực cần phát triển ở học sinh, chăm lo giáo dục toàn diện, đảm bảo sự phát triển hài hòa về đức, trí, thể, mĩ, các kĩ năng cơ bản, chú ý định hướng nghề nghiệp, hình thành và phát triển cơ sở ban đầu của hệ thống hoá phẩm chất, năng lực cho lớp người lao động phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bậc Tiểu học có tính chất phổ cập và phát triển dân tộc hiện đại nhân dân và dân chủ. Các tính chất trên đều được thể hiện trong cơ cấu tổ chức, trong toàn bộ các mặt hoạt động giáo dục và dạy học ở bậc Tiểu học. Bậc Tiểu học tạo tiền đề cơ sở vững chắc cơ bản để nâng cao dân trí. Nó là một cơ sở ban đầu hết sức quan trọng đã đào tạo ra được thế hệ trẻ, một mầm móng tương lai của đất mẹ trở thành công nhân cốt lõi, nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Những phẩm chất đó là: trí tuệ phát triển, ý chí cao, tình cảm đẹp giáo dục Tiểu học dù bất cứ hình thức nào đều cũng phải 2010 Trang:2 2011 mang mục tiêu thống nhất của nhà nước và được thể hiện chủ yếu ở nhà trường Tiểu học. Để làm được điều đó tôi đã quyết tâm nâng cao chất lượng học tốt môn toán của lớp mình. Đó cũng là mục đích tôi trọn đề tài: “Vài biện pháp khắc phục học sinh yếu Toán 3”. III. PHẠM VỊ ĐỐI TƢỢNG CỦA ĐỀ TÀI: - Đề tài nghiên cứu: Vài biện pháp khắc phục học sinh yếu Toán lớp 3. - Phạm vi áp dụng: Học sinh và giáo viên trường tiểu học Bình An 3 năm học 2010 – 2011. IV. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI: Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam cùng các môn học khác, môn Toán có vị trí quan trọng vì: - Các kiến thức , kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết cho mọi người lao động, rất cần thiết để học tập các môn học khác ở Tiểu học và học tập tiếp môn Toán ở trung học. - Môn Toán giúp học sinh nhận biết được các mối quan hệ về số lượng và 2010 Trang:3 2011 hình dạng không gian của thế giới thực.Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. - Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp tác phong khoa học. Từ những nguyên nhân trên, để đạt được mục tiêu giáo dục.Với mong muốn của một giáo viên giảng dạy là làm sao cho các em học sinh học tốt môn toán, học có phương pháp là mục tiêu hàng đầu trong mọi tiết học toán. B. PHẦN NỘI DUNG: I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Mỗi môn học ở Tiểu học cùng môn Tiếng Việt và môn Toán có vị trí quan trọng, vì: + Các kiến thức, kỹ năng của môn toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong 2010 Trang:4 2011 đời sống, chúng rất cần để mọi người học tập các môn khác ở tiểu học và học tiếp toán ở trung học, đại học, cao học. + Ở môn Toán giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình thành không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt bên ngoài và các hoạt động trong đời sồng hằng ngày. + Môn toán còn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập linh hoạt, sáng tạo, nó góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: tính cần cù, cẩn thận, ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học. Cùng với tầm quan trọng của môn toán Tiểu học thì Toán ở lớp 3 có nhiệm vụ giúp học sinh : - Biết đếm trong phạm vi 100 000. - Biết đọc, viết các số trong phạm vi 100 000. - Biết so sánh và sắp xếp các số theo thứ tự từ bé đến lớn và ngược lại. - Biết thực hiện các phép cộng, trừ, nhân, chia trong phạm vi 100 000 như: học thuộc các bảng tính và biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính hoặc các 2010 Trang:5 2011 trường hợp đơn giản, thường gặp về cộng, trừ, nhân, chia. Biết thực hiện phép công, trừ số có đến năm chữ số. Thực hiện phép nhân có ba, bốn chữ số cho số có một chữ số. Biết thực hiện phép chia có năm chữ số cho số có một chữ số( chia hết và chia có dư) - Biết tính giá trị biểu thức có đến hai dấu phép tính (có dấu ngoặc hoặc không có dấu ngoặc). - Biết tìm thành phần chưa biết của phép tính. - Biết tìm một trong các thành phần bằng nhau cua một số. - Biết đo và ước lượng các đại lượng thường gặp như: đơn vị đo độ dài, mối quan hệ giữa một số đơn vị đo độ dài thường gặp,… đơn vị đo khối lượng, đơn vị đo thời gian, sử dụng tiền Việt Nam trong sinh hoạt hàng ngày, giới thiệu về đơn vị đo diện tích (cm2). - Biết thêm về hình chữ nhật, hình vuông như: góc, đỉnh, cạnh, biết tính chu vi, diện tích. - Biết vận dụng các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các vấn đề thường gặp như: đọc và sắp xếp các số liệu, giải toán có lời văn (không quá hai bước tính) trong đó có một số dạng toán như tìm một trong các thành phần bằng nhau của 2010 Trang:6 2011 một số, gấp một số lên nhiều lần, bài toán liên quan đến rút về đơn vị,… - Thông qua những hoạt động học tập toán để phát triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, lập luận có căn cứ, bước đầu làm quen với những chứng minh đơn giản. - Hình thành các tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin. Nhưng trong thực tế có không ít học sinh yếu toán ở các trường Tiểu học do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như: học sinh có nhiều lỗ hỏng kiến thức, tiếp thu kiến thức bài mới chậm, phương pháp học tập chưa tốt,… II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: Trường Tiểu học Bình An 3 là một trường thuộc vùng nông thôn có 2 điểm. Giao thông đi lại khó khăn nhất là về mùa mưa, nhiều em nhà xa (cách trường trên 5 km), nhiều học sinh dân tộc khi đi học phải qua sông, đi đò. . .làm ảnh hưởng đến chất lượng học của học sinh. Đa số phụ huynh thiếu quan tâm đến việc học của con khi ở nhà, phó mặc 2010 Trang:7 2011 cho nhà trường. Một số gia đình gặp nhiều khó khăn về kinh tế nên bắt các em phải nghỉ học ở nhà để giữ nhà, giữ em. Hoặc cũng có gia đình phải đi làm mướn xa theo mùa vụ, để các em ở nhà với nội, ngoại nên không kiểm tra được việc học tập của con, chỉ tin tưởng phó mặc con tư lo,… Bên cạnh một số phụ huynh có quan tâm đến việc giúp đỡ con học tập nhưng lại không biết cách hướng dẫn con học ở nhà: Chẳng hạn: khi con không giải được bài tập thì lập tức làm hộ, chứ không biết cách hướng dẫn gợi ý để con giải toán. Cũng có gia đình thì lại dạy trước con mình ở nhà, học sinh đã làm sẵn bài vào vở nháp, đến tiết học các em chép lại chứ không làm theo giáo viên giảng… Về học sinh: Qua khảo sát đầu năm học lớp có: 8 học sinh yếu toán chiếm tỉ lệ 29.6%. Trong 27 em học sinh của lớp có các dạng yếu như sau: Yếu về so Yếu tìm thành Yếu toán có lời sánh số phần chưa biết văn Yếu tính toán 27 2010 SL TL SL TL SL 5 18,5% 4 14.8% 7 TL SL TL 25.9% 11 40.8% Trang:8 2011 Từ đó tôi tìm hiểu nguyên nhân do học sinh có nhiều lỗ hỏng kiến thức, có em tính toán chậm khi cộng có nhớ thì lại không nhớ, các em tiếp thhu kiến thức hình thành kĩ năng thao tác chậm, phương pháp học chưa tốt: chưa nắm vững quy tắc đã vội làm bài tập, không thử lại sau khi làm bài… Từ những nguyên nhân trên làm ảnh hhưởng không nhỏ đến kết qủa học toán. Cùng với nhiệm vụ cấp bách của ngành, lương tâm nghề nghiệp của giáo viên, tôi đã có kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu năm như sau: III. NHỮNG GIẢI PHÁP: 1. Giải pháp chung: Điều quan trọng đầu tiên sau khi nhận lớp, tôi đã theo dõi thường xuyên cụ thể kết quả học tập của học sinh trên lớp nhằm sớm phát hiện các trường hợp học sinh gặp khó khăn trong học tập. Từ đó tôi đi sâu tìm hiểu cụ thể, phân tích nguyên nhân, tình hình đối với từng em trong lớp. Tôi phân loại học sinh yếu kém theo khảo sát đầu năm theo từng nhóm nguyên nhân chủ yếu: nhóm yếu do phát triển trí tuệ chậm là 2 em, 4 em có kiến thức không vững chắc, mau quên, nhiều lỗ hỏng, 2 em có hoàn cảnh khó khăn, cả cha và mẹ đều đi làm xa, em phải sống với ông bà nội. Cũng từ việc nắm nguyên nhân mà ngay từ đầu năm học tôi 2010 Trang:9 2011 đề ra kế hoạch giúp đỡ thích hợp với từng nhóm đối tượng. Tôi luôn luôn tìm hiểu, áp dụng phương pháp giảng dạy thích hợp để học sinh nắm tiếp thu kiến thức trọng tâm, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng trong từng bài học, vừa sức với từng nhóm đối tượng. Khi giảng dạy tôi luôn chú ý nhiều đến các em ngay cả khi hình thành kiến thức mới và hướng dẫn cụ thể, chi tiết mỗi khi học sinh làm bài tập. Những nội dung bài tập dễ tôi thường tạo điều kiện cho các em được sửa, nói cách làm và tự sửa bài khi sai. Khi giao nhiệm vụ tôi luôn kiểm tra, sửa chữa những lỗi học sinh thường mắc. Đặc biệt cần khuyến khích động viên khi các em có những tiến bộ dù rất nhỏ. Tôi tổ chức cho học sinh khá giỏi giúp đỡ các bạn yếu về cách học, về phương pháp vận dụng kiến thức như: học nhóm tại nhà đối với những em gần nhà nhau. Tổ chức kèm cặp phụ đạo trong 15 phút truy bài (học sinh khá giỏi kiểm tra những bài tập được giao về xem các em đã làm chưa, nếu làm sai các em sẽ hướng dẫn cách làm lại để học sinh yếu hiểu và sửa lại bài), kèm 10 phút giờ ra chơi, 15 phút cuối giờ (Thời gian này chủ yếu là giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành các bài tập của tiết toán mới học, do học sinh tiệp thu kiến thức, kĩ 2010 Trang:10 2011 năng giải toán chậm, giao thêm một số bài tập dễ cùng dạng và hướng dẫn để học sinh làm thêm ở nhà) Thường xuyên phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập như: họp phụ huynh học sinh (một năm khoảng bốn lần) để hướng dẫn cho phụ huynh biết cách kiểm tra, hướng dẫn con em họ học ở nhà, thông báo kết quả học tập sau mỗi kì thi. Ngoài ra tôi còn gặp trao đổi riêng với phụ huynh khi nhận thấy các em có xa sút về kết quả học tập. Đối với những em có hoàn cảnh khó khăn tôi cũng đến nhà gặp riêng để an ủi, động viên bàn biện pháp khắc phục để con họ được tới trường đầy đủ, khi thì đề xuất với ban giám hiệu, công đoàn, thư viện trường giúp đỡ về đồ dùng, tập sách, quần áo,…Ngoài ra tôi còn phát động phòng trào nuôi heo đất ở chi đội nhằm khuyến khích các em tham gia phong trào tốt, học có tiến bộ, và các bạn có hoàn cảnh khó khăn, thăm ốm,… 2. Giải pháp cụ thể: Trước hết bản thân giáo viên phải nắm vững nội dung và khối lượng kiến thức, kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh trong chương trình toán 3. Muốn vậy, điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu kĩ hiểu những tài liệu, văn bản chỉ đạo của ngành về hướng dẫn thực hiện chương trình, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ 2010 Trang:11 2011 năng cho từng bài học cụ thể. Trong khi dạy các kiến thức mới tôi cần cho học sinh nhắc lại các kiến thức cũ có liên quan. Áp dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực vào trong tiết học. Ví dụ: Khi dạy bài “So sánh các số trong phạm vi 10 000”, tôi cho học sinh nhắc lại cách so sánh các số có ba chữ số ở lớp 2 bằng một ví dụ cụ thể như: 234 với 235 bằng một số câu hỏi: + Số 234 và 352 là số có mấy chữ số? Gồm những chữ số ở hàng nào? Ta so sánh hàng nào trước? Nếu chữ số hàng trăm bằng nhau thì so sánh hàng nào?... và làm như vậy để so sánh số có nhiều chữ số ở lớp 3. Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra kết luận so sánh só có nhiều chữ số: + Khi so sánh số có nhiều chữ số ta làm như thế nào?( Đếm xem số nào có ít số hơn thì số đó bé hơn và ngược lại) + Nếu hai số có cùng chữ số thì ta làm như thế nào?( Ta so sánh từng cặp chữ số ở cùng một hàng, kể từ trái sang phải) + Nếu hai số có cùng chữ số và từng cặp chữ số cùng một hàng đều giống nhau thì hai số đó như thế nào?( Bằng nhau) Đối với nhóm học sinh có nhiều lỗ hỏng kiến thức, trong khi dạy học trên 2010 Trang:12 2011 lớp tôi luôn quan tâm phát hiện những lỗ hỏng nào điển hình thì có kế hoạch phụ đạo ngay. Ví dụ 1: Dạng toán chia hết và chia có dư. Đặt tính rồi tính 32 : 5, học sinh thường đưa ra cách chia sai như: 32 5 7 51 2 Từ cách giải sai của học sinh tôi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sai lầm đó là do: - Không thuộc bảng nhân, bảng chia. - Không nắm được đặc điểm của phép chia (số dư ở bước 2 không bao giờ lớn hơn số chia), và không lấy số dư chia thêm một lần nữa. Hiểu được nguyên nhân, tôi khắc phục dạng toán này như sau: - Hướng dẫn học sinh ước lượng thương dựa vào bảng nhân. - Hướng dẫn học sinh nhân nhẩm thương đến 5 x 6 = 30 và 5 x 7 = 35. - Số 32 có trừ được 35 không? Vậy ta phải bớt thương đi mấy đơn vị? Kết quả là mấy lần? 2010 Trang:13 2011 - Hướng dẫn học sinh tự nhận thấy cái sai và sửa bài đúng. 32 5 2 6 Ví dụ 2: Dạng tính giá trị biểu thức. * Biểu thức không có dấu ngoặc, sai của học sinh là: 69 + 20 x 4 = 89 x 4 = 356 * Biểu thức có dấu ngoặc, sai của học sinh là: ( 65 + 15) x 2 = 65 + 30 = 95 Từ phát hiện cách giải sai của học sinh tôi thấy nguyên nhân chính do học sinh không nắm được quy tắc. Tôi đã trực tiếp hướng dẫn học sinh chữa bài như sau: + Gọi một học sinh khác nhận xét bài làm của bạn. + Vì sao bài của bạn làm sai? (do không nhớ cách tính). - Yêu cầu học sinh làm sai đứng lên kiểm tra lại lời nhận xét của bạn. + Biểu thức trên có mấy phép tính? Là phép tính nào? (có hai phép tính, là 2010 Trang:14 2011 phép cộng và phép nhân). + Trong biểu thức không có dấu ngoặc ta thực hiện như thế nào?( Thực hiện phép nhân trước) + Trong biểu thức có dấu ngoặc ta làm như thế nào? (Ta thực hiện trong ngoặc trước). + Vậy vì sao bài làm của em sai? - Yêu cầu học sinh nhắc lại cách tính và sửa bài. 69 + 20 x 4 = 69 + 80 = 149 * Biểu thức có dấu ngoặc. ( 65 + 15) x 2 = 80 x 2 = 160 Ví dụ 3: Dạng tìm thành phần chưa biết. * Tìm số chia: sai của học sinh là lấy số bị chia nhân với thương. 12 : x = 2 x = 12 x 2 x = 24 2010 Trang:15 2011 * Tìm số trừ: sai của học sinh là lấy số bị trừ cộng với hiệu. 8462 – x = 762 x = 8462 + 762 x = 9224 Từ phát hiện cách giải sai đối với dạng toán này, nguyên nhân chính vẫn là không hiểu bản chất của phép cộng, phép trừ, không thuộc quy tắc. Khi vận dụng làm bài tập theo “máy móc” nghĩ rằng cho là phép chia thì đổi lại khi làm là phép nhân, cho phép trừ đổi lại khi làm là phép cộng. Tôi đã trực tiếp hướng dẫn các em chữa bài đối với dạng này như sau: Đối với dạng tìm số chia, tôi ghi bài sai lên bảng lớp, yêu cầu học sinh giải đúng nhận xét. Giáo viên Học sinh - Em hạy nhận xét bài của bạn. - Bài bạn làm sai. - Vì sao bài bạn sai? - Cách làm của bạn sai. Yêu cầu học sinh giải sai đứng lên kiểm tra lại lời nhận xét của bạn đúng hay sai bằng cách đặt câu hỏi: 2010 Trang:16 2011 Học sinh Giáo viên - Hãy nêu tên gọi các thành phần và kết 12: là số bị chia. quả trong phép tính chia: x: là số chia 12 : x = 2 2: là thương. Giáo viên ghi: Số bị chia Số chia 12 : x Thƣơng = 2 Số chia(x) em tìm bằng bao nhiêu? 24 24 so với 12 như thế nào? 24 lớn hơn 12 12 có chia được 24 không? Không. 12 chia mấy để bằng 2? 6 Muốn tìm số chia ta làm như thế nào? Muốn tìm số chia ta lấy số bị chia chia cho thương. Vì sao bài trên em làm sai? Không thuộc quy tắc. Yêu cầu học sinh tự sửa bài. 12 : x = 2 x = 12 : 2 x=6 2010 Trang:17 2011 Với các trường hợp sai đối với dạng tìm thành phần chưa biết, tôi cũng áp dụng cách sửa bài như trên. Học sinh tự phát hiện cái sai, dẫn dắt học sinh bằng hệ thống câu hỏi có liên quan, để học sinh nhớ lại kiến thức đã học,vận dụng sửa bài. Với cách làm đó giúp học khắc sâu kiến thức, nhớ bảng nhân, bảng chia,… thuộc quy tắc. Đối với toán có lời văn ở lớp 3 dạng “Bài toán giải bằng hai phép tính”. Khi dạy giải toán có lời văn, chủ yếu dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải, mà chỉ cho học sinh làm mỗi phép tính để tìm ra kết quả. Cố gắng để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán (tập trung vào ba bước: tóm tắt bài toán, để biết bài toán cho biết gì, hỏi gì, tìm cách giải quyết, thiết lập mối quan hệ giữa các giữ kiện của đề bài với phép tính tương ứng. Trình bày bài giải, viết câu trả lời phép tính tương ứng và đáp số). Qua tình hình thực tế tôi thấy học sinh yếu toán lời văn rất nhiều. Ví dụ: Dạng toán có lời văn: Bài toán: Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn em 7 tấm bưu ảnh. Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh? Học sinh thường đưa ra cách giải như : 2010 Trang:18 2011 Cả hai anh em có số tấm bưu ảnh là: 15 + 7 = 22( tấm) Đáp số: 22 tấm Từ cách giải sai trên tôi thấy do các em không đọc kĩ đề bài (chỉ đọc câu hỏi nên thấy bài hỏi tất cả thì lập tức làm tính cộng), chưa có kĩ năng phân tích đề bài toán nên không biết cách giải quyết vấn đề. Hiểu được nguyên nhân, tôi khắc phục sai lầm đối với dạng toán này như sau: Bước 1: Hướng dẫn học sinh hiểu đề toán. Học sinh Giáo viên - Anh có bao nhiêu tấm bưu ảnh? - 15 - Em như thế nào so với anh? - Ít hơn anh 7 tấm. - Bài hỏi gì? - Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh? Bước 2: Hướng dẫn học sinh tóm tắt. 15tấm Anh: 7tấm ? tấm bưu ảnh Em: 2010 Trang:19 2011 Bước 3: Hướng dẫn học sinh giải và trình bày bài giải. Học sinh Giáo viên - Để tìm số tấm bưu ảnh của hai anh em ta làm - Lấy số bưu ảnh của anh như thế nào? cộng với số bưu ảnh của em. - Số tấm bưu ảnh của em biết chưa? - Chưa. - Để tìm số tấm bưu ảnh của em ta làm tính gì? - Tính trừ. - Để tìm được số bưu ảnh của hai anh em ta cần tìm số bưu ảnh của ai? - Của em trước. - Yêu cầu học sinh tìm câu lời giải đầu dựa vào dấu chấm hỏi phần tóm tắt, dựa vào câu hỏi của bài tìm câu lời giải sau bỏ từ “ hỏi”, “ bao nhiêu” thêm vào từ “ số”, “là”. Học sinh trình bày bài giải vào vở, giáo viên theo dõi giúp đỡ thêm nếu các em còn chậm trong qua trình giải. Sau khi trình bày bài toán đúng cho học sinh so sánh với bài sai để giáo dục, rút kinh nghiệm. Nhắc nhở các em cần đọc kĩ, phân tích đề rồi mới giải quyết vấn đề. Nhìn chung mỗi dạng toán học sinh yếu là do nắm kiến thức mới không vững 2010 Trang:20 2011
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan