Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn rèn luyện kỹ năng tự học bộ môn lịch sử cho học sinh lớp 10...

Tài liệu Skkn rèn luyện kỹ năng tự học bộ môn lịch sử cho học sinh lớp 10

.PDF
21
1994
134

Mô tả:

BM01-BiaSKKN SỞ GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Đoàn Kết  Mã số:…… SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH LỚP 10 Người thực hiện: PHAN HỒNG ÂN Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục  Phương pháp dạy học bộ môn  Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực khác………  Coù ñính keøm:  Mohhình  Phaàn meàm  Phim aûnh  Hieän vaät Năm học: 2012-2013 BM02-LLKHSKKN SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC -1- I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN: - Họ và tên: Phan Hồng Ân - Ngày tháng năm sinh: 01-04-1968 - Giới tính: Nam - Địa chỉ: Khu 10, Thị trấn Tân Phú, Huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai - Điện thoại: DĐ: 0904509412 - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị công tác: Tổ Sử, Công Dân - Trường THPT Đoàn Kết II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO: - Học vị: Cử nhân khoa học - Năm nhận bằng: 1995 - Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC: - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Lịch Sử - Số năm có kinh nghiệm: 18 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 1. Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả bài giảng lịch sử 2. Một số phương pháp tạo biểu tượng trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông 3. Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn nhằm nâng cao hiệu quả bài giảng lịch sử. Tên đề tài: RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH LỚP 10 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: -2- Những năm gần đây, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, của ngành giáo dục đều nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp giáo dục sao cho phù hợp với sự phát triển của đất nước, để tạo ra con người “năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề”. Vì vậy việc hướng dẫn học sinh tự tìm đến kiến thức, biến việc học trở thành một nhu cầu tự thân là một mục tiêu lớn của ngành giáo dục và đào tạo. Là năm học đầu cấp, học sinh lớp 10 thường rất lúng túng với cách học ở bậc THPT. Các em chưa tự xây dựng kế hoạch học tập một cách khoa học, chưa hình thành kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho bản thân, thụ động trong quá trình nhận thức... Điều này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên trong quá trình dạy học và chất lượng các mặt giáo dục cuối kỳ, cuối năm học của khối lớp 10 thường không cao. Là “Thầy dạy của cuộc sống”, là “tấm gương soi của muôn đời”, bộ môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông có chức năng trang bị cho học sinh những tri thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và thế giới. Kiến thức lịch sử giúp học sinh hiểu được quá khứ và hiện tại một cách toàn diện để sống tốt hơn, hoàn thiện nhân cách con người. Đã có rất nhiều giải pháp đổi mới phương pháp dạy học được ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng môn lịch sử trong nhà trường. Tuy nhiên, do áp lực thực hiện tiến độ chương trình, nội dung sách giáo khoa còn nhiều bất cập, nên phần lớn giáo viên chỉ quan tâm hoàn thành kế hoạch bài giảng trên lớp. Thầy cô chưa chú ý đúng mức đến việc rèn luyện cho các em kỹ năng tự học, tự nghiên cứu đề tự mình khám phá tri thức của nhân loại. Hướng dẫn phương pháp học tập bộ môn là một khâu quan trọng giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức bằng một phương pháp học tập phù hợp với trình độ của từng đối tượng. Từ thực trạng của vấn đề như đã trình bày, tôi thấy cần thiết khi chọn đề tài: “RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH LỚP 10”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp về những kinh nghiệm mà tôi đã tích luỹ được qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy lịch sử, qua học hỏi đồng nghiệp. Nhẳm tìm ra giải pháp giúp học sinh rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu, qua đó giúp các em tiếp thu bài học tốt hơn, góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Nội dung mà đề tài quan tâm tuy không mới nhưng là nhiệm vụ mà mỗi giáo viên đã và đang thực hiện. Thiết nghĩ có trăn trở và quan tâm đến thì bản thân người thực hiện đề tài cũng có dịp nói lên chính kiến và kinh nghiệm bản thân để trao đổi với đồng nghiệp để rồi có sự thống nhất và vận dụng trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: -3- 1. Thuận lợi: - Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt công nghệ thông tin giúp mở rộng tầm nhìn tri thức, cầu nối các vùng văn hoá khác nhau… - Đường lối chính sách của Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục, đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo... - Từ năm học 2011-2012 nội dung chương trình học có sự điều chỉnh để phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông, phù hợp với thời lượng dạy học và điều kiện thực tế các nhà trường. - Là một huyện miền núi, thuần nông, đa số học sinh học trường THPT Đoàn Kết chăm ngoan, có tinh thần hiếu học, vượt khó. Đội ngũ giáo viên nhà trường đạt chuẫn đào tạo, có tinh thần trách nhiệm cao và luôn cộng tác, giúp đỡ đồng nghiệp. Đây chính là những thuận lợi cơ bản để thực thi các giải pháp của đề tài. 2. Khó khăn: - Do mặt trái của cơ chế thị trường, nên nhiều học sinh xem Lịch sử là môn phụ, chỉ học đối phó… - Đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy môn sử vẫn thiếu hoặc cấp phát chưa kịp thời… - Nội dung chương trình sách giáo khoa còn nặng tính hàn lâm, hình thức chưa hấp dẫn, thầy trò có ít thời gian để thảo luận, phân tích, mở rộng kiến thức vì phải chạy theo tiến độ chương trình. III. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn: 1.1. Cơ sở lý luận: Thế nào là tự học? Việc tự học của học sinh là việc học sinh độc lập hoàn thành những nhiệm vụ được giao đưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra của giáo viên. Học sinh tự chủ động nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác, có thể vận dụng thành thạo kiến thức đã học. Vì sao phải tự học? - Mục tiêu của giáo dục – đào tạo “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” Người thầy không thể truyền đạt hết kiến thức cho học sinh mà chỉ có thể trang bị cho họ công cụ hữu hiệu khai phá tri thức nhân loại. - Yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là phát huy tính tích cực, chủ động trong nhận thức của học sinh. - Mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức nhiều, thời gian học trên lớp ít. - Với phương pháp học tập phù hợp, học sinh sẽ cảm thấy vừa sức, hứng thú và học tốt bộ môn. Vai trò, ý nghĩa của việc tự học? -4- Đã có thâm niên giảng dạy môn Lịch Sử, tôi nhận thức rằng để giúp học sinh hiểu bài, giáo viên đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, khơi gợi ở các em sự hứng thú và phát huy tiềm năng sáng tạo, tư duy độc lập … Học sinh càng tích cực nhận thức thì hiệu quả giáo dục càng cao. Mỗi học sinh sẽ đúc rút kinh nghiệm cho riêng mình để nhận biết tri thức, rèn luyện kĩ năng và nắm chắc kiến thức. Giáo viên luôn quan tâm theo dõi hoạt động các em để có biện pháp uốn nắn kịp thời, điều chỉnh phương pháp dạy học linh hoạt giúp các em tiến bộ. Rèn luyện kĩ năng tự học bộ môn giúp học sinh chủ động học tập, chịu khó suy nghĩ, hiểu và nhớ bài ngay tại lớp. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Nội dung kiến thức lịch sử sách giáo khoa hiện nay còn dài, trong khi thời lượng môn lịch sử lớp 10 chỉ có 1,5 tiết/tuần. Để đảm bảo tiến độ chương trình, giáo viên có quá ít thời lượng để vận dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học. Bài học lịch sử trở nên khô khan với những sự kiện lịch sử chiến tranh, kinh tế... Học sinh chỉ học đối phó, chủ yếu lắng nghe, ghi chép hoặc gạch vào những nội dung của sách giáo khoa, không tham gia tích cực vào hoạt động của quá trình nhận thức. Hoạt động ngoại khóa rất hạn chế, nên việc vận dụng kiến thức vào thực tế rất hạn chế. Nhưng môn sử ngoài kiến thức sử học còn giúp học sinh hình thành nhân cách sống, thế giới quan. Song không phải học sinh nào cũng cảm nhận tầm quan trọng của bộ môn sử, có thái độ học đúng đắn, tích cực trong quá trình học . Rèn luyện kĩ năng tự học bộ môn cho học sinh đầu cấp học THPT sẽ giúp học sinh xác định rõ động cơ, thái độ học tập bộ môn lịch sử. Các em sẽ chủ động khai thác kiến thức, rèn luyện kĩ năng nắm bắt các sự kiện lịch sử một cách chính xác, tránh được lối học vẹt, tự tin khi học bài, làm bài. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: 2.1. Phân loại kĩ năng tự học lịch sử Có rất nhiều cách phân loại kĩ năng tự học tùy thuộc vào mục đích, cơ sở, cách thức phân loại. Trong quá trình dạy học bộ môn lịch sử theo tôi cần phải rèn luyện cho học sinh những kĩ năng tự học cơ bản sau: Nhóm các kỹ năng tự học trên lớp, gồm: Kỹ năng kết nghe giảng - ghi chép, kỹ năng trả lời câu hỏi và làm bài tập, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, trao đổi – đàm thoại... Nhóm các kỹ năng tự học ở nhà, gồm: Kỹ năng sử dụng sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, kỹ năng hoàn thành các câu hỏi – bài tập, kỹ năng khai thác các loại đồ dùng trực quan. Một số kỹ năng tự học đặc trưng của bộ môn như: kỹ năng ghi nhớ các sự kiện lịch sử điển hình, kỹ năng tưởng tượng, tái tạo để tạo biểu tượng và lưu giữ -5- biểu tượng, kỹ năng phát hiện bản chất của sự kiện lịch sử qua hình thành khái niệm, Kỹ năng vận dụng kiến thức thống qua nêu quy luật, rút ra bài học lịch sử, kỹ năng ôn tập và làm bài thi hiệu quả... Tuy nhiên trong giới hạn của đề tài này chúng tôi xin đề xuất thực nghiệm nhóm kỹ năng tự học của học sinh trên lớp và ở nhà 2.2. Một số hình thức hướng dẫn, tổ chức rèn luyện kỹ năng tự học bộ môn lịch sử cho học sinh lớp 10 2.2.1. Rèn luyện kỹ năng tự học trên lớp  Kỹ năng định hướng động cơ học tập: gồm xác định nhu cầu, động cơ học tập và hình thành thế giới quan... Vào đầu năm học, ngay ở tiết học đầu tiên giáo viên cần hình thành ở học sinh thái độ học tập bộ môn Lịch sử qua việc xác định được vai trò (giáo dục và giáo dưỡng), vị trí bộ môn lịch sử trong chương trình giáo dục; mối quan hệ giữa môn sử các môn học khác. Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của quốc gia dân tộc. Học lịch sử trước hết là học về lòng yêu nước, học xưa để biết nay. Nếu các cá nhân trong một dân tộc không biết nguồn gốc và tổ tiên của mình thì dân tộc đó sẽ tiêu vong. Học lịch sử không có giới hạn mà là học suốt đời như các môn học khác. Các em có thể học bất cứ lúc nào nếu muốn, miễn là lòng đam mê với lịch sử là không có giới hạn.Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có lợi cho nghề nghiệp của mình sau này. Lịch sử có trong tất cả các lĩnh vực, bởi ngành nghề nào mà chẳng có lịch sử hình thành và phát triển. Lịch sử như một câu chuyện dài với nhiều sự kiện, nhiều chương, hồi được liên kết logic với nhau theo trật tự thời gian và luôn có mối quan hệ nhân quả. Lịch sử đem lại cho chúng ta những suy ngẫm rất quý giá về cuộc sống. Nếu hiểu được điều ấy và biết học sử một cách có phương pháp, các em học sinh sẽ không còn thấy đây là một môn học khô khan nữa.  Kỹ năng tổ chức các hoạt động học tập: tự xây dựng kế hoạch học tập, tự đánh giá kết quả học tập bộ môn... Yêu cầu học sinh lập kế hoạch học tập bộ môn một cách cụ thể (trên lớp và ở nhà). Dụng cụ học tập bộ môn bao gồm: 2 quyển tập (1 quyển ghi bài trên lớp và 1 quyển làm bài tập ở nhà và ghi thông tin cập nhật cho từng bài), sách giáo khoa, túi đựng bài kiểm tra, tài liệu tham khảo... Giáo viên thực hiện các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra tập vở và bài tập về nhà, theo dõi đánh giá và uốn nắn việc học của học sinh kịp thời. -6-  Kỹ năng kết hợp nghe giảng - ghi chép = sử dụng sách giáo khoa khi giáo viên yêu cầu Ghi theo dàn bài của giáo viên khi viết bảng, đối chiếu với sách giáo khoa. Vẽ vào vở những hình vẽ, sơ đồ cần thiết khi giáo viên vẽ minh họa, phân tích và giải thích trên bảng đen. Ghi số liệu quan trông trong sách hoặc do giáo viên cung cấp. Trích câu nói nổi tiếng, tư liệu quan trọng trong một tác phẩm nào đó. Ghi chép những từ ngữ, thuật ngữ mới và khó liên quan đến bài học đã được giáo viên giải đáp. Ghi chép vào vở lời dặn dò của giáo viên sau khi kết thức bài dạy trên lớp.  Kỹ năng làm việc nhóm là một hình thức dạy học theo hướng tích cực và tương tác, nó kích thích học sinh tìm tòi , phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức. Hình thức này cũng góp phần tạo ra hứng thú cho học sinh trong học tập . Tổ chức các cuộc trao đổi thảo luận dưới nhiều hình thức khác nhau tạo điều kiện cho học sinh tự mình nêu lên các vấn đề để học tập, được độc lập giải quyết các vấn đề, rèn luyện khả năng trình bày ý kiến. Từ đó học sinh lĩnh hội được nội dung học tập theo tinh thần mới của dạy học hiện đại: Dạy học tự khám phá, tự phát hiện.  Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học lịch sử : Ngoài việc học ở lớp, cần phải tổ chức các buổi ngoại khóa tại di tích Lịch sử, gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với các nhân chứng Lịch sử, nhân vật Lịch sử... để gây hứng thú cho học sinh, từ đó hình thành nên lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước. 2.2.2. Rèn luyện kỹ năng tự học ở nhà  Kỹ năng sử dụng sách giáo khoa Đọc sách giáo khoa là hoạt động thường xuyên và rất quan trọng. Vì đó là tài liệu cơ bản,quan trọng nhất của học sinh trong học tập lịch sử. Kỹ năng đọc sách giáo khoa thể hiện ở việc biết cách khai thác nội dung kiến thức cơ bản, tóm tắt và diễn đạt nội dung đọc bằng cách của riêng mình (lập dàn ý, đề cương khi đọc sách giáo khoa), vận dụng kiến thức sách giáo khoa để hoàn thành các câu hỏi – bài tập. Sử dụng sách giáo khoa ở nhà Để hiểu nội dung bài, học sinh phải hiểu các thuật ngữ, một số từ, cụm từ quan trọng trong bài; phải có cách lập luận khoa học, vận dụng kiến thức đã học ở từng bài để tổng hợp một giai đoạn hay một khoá trình lịch sử,…Để đáp ứng yêu cầu này, đòi hỏi mỗi học sinh phải đọc sách giáo khoa ở nhà trước khi học bài mới. Nhưng thực tế, học sinh chưa quen với việc đọc một tài liệu khoa học, ít chịu động não, chỉ đọc sách giáo khoa qua loa nên không nắm được nội dung chính của bài, thậm chí có em không không biết bài mình sắp học có tựa là gì? gồm mấy phần?... -7- Ren luyện kỹ năng làm việc với sách giáo khoa theo các bước sau: - Đọc lần 1: đọc tựa chương, tựa bài, đọc lướt nhanh nội dung của mỗi mục, sau đó viết nhanh ra giấy những nội dung cần lưu ý nhưng không cần thiết phải viết đầy đủ nội dung của cả câu, cả đoạn mà chỉ cần thay thế nội dung đó bằng một từ hoặc một cụm từ để diễn tả. + Ví dụ 1: Chương I: Xã hội nguyên thuỷ (SGK lớp 10 – Cơ bản). Sau khi đọc lướt, học sinh có thể tóm tắt các bước tiến hóa của loài người là đi từ: Vượn cổ  Người tối cổ  Người tinh khôn + Ví dụ 2: Chương II, Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X – XV). Sau khi đọc lướt, học sinh có thể tóm tắt Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến Việt nam từ thế kỉ X – XV: Nhà nước quân chủ sơ khai  Ngô - Đinh - Tiền Lê Nhà nước quân chủ hoàn chỉnh Lý – Trần – Hồ - Lê sơ - Đọc lần 2: Đọc lại nội dung, cố gắng hiểu từng phần, kết hợp ghi nhớ các hình ảnh minh họa có trong sách để hỗ trợ cho việc hiểu nội dung bài học. Phần này đòi hỏi người học phải có khả năng tư duy. + Trở lại ví dụ 1: Sau khi đọc lại nội dung lần thứ hai, học sinh phải biết niên đại của Người tối cổ (4 triệu năm trước đây), Sự tiến hóa về hình dáng và cấu tạo cơ thể so với vượn cổ? (chưa loại bổ hết các dấu tích vượn trên cơ thể mình... nhưng đã là người) Niên đại của Người tinh khôn ? Sự tiến hóa về cơ thể? Bước tiến của kỹ thuật chế tác công cụ lao động ? Vì sao gọi là Cách mạng đá mới?... + Trở lại ví dụ 2: Mục I: học sinh nắm được các mốc ra đời nhà nước phong kiến độc lập Ngô – Đinh – Tiền Lê (939,968,980). Nhà nước quân chủ sơ khai? (gồm 3 ban: văn ban, võ ban, tăng ban,...) Mục II: Học sinh nắm được sự hoàn chỉnh của bộ máy nhà nước phong kiến Lý – Trần – Hồ - Lê sơ (thể hiện cách tổ chức chính quyền, cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông, có luật thành văn, giáo dục và thi cử...)? - Đọc lần 3: Nắm được mối liên hệ giữa các mục trong bài và đừng quên đọc cả câu hỏi ở mỗi mục và cuối bài, để định hướng nội dung trả lời. Học sinh cần gạch chân một số từ hoặc cụm từ quan trọng có liên quan đến câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc khó hiểu để tập trung vào nội dung đó khi nghe thầy giảng trên lớp. + Trở lại ví dụ 1: sau khi đọc ba lần nội dung của bài học sinh sẽ biết được thời nguyên thuỷ xã hội loài người trải qua mấy giai đoạn? Đời sống kinh tế vật chất và xã hội tinh thần lúc bấy giờ ra sao? + Trở lại ví dụ 2: sau khi đọc ba lần nội dung bài, học sinh nắm được Ý nghĩa của việc Ngô Quyền xưng vương, xây dựng chính quyền mới? Nhận xét cách -8- tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê so với thời Lý – Trần – Hồ Lê sơ? Sự phát triển và hoàn chỉnh đó nói lên điều gì? Để rèn luyện kỹ năng đọc sách giáo khoa có hiệu quả, tránh sự đọc đối phó, giáo viên phải thường xuyên đôn đốc, nhắc nhỡ, kiểm tra việc đọc sách của học sinh bằng cách kiểm tra sách giáo khoa xem học sinh có gạch chân những từ hoặc cụm từ nào hay không? Hoặc hỏi bài học hôm nay có mấy phần, nội dung chính?... *Sử dụng sách giáo khoa trên lớp: Giáo viên cho một học sinh có giọng đọc to, rõ ràng đọc một đoạn sách giáo khoa (hoặc tài liệu do giáo viên phát), rồi yêu cầu các em cùng trao đổi thảo luận các vấn đề giáo viên định hướng. Giáo viên cho học sinh đọc to hoặc đọc thầm trên lớp. Gạch chân và sách giáo khoa những từ ngữ, khái niệm thuật ngữ quan trọng liên quan đến bài học, những mốc thời gian hoặc số liệu quan trọng. Ví dụ: giảng Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X – XV), giáo viên yêu cầu HS đọc đoạn 2, SGK trang 88 và gọi lên bảng vẽ sơ đồ tổ chức Bộ máy nhà nước ở trung ương. Phần kênh hình trong sách giáo khoa, giáo viên lưu ý học sinh là phải quan sát và tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của kênh hình liên qua đến bài sẽ học trên lớp. Sử dụng sách giáo khoa, kết hợp với vở ghi trên lớp để ôn tập, hệ thống hoá kiến thức và làm các dạng bài tập do giáo viên giao cho Với việc hướng dẫn phương pháp đọc sách giáo khoa (trên lớp và ớ nhà) một cách khoa học sẽ rèn luyện cho học sinh thói quen làm việc với tài liệu khoa học, mở rộng kiến thức… Điều đó cũng đồng nghĩa với việc giải quyết nội dung bài học quá dài, học sinh sẽ hứng thú hơn trong việc đọc sách giáo khoa vì tự mình khai thác nội dung bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên.  Kỹ năng sử dụng các loại đồ dùng trực quan Trong dạy học lịch sử, đồ dùng trực quan là chổ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện, là phương tiện hiệu lực để hình thành khái niệm lịch sử, giúp học sinh nắm vững các qui luật phát triển của xã hội. Giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu sắc sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử. Cùng với các phương pháp trình bày miệng, các phương tiện trực quan (tranh ảnh lịch sử , bản đồ, sơ đồ...) góp phần quan trọng vào việc giáo dục tư tưởng tình cảm, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan đúng dắn, tạo xúc cảm lịch sử cho học sinh. Đồ dùng trực quan góp phần phát triển khã năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ và rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh. -9- Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần chú ý rèn luyện học sinh kỹ năng khai thác đồ dùng trực quan, chú ý phát triển ở các em khã năng quan sát, trí tưởng tượng, kỹ năng thực hành. * Một số loại đồ dùng trực quan thường gặp trong học tập môn sử: Tranh ảnh lịch sử phổ biến là tranh nghệ thuật mang chủ đề lịch sử như “Chiến thắng Bạch Đằng”; tranh châm biếm chính trị như “Tình cảnh nông dân Pháp trước cách mạng”... Tranh ảnh giáo khoa lịch sử: phản ánh sự kiện, hiện tượng lịch sử , thể hiện các thành tựu văn hóa vật chất, chân dung nhân vật lịch sử... Phương pháp sử dụng chung là quan sát kết hợp với miêu tả tỉ mỉ hoặc khái quát có phân tích. Tuy nhiên đối với từng loại tranh ảnh, có cách sử dụng khác nhau: Tranh ảnh phản ánh các sự kiện, hiện tượng lịch sử khi quan sát phải theo trình tự từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, tập trung vào chi tiết phản ánh nội dung cơ bản. Bỏ qua chi tiết không cơ bản. Tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hóa vật chất sử dụng phương pháp miêu tả tỉ mỉ hoặc khái quát có phân tích. Ví dụ Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương Tây – Hy lạp và RôMa, Mục 3: Văn hoá cổ đại Hi Lạp và RôMa, SGK tr.26 có hình 10: Đền Pactênông (Hi Lạp) Mục tiêu khai thác hình ảnh này là giúp học sinh nhận thức được: Nghệ thuật xây dựng các công trình kiến trúc Hi Lạp – RôMa cổ đại đã đạt đến trình độ tuyệt mĩ. Qua đó giáo dục thái độ trân trọng lao động sáng tạo của người xưa và ý thức bảo vệ các giá trị văn hoá lịch sử nhân loại. Giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh rồi nêu tình huống có vấn đề để định hướng học sinh: Quan sát hình ảnh Đền Páctênông và nói lên hiểu biết của em về bức tranh này và nêu nhận xét về nghệ thuật kiến trúc của người Hy Lạp Rô-ma thời cổ đại? Giáo viên phân công học sinh sưu tầm tư liệu về công trình qua cuốn sách “Di sản thế giới”, Tập 4, NXB Trẻ, Hà Nội năm 2002, hoặc sưu tầm trên Internet và thuyết trình về di tích và nói lên nhận xét của mình. Cuối cùng giáo viên chốt ý: Nghệ thuật xây dựng đền thờ thần đạt đến trình độ tuyệt mĩ, tất cả được làm bằng đá quí. Toàn bộ công trình toát lên một vẻ đẹp thanh thoát, có sức thu hút, làm say mê lòng người, một kiệt tác của muôn đời, là kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người. Đối với tranh chân dung nhân vật lịch sử: như O.Cromoen, Bixmac... hướng dẫn học sinh sử dung phương pháp quan sát kết hợp với nêu đặc điểm nhân vật. Bản đồ lịch sử: nhằm xác định địa điểm của sự kiện lịch sử trong một thời gian, không gian nhất định, giúp học sinh ghi nhớ và củng cố kiến thức đã học. - 10 - Rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ treo tường trên lớp cho học sinh, giáo viên hướng dẫn chọn vị trí treo phù hợp để cả lớp được trực quan, dùng que chỉ giới thiệu tên bản đồ, tỷ lệ và những ký hiệu ở phần chú giải; xác định vị trí nơi xảy ra sự kiện, tập trung vào những chi tiết quan trọng trên bản đồ, dựa vào những câu hỏi gợi mở của giáo viên để khai thác nội dung. Xây dựng các loại niên biểu Niên biểu là hệ thống hoá các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian, mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước. Có 3 loại niên biểu: Niên biểu tổng hợp là bảng liệt kê những sự kiện lớn diễn ra trong một thời gian dài, giúp học sinh không chỉ ghi nhớ những sự kiện cơ bản của một giai đoạn lịch sử, mà còn cắm mốc thời gian và mối quan hệ giữa các sự kiện ấy. Niên biểu tổng hợp thường được dùng sau khi đã học xong một thời kỳ, một giai đoạn lịch sử, tốt nhất là những bài sơ kết, tổng kết. Ví dụ: Niên biểu các cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân thời kỳ Bắc thuộc Thời gian Tên khởi nghĩa Lãnh đạo Hoạt động Kết quả Niên biểu chuyên đề đi sâu một vấn đề quan trọng, nổi bật của một thời kỳ lịch sử, giúp học sinh hiểu được bản chất sự kiện toàn diện, đầy đủ. Niên biểu chuyên đề được dùng khi học bài mới, bài sơ kết, tổng kết. Ví dụ: Niên biểu các giai đoạn phá1 triển của Cách mạng tư sản Pháp 1789 Nền quân chủ Nền cộng hoà lập hiến Nền chuyên chính Giacobanh Chế độ Đốc chính Thời gian tồn tại Tầng lớp nắm chính quyền Sự kiện quan trọng Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu so sánh nhằm làm rõ bản chất, đặc trưng của các sự kiện hoặc để rút ra kết luận khái quát có tính nguyên lý. Niên biểu so sánh thường được dùng khi học bài mới, bài sơ kết, tổng kết. - 11 - Ví dụ: Niên biểu so sánh các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây Đặc điểm Các quốc gia cổ đại phương Đông Các quốc gia cổ đại phương Tây Thời gian xuất hiện Địa bàn Điều kiện tự nhiên Đặc trưng kinh tế Thể chế nhà nước Xã hội Khi xây dựng niên biểu học sinh phải dựa vào nội dung lịch sử để kẻ số lượng cột dọc, ngang cho phù hợp. Lựa chọn những sự kiện cơ bản, tiêu biểu nhất để điền vào niên biểu. Ngôn ngữ trong niên biểu cần ngắn gọn, súc tích, rõ ràng. Xây dụng các loại sơ đồ Sơ đồ nhằm để cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng những mô hình hình học đơn giản, diễn tả một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị nhằm làm nổi bật mối liên hệ giữa các bộ phận, thành phần của chúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh biểu diễn sơ đồ bằng các hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình tròn..., dùng các mũi tên hoặc các đoạn thẳng nối các hình với nhau để biểu thị mối liên hệ giữa chúng. Ví dụ: Sơ đồ 3 đẳng cấp ở Pháp trước Cách mạng năm 1789, sơ đồ bộ máy nhà nước Văn Lang – Âu Lạc... Vua (Vua Hùng, vua Thục) Lạc hầu, Lạc tướng Bồ chính - 12 - Giáo viên đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về tổ chức bộ máy nhà nước và đơn vị hành chính thời Văn Lang – Âu Lạc? Học sinh quan sát sơ đồ suy nghĩ trả lời: Tổ chức bộ máy nhà nước thời đó còn đơn giản, sơ khai... Sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Sơ đồ tư duy không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” Sơ đồ tư duy theo một cách riêng. Việc rèn luyện học sinh sử dụng sơ đồ tư duy trong học sử sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Sơ đồ tư duy có thể áp dụng ở nhiều dạng bài: Bài mới, ôn tập, hệ thống chương,giai đoạn, làm bài tập lịch sử, đặc biệt là củng cố bài học. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của bản đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy. Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm. Giáo viên hướng dẫn lập sơ đồ tư duy theo 4 bước: Sơ đồ tư duy một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế Sơ đồ trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng - 13 - công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho giáo viên, học sinh sử dụng. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp vấn đáp gợi mở, thuyết trình, góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng bộ môn Các loại đồ thị, biểu đồ Đồ thị đơn giản: biểu diễn bằng mũi tên đi lên hoặc xuống để chỉ sự phát triển của sự kiện lịch sử. Ví dụ như Tiến trình của Cách mạng tư sản Pháp 1789... Đồ thị phức tạp dùng để so sánh sự phát triển của sự kiện để tìm ra bản chất của chúng. Loại đồ thị này được biểu diễn bằng trục tung ghi sự kiện và trục hoành ghi thời gian. Cách xây dựng đồ thị là dựa vào số liệu cụ thể, biểu diễn các số liệu trên trục tung và trục hoành theo tỉ lệ phù hợp.  Kỹ năng sử dụng tài liệu tham khảo Tài liệu lịch sử có tác dụng cụ thể hoá nội dung sự kiện lịch sử trong sách giáo khoa, tạo biểu tượng chân thực về sự kiện, hiện tượng lịch sử. Qua đó hình thành khái niệm, rút ra bài học lịch sử, góp phần nâng cao trình độ nhận thức cho các em, hình thành thói quen tốt tự học, đọc sách, làm quen phương pháp nghiên cứu khoa học. Tài liệu lịch sử gồm: tài liệu truyền miệng, tài liệu hiện vật, tài liệu thành văn. Khi nghe giảng trên lớp: học sinh tự nghiên cứu tài liệu để trả lời các câu hỏi do giáo viên đặt ra. Khi học bài ở nhà: học sinh tự tìm đọc tư liệu (ở thư viện hay nguồn Internet...) bổ sung cho bài học trên lớp. Học sinh khi sử dụng tư liệu phải giới thiệu xuất xứ, nguồn gốc của tư liệu, chỉ cung cấp nội dung chủ yếu liên quan đến kiến thức cơ bản của bài nhằm làm sáng tỏ, sâu sắc thêm kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.  Kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật trong dạy học lịch sử như phim ảnh, đèn chiếu, Projector ... Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phối hợp sử dụng đồ dùng trực quan với các phương tiện kỹ thuật để giờ học sử thêm sinh động, tạo ra sự hứng thú trong học tập và giờ học sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Từ khâu chuẩn bị bài cũ đến bài mới kết hợp đọc sách giáo khoa và vở ghi học sinh đã tạo ra chuổi logíc kiến thức liên thông nhau để giải quyết vấn đề giáo viên đưa ra. Học sinh chủ động khai thác kiến thức mới và tự củng cố kiến thức đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên, giúp các em nắm được trọng tâm bài học. Một tiết học lịch sử sôi nổi, vui vẻ sẽ giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi ở học sinh. Giáo viên cố gắng tạo bầu không khí lớp học thoải mái, gần gủi có thể bằng một câu nói dí dỏm, một mẫu chuyện lịch sử hoặc cử chỉ thân thiện sẽ kích thích - 14 - hứng thú, tư duy sáng tạo học sinh. Với phương pháp dạy học phù hợp của giáo viên, học sinh sẽ cảm thấy vừa sức, hứng thú, tích cực tham gia vào bài giảng, góp phần làm nên tâm thế tốt trong quá trình dạy học. Để được như vậy, đòi hỏi ở mỗi giáo viên luôn tích cực trao dồi kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để tạo ra những tiết giảng sinh động, luôn tạo ra tình huống có vấn đề thầy trò cùng suy nghĩ giải quyết. Sự quan tâm yêu thương, hiểu tâm lí tính cách học sinh sẽ tăng hiệu quả quản lí, tạo điều kiện cho giáo viên có dịp bám sát các em hơn và giúp đỡ các em học tập, từng bước nâng cao chất lượng bộ môn.  Kỹ năng ôn luyện và làm bài thi lịch sử Trong 3 năm học ở bậc THPT, học sinh phải thực hiện các kỳ thi kiểm tra đánh giá kết quả: cuối kỳ, thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào các trường CĐ – ĐH. Vì vậy trong suốt quá trình học, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng ôn luyện và làm bài thi Lịch sử. Một là, học sinh phải có cái nhìn tổng thể về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới trong nội dung chương trình được học. Khi ôn, các em phải biết phân kì lịch sử, phải vẽ được bức tranh lịch sử gồm nhiều giai đoạn với tên gọi và những đặc điểm riêng. Tiếp đó, ở mỗi giai đoạn, các em lại đi sâu nắm những nội dung và sự kiện chính, có ý nghĩa quan trọng. Nếu không làm tốt được điều này học sinh dễ rơi vào “mê cung” những sự kiện, nội dung chồng chéo mà không định vị được vị trí từng nội dung, từng sự kiện nằm trong giai đoạn nào của lịch sử. Hai là, lịch sử là một dòng chảy với những sự kiện liên tục, diễn ra theo trình tự thời gian. Các sự kiện lịch sử thường có liên quan logic với nhau, sự kiện này là nguyên nhân dẫn đến sự kiện kia. Nếu ta hiểu quy luật này thì học Lịch sử rất dễ. Nếu học kiểu nhảy cóc, học vẹt, thiếu sự liên kết thì rất khó nhớ. Ba là, với mỗi nội dung học, học sinh phải nắm được những sự kiện chính và trả lời được: diễn ra ở đâu, thời gian nào, diễn ra làm sao và ý nghĩa của sự kiện thế nào? Bốn là, Nếu nghĩ học sử đơn thuần là học thuộc là một quan niệm sai lầm. Học thuộc nhưng phải trên cơ sở là phải hiểu, phải xâu chuỗi được các sự kiện thành một câu chuyện lịch sử, có trình tự, có nguyên nhân – kết quả thoả đáng, có ý nghĩa trong tiến trình lịch sử nói riêng và trong cuộc sống nói chung, khi ấy bạn sẽ thấy câu chuyện lịch sử ấy rất hấp dẫn. Năm là, phải vẽ được sơ đồ từng giai đoạn lịch sử, sau đó triển khai các nội dung chi tiết. Phải chú ý phương pháp đồng đại: trình bày một sự kiện nhưng đặt nó trong bối cảnh trong nước và quốc tế. Sáu là, khi ôn thi lịch sử cần phải viết ra giấy. Với mỗi nội dung ôn tập cần được chi tiết hoá theo kiểu sơ đồ như đã nói ở trên, xem có bao nhiêu ý, có bao - 15 - nhiêu sự kiện quan trọng cần nắm. Nếu hiểu bài, viết ra được các ý và nhớ các sự kiện theo trình tự, móc xích thì sẽ không bao giờ quên bài. Tất cả những nội dung trong sách giáo khoa đều quan trọng cần phải nắm chắc. Tránh việc học “tủ”, khiến kiến thức của các em bị thiếu hụt, dẫn đến nhận thức vấn đề không chắc. Bảy là, về cách làm bài: Đọc thật kĩ đề bài, gạch chân những cụm từ quan trọng để xác định hỏi gì. Lập dàn ý câu trả lời. Đề cương chi tiết giúp trả lời không bị sót ý. Cân đối thời gian cho các câu. Đi thẳng vấn đề, tránh lan man, dài dòng. Khi làm xong nên kiểm tra lại bài thi một lần cuối để chắc rằng các sự kiện, các con số được nêu trong bài là chính xác. IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN: Qua thực nghiệm các giải pháp rèn luyện kỹ năng tự học bộ môn lịch sử ở 06 lớp 10 (A1,2,3,4,5,6), trường THPT Đoàn Kết trong 2 năm học liền kề 2011-2012 và 2012-2013, kết quả chúng tôi thu được rất khả quan. Đa số học sinh đã thể hiện rõ sự tiến bộ trong ý thức thái độ học tập bộ môn sử. Các em đã có sự chuẩn bị tốt bài học ở nhà, thực hiện đầy đủ và có chất lượng các bài tập về nhà. Kết quả giảng dạy bộ môn của tôi trong 2 năm liền luôn đạt ở mức cao: hơn 94% trung bình trở lên. Đặc biệt có em tự đọc tài liệu tham khảo, tìm kiếm thông tin trên Internet để mở rộng kiến thức đã học, tổ chức thuyết trình theo chủ đề phân công của giáo viên làm cho giờ học sử thực sự sinh động, hứng thú và các em tiếp thu bài được tốt hơn. Điều quan trọng hơn là việc rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh góp phần nâng cao trình độ nhận thức cho các em, hình thành thói quen tốt tự học, đọc sách, làm quen phương pháp nghiên cứu khoa học. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Rèn luyện kỹ năng tự học môn lịch sử cho đối tượng học sinh PT là hết sức cần thiết. Nhằm trang bị cho các em những công cụ hữu hiệu khai phá tri thức nhân loại, khích lệ sự thay đổi thái độ, suy nghĩ của học sinh theo hướng tích cực; phát huy năng lực tìm tòi sáng tạo, xây dựng được nếp tự học; tự nghiên cứu góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn. Khi thiết kế bài giảng cần chuyển trọng tâm vào các hoạt động tự học của học sinh, tăng cường các hoạt động độc lập hoạt theo nhóm nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức bộ môn Giáo viên là người trực tiếp hướng dẫn cho các em phương pháp học như thế nào để đạt hiệu quả, giúp đỡ và theo dõi sự tiến bộ các em. Giáo viên giao công việc cho các em thật cụ thể và có kế hoạch kiểm tra bằng nhiều hình thức. Luôn đặt phương châm khen lên hàng đầu. Tổ chức cho các em thi - 16 - đua với nhau trong học tập, tăng cường kiểm tra học sinh yếu kém để nâng cao hiệu quả giảng dạy. VI. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ: Cần sự quan tâm đúng mức của xã hội. Một dân tộc yêu lịch sử, tôn trọng lịch sử thì sẽ có những học sinh yêu lịch sử, thích học lịch sử. Giáo viên lịch sử phải có lòng yêu nghề và có kiến thức sâu về chuyên môn, dạy học trò không chỉ bằng trái tim mà cả khối óc. Dạy bằng trái tim là để truyền sự rung cảm, dạy bằng khối óc là để truyền đạt tri thức. Luôn tích cực nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để tạo ra những tiết giảng sinh động. Sự quan tâm, hiểu tâm lí học sinh giúp giáo viên có dịp bám sát và giúp đỡ các em học tập, truyền cho các em sự yêu thích môn sử và từng bước nâng cao chất lượng bộ môn. Khi dạy sử không nên quá cứng nhắc về phương pháp, mà phải có sự linh hoạt trong từng bài giảng. Chú ý rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tự học, các kỹ năng miêu tả, tường thuật, phân tích, đánh giá, thậm chí là phê phán sự kiện lịch sử. Để học sinh thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ động trong lối suy nghĩ, các thầy cô cần đưa ra các bài tập, chủ đề lịch sử để các em tham gia thảo luận, nhất là thảo luận theo các nhóm. Chúng ta cần đa dạng hóa cách dạy và cách học. Dạy học mà cứng nhắc về phương pháp là bóp chết lòng đam mê học tập của học trò. Về phía học sinh: cần thay đổi nhận thức về môn sử. Học sử là để biết nguồn gốc con người, văn minh nhân loại và quá trình phát triển của dân tộc, từ đó hình thành lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Từ những bài học của ông, cha trong lịch sử mà rút ra bài học kinh nghiệm để ứng xử với cuộc sống hiện tại và tương lai. Đầu tư thỏa đáng thời gian vào học môn sử, hoàn thành các công việc được giao như: làm bài tập, chuẩn bị bài mới, sưu tầm tư liệu, chủ động đọc sách, tài liệu tìm hiểu các vấn đề lịch sử. Từ đó vươn lên làm chủ trong quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu để mai này giúp ích cho nước nhà. Về phía nhà quản lý: Bộ Giáo dục và đào tạo cần xúc tiến việc thay sách giáo khoa vì nội dung chương trình còn nhiều bất cập gây trở ngại cho việc đổi mới phương pháp. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên. Với sáng kiến này chúng tôi không có tham vọng đưa ra cả một hệ thống các giải pháp để rèn luyện kỹ năng tự học bộ môn lịch sử cho tất cả các đối tượng học sinh THPT, mà chỉ giới ở một vài nhóm giải pháp mà chúng tôi tâm đắc nhất và đã thực hiện có hiệu quả tại khối lớp 10, trong 2 năm học liền kề 2011-2012 và 20122013, thuộc đơn vị trường THPT Đoàn Kết, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Việc ứng dụng các nhóm giải pháp này phải hết sức linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh sao cho đạt hiệu quả tốt nhất. Trên cơ sở đó sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng rộng rãi trong toàn đơn vị và toàn ngành. - 17 - Do hạn chế về thời gian và năng lực nghiên cứu, đề tài chắc chắn không tránh khỏi hạn chế, chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện những thiếu sót, bất cập trong những năm học tới để đề tài được hoàn thiện hơn. Rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn. Người viết chuyên đề Phan Hoàng AÂn - 18 - VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Bộ GD&ĐT (2009), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng môn Lịch sử lớp 10, NXB Giáo dục - Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị (2003), Phương pháp dạy học Lịch Sử, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - Ngô Minh Oanh, Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh, 2006 - Nguyễn Xuân Trường (chủ biên), Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử 10, 11, NXB Hà Nội, 2007 - Lịch Sử 10 (Ban Cơ Bản), NXB Giaó dục, 2006 - “Di sản thế giới”, Tập 2, 4, NXB Trẻ, Hà Nội, 2002 - Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 THPT môn Lịch sử. NXB Giáo dục, 2006 - Nguồn Bách khoa toàn thư: http://vi.wikipedia.org - 19 - MỤC LỤC  Trang I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Thuận lợi 2. Khó khăn III. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 1.1. Cơ sở lý luận 1.2. Cơ sở thực tiễn 2. Nội dung và các biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1. Phân loại kỹ năng tự học bộ môn lịch sử 2.2. Một số hình thức rèn luyện kỹ năng tự học sử cho HS lớp 10 2.2.1. Rèn luyện kỹ năng tự học trên lớp  Kỹ năng định hướng động cơ học tập  Kỹ năng tổ chức các hoạt động học tập  Kỹ năng kết hợp nghe giảng - ghi chép = sử dụng sách giáo khoa khi giáo viên yêu cầu  Kỹ năng làm việc nhóm  Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học lịch sử 2.2.2. Rèn luyện kỹ năng tự học ở nhà  Kỹ năng sử dung sách giáo khoa  Kỹ năng sử dụng các loại đồ dùng trực quan  Kỹ năng sử dụng tư liệu tham khảo  Kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật phục dạy và học sử  Kỹ năng ôn luyện và làm bài thi IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VI. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ - 20 - 2 3 3 3 5 5 5 5 7 16 16 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan