Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
A- MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói riêng, Ngữ văn là môn học
trang bị cho học sinh những tri thức để đánh giá đúng các vấn đề văn học (bao gồm: tác
phẩm, tác giả, các quá trình văn học… ), có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng
khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận cũng như khả năng biết đánh
giá đúng đắn, khoa học các hiện tượng.
Song song với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành và phát triển khả
năng sản sinh văn bản mới (nói và viết).
Làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này. Nó giúp học sinh hình thành
những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn, trong đó dạng bài sáng tác văn học được chú
trọng đầu tiên (miêu tả, tường thuật, kể chuyện…). Trong nhà trường phổ thông, nhìn
chung không đặt ra yêu cầu sáng tác văn học. Tuy nhiên để phù hợp với lứa tuổi, học sinh
THCS được làm quen với kiểu sáng tác, tạo tiền đề cho các em có thể vận dụng tốt trong
quá trình học sau này.
Những bài văn hay loại này là những bài văn viết đúng quy cách, chân thật, có những
khám phá hồn nhiên về thiên nhiên và đời sống gia đình, xã hội …
Trong chương trình Ngữ văn THCS.Tuy đã được học văn tự sự từ lớp 6 (ở THCS)
nhưng vì nhiều lí do, học sinh làm loại văn này vẫn chưa tốt. Qua thực tế giảng dạy, tôi
thấy học sinh còn mắc nhiều lỗi mà nếu giáo viên có thể giúp các em khắc phục được thì
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
1
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
kết quả sẽ tốt hơn. Những hạn chế trong bài làm văn tự sự của học sinh một phần là do bản
thân các em, một phần do giáo viên chưa có biện pháp giúp đỡ phù hợp.
Là giáo viên được trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, tôi luôn trăn trở trước
thực trạng chất lượng bài viết văn tự sự của học sinh. Vì vậy tôi chọn đề tài “Rèn luyện
kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9”, với mục đích phân tích thực trạng chất
lượng bài viết của học sinh hiện nay, đối chiếu với phương pháp giảng dạy của giáo viên,
đề ra kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy, cách thức rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự
sự cho học sinh, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học văn, giải quyết tình hình
kém chất lượng trong dạy học văn hiện nay.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Giáo viên, học sinh lớp 9 trường THCS Tân Hiệp năm học 2010 -2011.
Một số tiết dạy văn bản, tiếng Việt và tập làm văn của giáo viên lớp 9 trong trường
mà tôi được dự giờ trao đổiû kinh nghiệm.
Bài viết của học sinh ở các lớp được giảng dạy năm học 2010 -2011.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Do thời gian và điều kiện của bản thân, trong phạm vi giải pháp, tôi tập trung đề cập
đến:
- Những cơ sở lý luận để nghiên cứu giải pháp.
- Thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
- Thực trạng bài viết văn tự sự của học sinh, thực trạng quá trình giảng dạy của giáo
viên.
- Những giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9 đạt kết quả
cao.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện giải pháp tôi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
a. Nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu nghiệp vụ dạy học môn Ngữ văn lớp 9, sách giáo khoa, sách giáo
viên, ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục, quản lý chuyên môn, các
giáo viên giỏi trong toàn quốc trên các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học…
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
2
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
b. Phân tích đối chiếu:
Phân tích đối chiếu yêu cầu giữa chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng đối với học sinh lớp
9 bậc THCS với những bài viết thực tế của học sinh, tìm ra những hạn chế chủ yếu của học
sinh khi viết bài tự sự.
c. Giả thuyết khoa học:
Đưa ra những giải pháp, những đề xuất có tính khoa học để giáo viên vận dụng vào
việc rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh nhằm phát huy khả năng tư duy,
khám phá, sáng tạo, năng lực giao tiếp.
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Từ năm 1998, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai dự án phát triển giáo dục
THCS nhằm đổi mới một cách toàn diện bậc học này. Thực hiện Nghị quyết số
40/2000/QH khóa 10 ngày 9/12/2000 của Quốc hội, tháng 9 năm 2002, cả nước bắt đầu
dạy học theo chương trình và SGK THCS mới bắt đầu từ lớp 6. Môn Ngữ văn là một trong
những môn học có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống các môn học của nhà trường
phổ thông cũng là môn học có nhiều thay đổi nhất trong việc đổi mới chương trình, SGK,
phương pháp đến đánh giá kết quả học tập. Nhiều vấn đề được đặt ra khi phải tiếp cận một
chương trình mới, trong đó vấn đề đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng học tập của
học sinh là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Chương trình SGK Ngữ văn lớp 9 được tổ chức
thực hiện từ năm 2005 -2006 đến nay đã được gần 6 năm học. Nội dung đổi mới chương
trình, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh đã được phản
ánh sôi nổi trên báo chí, trong hội thảo khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng,
song bài toán chất lượng là điều làm cho các nhà quản lý giáo dục, quản lý chuyên môn
phải tính toán.
Quan điểm đổi mới phương pháp dạy học chương trình Ngữ văn 9 là phải kết hợp
nhiều phương pháp trong dạy học, là phải “tích hợp nhiều phương pháp trong bài học, tiết
học và trong cả quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên cơ sở xác định phương pháp
chính gắn với đặc trưng của môn học. Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực,
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
3
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
phát huy năng lực chủ động, sáng tạo ở cả người dạy lẫn người học, chú trọng khái quát
nội dung kiến thức tạo thuận lợi để học sinh lĩnh hội và phát triển các thao tác tư duy khoa
học. Tăng cường và sử dụng hợp lý các phương tiện trong dạy học, “nâng cao chất lượng
hoạt động thực hành hướng tới đảm bảo sự phát triển năng lực cho mỗi cá nhân” (Tài liệu
bồi dưỡng giáo viên dạy SGK lớp 9 -Vụ giáo dục trung học trang 6,7). Lớp 9 là lớp cuối
của vòng II, đồng thời cũng là lớp cuối cùng của cấp THCS nên có một vị trí hết sức quan
trọng : vừa phải tổng kết được những kiến thức, kĩ năng được học tập, rèn luyện trong bốn
năm học, vừa phải chuẩn bị cho các kì thi, tạo tâm thế, tiềm lực cho học sinh học lên
THPT hoặc đi vào cuộc sống.
Tập làm văn tự sự trong chương trình lớp 9 là sự kế thừa và nâng cao kĩ năng làm
văn thể loại này mà học sinh đã được học, được rèn luyện từ các lớp dưới. Cùng với miêu
tả, biểu cảm, làm văn tự sự thuộc dạng sáng tác văn học. Đặc trưng cơ bản của kiểu bài là
kích thích trí tưởng tượng phong phú, xây dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh đối với
những sự việc, hiện tượng trong đời sống gia đình và xã hội, qua đó bồi dưỡng cho các em
những tình cảm tốt đẹp.
Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay.
Bài văn hay trước hết phải là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn
khổ nhà trường). Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết
phải đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy
cách…, đồng thời phải thể hiện sự sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú mà vẫn chân thật,
sinh động. Tuy nhiên, giúp học sinh làm được như thế không phải là dễ.
Năm 2008, Bộ Giáo dục tiếp tục triển khai cho giáo viên trên toàn quốc một số vấn
đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, trong đó phương pháp giảng dạy phân
môn Tập làm văn được chú trọng nhiều nhất cũng đã mở ra nhiều hướng suy nghĩ mới,
giúp cho giáo viên giảng dạy tốt hơn nếu biết tự nghiên cứu và vận dụng sáng tạo hơn.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
a. Thực tiễn của vấn đề nghiên cứu:
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
4
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
- Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn 9 nói chung, phân môn Tập làm
văn nói riêng đã dược quan tâm rất nhiều. Với sự chỉ đạo của các cấp quản lí chuyên môn,
về cơ bản, đại đa số giáo viên đã nắm được phương pháp, vận dụng sáng tạo theo tình hình
địa phương và theo đối tượng học sinh. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều giáo viên thực
hiện chưa đúng chức năng, chưa tích cực nghiên cứu, tìm ra phương pháp giảng dạy đạt
hiệu quả cao, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh chưa được nâng lên, trong đó chất
lượng bài viết văn tự sự rất đáng quan tâm. Kết quả các bài kiểm tra và thi học kì đạt rất
thấp, chất lượng bài làm của học sinh giỏi chưa thật xuất sắc.
- Đi sâu vào tìm hiểu thực trạng chúng ta có thể thấy được sự hạn chế trong phương
pháp giảng dạy của giáo viên lẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu của của học sinh:
+ Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa đảm bảo kết hợp và tích hợp giữa dạy Văn - Tiếng Việt và Tập làm
văn.
+ Giờ học văn bản, sự gợi mở giúp học sinh cảm thụ tác phẩm chưa đạt kết quả cao.
Học sinh thụ động buộc giáo viên giảng nhiều, làm việc nhiều, làm thay cho trò, làm tê liệt
sự hào hứng học văn bản của học sinh, do đó không kích thích được niềm say mê, chưa
khơi gợi ý tưởng sáng tác văn chương của các em. Giáo viên cũng chưa giúp học sinh hiểu
rõ và nắm vững các yếu tố nghệ thuật cơ bản khi xây dựng nên tác phẩm tự sự như tình
huống, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng… để các em học tập, vận
dụng.
+ Giờ Tiếng Việt đòi hỏi giáo viên dạy cho học sinh dùng tiếng Việt một cách chính
xác để giao tiếp, có cách diễn đạt tốt trong khi tạo lập văn bản, nhưng giáo viên chưa vận
dụng tối đa các tình huống giao tiếp, cho học sinh thực hành ít nên nhiều em viết sai chính
tả, nghèo vốn từ, dùng từ chưa chính xác, đặt câu chưa đúng ngữ nghĩa, ngữ pháp. Đây là
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bài văn.
+ Giờ Tập làm văn học sinh chưa được học đến nơi đến chốn. Giáo viên chưa có cách
giúp học sinh có được những kiến thức và kĩ năng theo chuẩn bằng những ví dụ mẫu linh
hoạt sáng tạo, gắn với thực tế đời sống hàng ngày, có tác dụng khắc sâu kiến thức (ngoài
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
5
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
SGK). Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến việc phát huy tinh thần tích cực chủ động của
học sinh khi học lý thuyết làm văn tự sự theo yêu cầu kết hợp sử dụng các yếu tố biểu cảm,
miêu tả nội tâm, nghị luận,… trước khi tạo lập văn bản hoặc bài thực hành luyện tập, luyện
nói. Khi xây dựng dàn ý cho bài làm văn tự sự, giáo viên dễ thiên về cảm nhận chủ quan
khi đưa ra những gợi ý, uốn nắn học sinh, khiến các em trở nên rụt rè, thiếu tự tin, vì vậy
mà khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh không được phát huy, cảm xúc bị gò bó.
- Việc xác định các phương pháp dạy tập làm văn cũng chưa thật sự phù hợp, tối ưu. Có
giáo viên chọn phương pháp bình giảng trong tiết cung cấp kiến thức về kiểu bài, chưa chú
trọng các phương pháp thực hành trong giờ luyện tập, ra bài tập về nhà…
- Giáo viên chưa nghiên cứu kĩ chuẩn kiến thức - kĩ năng, xác định đầy đủ mục đích
yêu cầu cần đạt, kĩ năng cần rèn luyện trong từng bài. Việc bố trí thời lượng cho tiết dạy
chưa hợp lý, chưa dành nhiều thời gian cho thực hành, giáo viên khó có thể rèn luyện kĩ
năng cho học sinh.
- Việc chấm bài của giáo viên cũng còn nhiều thiếu sót. Đôi khi giáo viên chỉ cho học
sinh biết điểm, có bài chấm không có lời phê nào hoặc phê bài còn qua loa, chưa cẩn thận,
chưa cụ thể. Đa số giáo viên phê bài rất chung chung, nhận xét khái quát. Nhiều lời phê,
nhận xét bên lề bài viết chưa giúp học sinh thấy được cụ thể lỗi sai của mình mà sửa. Các
em không biết phải làm như thế nào khi bị nhận xét là “kể chuyện chưa cụ thể, chân thực”,
hoặc “chuyện chưa có ý nghĩa sâu sắc”, “khô khan”. Các em cũng không rõ lý do tại sao,
vì lẽ gì mà đoạn văn, câu văn của mình bị phê là “lủng củng”, “câu què”, “tối nghĩa”, cũng
không hiểu có khi chỗ này “dùng từ” là nghĩa làm sao (sai hay đúng ? Nếu sai thì sai thế
nào?), chỗ kia “diễn đạt” là trục trặc hay trôi chảy, chỗ nọ một từ gạch chân là hay hay dở?
Như thế rất khó giúp học sinh hiểu rõ mà tự sửa được, rút kinh nghiệm được.
- Những giờ trả bài tiến hành không thống nhất theo chuyên đề mà ngành chuyên môn
đã triển khai. Đa số giáo viên thực hiện không mấy công phu . Giáo án trả bài của giáo
viên thường soạn qua quýt, không ghi rõ những lỗi cần phải sửa trên lớp, hoặc có thì cũng
không ghi rõ cách sửa; lỗi nhặt từ bài làm của học sinh không tiêu biểu khó có thể rèn
luyện những kĩ năng cần thiết nhất định. Có giáo viên trả bài rồi mới nhận xét ưu khuyết
điểm, hướng dẫn học sinh sửa chữa.
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
6
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
+ Về phía học sinh:
- Chưa coi trọng bộ môn so với các môn khoa học tự nhiên nên chưa đầu tư, chưa có
thái độ học tập đúng đắn; chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chưa chịu khó
đọc các tài liệu tham khảo thêm để mở rộng kiến thức.
- Trước một đề bài văn tự sự, các em ít chịu khó suy nghĩ, tưởng tượng sáng tạo, mà chỉ
đọc loáng thoáng, phóng bút viết tràng giang đại hải, không cần xác định phải kể theo trình
tự nào, các tình tiết nào cần phải kể rõ ràng, cụ thể, tình tiết nào nên lượt thuật, cách thể
hiện các nhân vật nhân vật chính, phụ như thế nào…cũng như ý nghĩa, bài học sâu sắc rút
ra từ câu chuyện. Nhiều bài văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách kể chuyện, chưa xây
dựng được cốt truyện, tình huống, sự việc một cách chân thực, sinh động, lời văn quá thô
thiển hoặc không được trong sáng, rõ ràng.
- Thiếu năng lực cảm thụ văn học, năng khiếu văn chương, hạn chế về khả năng, ý thức
nhận thức cuộc sống. Vì vậy làm văn tự sự chỉ mang tính gượng ép, , nhằm mục đích đối
phó là chính.
- Về ngữ pháp, kĩ năng dùng từ, viết câu của học sinh hiện nay còn bộc lộ nhiều yếu
kém. Trong bài viết của các em có nhiều câu què, câu cụt, câu tối nghĩa. Tình trạng mắc
lỗi chính tả, dùng từ sai cũng rất phổ biến. Có bài viết từ đầu đến cuối các em không sử
dụng dấu câu nào hoặc sử dụng không đúng.
* Những hạn chế chủ yếu khi học sinh viết bài văn tự sự ở lớp 9:
- Chưa nắm vững đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự, cách viết bài văn tự sự đã học ở
các lớp dưới, chưa xây dựng được câu chuyện có bố cục hoàn chỉnh, có cốt truyện hợp lí,
có ý nghĩa theo yêu cầu đề bài, cách kể chưa tự nhiên, chân thực, sinh động (kết hợp các
yếu tố miêu tả và biểu cảm)
- Chưa nắm được yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ viết bài văn tự sự ở lớp 9. Đó là
yêu cầu kết hợp yếu tố miêu tả nội tâm trong việc khắc họa đặc điểm, tính cách nhân vật;
kết hợp yếu tố nghị luận để làm nổi bật ý nghĩa sự việc, tô đậm tính chất triết lí của câu
chuyện; sử dụng hiệu quả các yếu tố đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm …
Do đó khi tạo lập văn bản tự sự các em thường mắc các khuyết điểm sau:
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
7
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
+ Tìm không ra sự việc để kể nên giới thiệu lòng vòng câu chuyện hoặc đi vào miêu
tả nhân vật quá nhiều.
+ Không biết lựa chọn chi tiết tiêu biểu, quan trọng để kể nên viết lan man, dài
dòng, lời thoại quá vụng về, thô thiển, thiếu tính thẩm mỹ, chọn lọc.
+ Kể diễn biến sự việc chưa sinh động, chân thực, hấp dẫn người đọc do chưa vận
dụng phù hợp, tự nhiên các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận.Thường thì các em hay
hạn chế ở việc thể hiện nội tâm nhân vật do không hiểu rõ quy luật tâm lí, bộc lộ cảm xúc
thiếu tự nhiên, thậm chí dẫn đến những sự việc hoặc kết thúc vô lí. Kết hợp yếu tố nghị
luận chưa khéo léo, tế nhị, làm giảm đi giá trị của câu chuyện.
+ Thực hiện nhiệm vụ từng phần trong bố cục ba phần của bài làm văn chưa đầy đủ.
Ví dụ khi viết phần mở bài, yêu cầu học sinh phải giới thiệu chung về câu chuyện, nhân
vật được kể, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện, nhưng nhiều em lại đi thẳng vào diễn biến cốt
truyện như các nhà văn thực thụ, được “phá cách”, và đôi khi cũng không cần nêu lên suy
nghĩ, ấn tượng gì của mình trong phần kết bài ( chỉ kết thúc câu chuyện). Như thế sẽ làm
cho ý nghĩa bài văn bị dàn trải, lại chưa mở ra được hướng suy nghĩ cho người đọc.
+ Kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, lối diễn đạt, cách hành văn còn nhiều hạn
chế. Đặc biệt, nhiều em chưa biết cách trình bày bài văn tự sự, ngắt đoạn không đúng chỗ,
không phân biệt lời thoại với lời kể.
b. Sự cần thiết của đề tài :
Đề tài có tác dụng giúp giáo viên Ngữ văn đối chiếu giữa lý luận với thực tế chất
lượng bộ môn mình giảng dạy, đặc biệt là chất lượng làm văn tự sự của học sinh lớp mình
phụ trách, vận dụng những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng, giải quyết một phần
tình hình học sinh học yếu kém bộ môn Ngữ văn như hiện nay, cũng là góp phần quan
trọng vào việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
3. NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
a. Đặt vấn đề:
- Yêu cầu chủ yếu của tập làm văn tự sự ở lớp 9 là củng cố tri thức và kĩ năng đã được
học ở các lớp dưới, đồng thời nâng cao hơn kĩ năng viết bài. Qua đó bồi dưỡng năng lực
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
8
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
quan sát, nhận thức và giáo dục tình cảm cho học sinh trước những sự việc, con người
trong đời sống xung quanh.
- Hơn nữa, chương trình Ngữ văn mới coi phần tập làm văn là sự tổng hợp của ngôn
ngữ và văn (tích hợp ngang) và nguyên tắc ôn cũ - hiểu mới (tích hợp đồng tâm), đảm bảo
truyền thụ tri thức có hệ thống khoa học (tích hợp dọc).
Khi làm bài tập làm văn, học sinh phải huy động tổng hợp kiến thức tiếng Việt để viết
đúng chính tả, câu đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác, phù hợp với phong cách văn bản
nhằm đạt được yêu cầu của đề bài và để có một bài văn hoàn chỉnh, phần văn bản có vai
trò hỗ trợ làm văn tự sự về phương pháp, đề tài sáng tác, kích thích trí tưởng tượng, óc
quan sát của học sinh. Bên cạnh đó, việc nắm vững phương pháp làm văn là yêu cầu không
thể thiếu được.
Như vậy Tập làm văn nói chung, làm văn tự sự nói riêng là môn học mang tính thực
hành toàn diện tổng hợp và sáng tạo, có vị trí đặc biệt trong chương trình Ngữ văn. Vì thế
giáo viên phải dạy tốt, học sinh phải học tốt ở tất cả các phân môn Tập làm văn, Văn học,
Tiếng Việt để chuẩn bị tốt cho việc thực hành tổng hợp này.
b. Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận văn học cho học sinh lớp 9:
b.1. Đối với bản thân giáo viên:
- Dạy học Ngữ văn cũng như nhiều môn học khác, giáo viên cần thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động nhận thức của học sinh.
Tăng cường tổ chức các hoạt động cho các em, chú trọng rèn luyện cho học sinh phương
pháp học và tự học một cách chủ động, tăng cường hoạt động cá nhân với nhóm, làm cho
các em tự đánh giá được năng lực và kết quả làm văn của mình.
- Nắm chắc các phương pháp giảng dạy nhằm tích cực hóa các hoạt động của người học.
Ngoài các phương pháp phổ biến như nêu vấn đề, vấn đáp, hoạt động hợp tác, giáo viên có
thể sử dụng lời nói nghệ thuật, thông báo, giải thích, trò chơi, trực quan… Các bước lên
lớp cần linh động, chú ý đến hoạt động giao tiếp. Đây là một biện pháp quan trọng nhằm
phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong việc tạo lập văn bản, phát huy vai trò
chủ thể của học sinh một cách thực sự. - Phân bố cân đối thời gian giữa dạy lý thuyết và
thực hành, quan tâm nhiều đến các thao tác rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Học
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
9
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
sinh là chủ thể làm chủ mọi thao tác dưới sự hướng dẫn của giáo viên, tránh áp đặt làm
giảm khả năng suy nghĩ, sáng tạo của các em.
- Như đã nói, Tập làm văn là môn học mang tính chất thực hành – tổng hợp, đòi hỏi học
sinh phải vận dụng cả kiến thức, kĩ năng về Văn học, Tiếng Việt. Do vậy, dạy học tập làm
văn không thể tách rời hai phân môn này. Căn cứ vào chương trình, chuẩn kiến thức – kĩ
năng, giáo viên phải chú ý vận dụng tích hợp các phân môn một cách thường xuyên, nhuần
nhuyễn và linh hoạt. Trong đó, Tập làm văn vẫn đóng vai trò chủ đạo.
* Dạy học phân môn Tập làm văn:
Để rèn luyện tốt kĩ năng làm bài văn tự sự cho học sinh, việc hướng dẫn tìm hiểu lý
thuyết là rất quan trọng. Trước hết giáo viên cần cho học sinh nắm lại những kiến thức đã
học về kiểu bài, sau đó mới hình thành kĩ năng về Văn học, Tiếng Việt, làm văn theo yêu
cầu của toàn cấp THCS. GV cần cho học sinh ôn lại thế nào là văn tự sự, các yếu tố quan
trọng, cơ bản trong văn tự sự như tình huống, cốt truyện, nhân vật, nhấn mạnh vai trò của
người kể chuyện và ngôn ngữ kể.
Đối với kiểu bài tự sự, học sinh đã được học những kiến thức và kĩ năng cơ bản từ lớp 6
và được nâng cao hơn ở lớp 8 (kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm). Trong chương trình
lớp 9, làm văn tự sự đạt đến yêu cầu cao nhất, có sự kết hợp gần như tất cả các phương
thức biểu đạt. Nếu ở các lớp dưới, bài làm văn tự sự phải đạt mức độ đúng thì đến lớp 9,
bài văn này không chỉ phải “đúng” mà còn thực sự “hay”. Yêu cầu nâng cao kĩ năng viết
bài văn tự sự được trình bày qua các đơn vị bài học chủ yếu là: Miêu tả trong văn bản tự
sự; Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự; Nghị luận trong văn bản tự sự; Đối thoại, độc
thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự; Người kể chuyện trong văn bản tự
sự...Và giáo viên sẽ từng bước củng cố, hướng dẫn học sinh hoàn thiện kĩ năng làm bài ở
Bài viết văn tự sự (Bài viết số 2 và số 3)
Trước khi đi vào tìm hiểu và rèn luyện kĩ năng thực hành vận dụng các yếu tố trên vào
bài văn tự sự, giáo viên cần giúp học sinh nắm lại kiến thức cơ bản về văn tự sự.VD: Thế
nào là văn tự sự ? (Văn bản chủ yếu dùng phương thức tự sự – là phương thức trình bày
một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, để từ đó nêu lên một ý nghĩa nào
đó); các yếu tố quan trọng không thể thiếu trong văn bản tự sự là gì ? (sự việc, nhân vật,
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
10
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
cốt truyện, ngôi kể…). Sau đó giúp các em hiểu rõ vai trò, tác dụng của các yếu tố đan xen
trong bài văn nghị luận và có được kĩ năng làm bài thông qua từng đơn vị kiến thức.
- Bài Miêu tả trong văn bản tự sự (Bài 6 - tiết 33):
Học sinh đã thấy được vai trò và ý nghĩa của yếu tố miêu tả trong văn tự sự ở lớp 8.
Song qua việc phân tích đoạn văn trích theo yêu cầu SGK, cần cho các em hiểu rõ hơn
rằng việc miêu tả tái hiện lại những hình ảnh, trạng thái, đặc điểm, tính chất… của sự vật,
con người và cảnh vật trong tác phẩm sẽ làm cho lời kể trở nên cụ thể, sinh động và hấp
dẫn.
Cần dành thời gian cho học sinh thực hành luyện tập nhận biết, phân tích tác dụng của
yếu tố miêu tả trong văn tự sự và viết đoạn văn tự sự kết hợp miêu tả. Uốn nắn, sửa chữa
để hoàn thiện kĩ năng hơn.
VD: Bài tập 1 (SGK/ trang 92): Các yếu tố miêu tả người và tả cảnh trong đoạn trích
Chị em Thúy Kiều và Cảnh ngày xuân nhằm tái hiện lại chân dung “mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười” của Thúy Kiều và Thúy Vân và làm nổi bật cảnh sắc mùa xuân,
làm cho văn bản sinh động, hấp dẫn và giàu chất thơ.
Bài tập 2 (SGK/trang 92): Có thể hướng dẫn học sinh viết đoạn văn kể về việc chị em
Thúy Kiều đi chơi trong buổi chiều ngày Thanh minh dựa vào đoạn trích Cảnh ngày
xuân: (Lưu ý xác định các từ ngữ có tác dụng gợi tả hình ảnh thiên nhiên, không khí lễ
hội, trạng thái tâm lí con người…)
VD: “Một buổi chiều xuân trong tiết Thanh minh, những cánh chim én rộn ràng bay
liệng như thoi đưa giữa bầu trời trong sáng, thảm cỏ non như trải rộng tới chân trời,
trên cành lê điểm một vài bông hoa trắng. Chị em Thúy Kiều hòa vào dòng người nhộn
nhịp đi chơi xuân. Tiết Thanh minh mọi người sắm sửa lễ vật đi tảo mộ và vui hội đạp
thanh. Quang cảnh thật rộn ràng, tấp nập. Khi mặt trời ngả bóng về tây, không khí lặng
dần, chị em Kiều ra về trong tâm trạng bâng khuâng”.
Ngoài bài tập SGK, giáo viên có thể ra thêm bài tập về nhà cho học sinh: Viết đoạn văn
ngắn kể về một sự việc mà em quan sát, chứng kiến.
- Bài “Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự” (Bài 8 – tiết 40):
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
11
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
Nhân vật là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm tự sự. Để xây dựng nhân vật nhà văn
thường miêu tả ngoại hình và miêu tả nội tâm. Miêu tả nội tâm nhằm khắc họa “chân dung
tinh thần” của nhân vật, là tái hiện lại những trăn trở, dằn vặt, những rung động tinh vi
trong tình cảm, tư tưởng của nhân vật (những yếu tố này nhiều khi không thể tái hiện được
bằng miêu tả ngoại hình). Vì thế miêu tả nội tâm có vai trò và tác dụng to lớn trong việc
khắc họa đặc điểm, tính cách nhân vật.
Liên hệ, hướng dẫn học sinh phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích và Lão Hạc
(SGK) để biết được các cách thức khác nhau để miêu tả nội tâm nhân vật: diễn tả trực tiếp
những ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm của nhân vật; cũng có thể miêu tả nội tâm gián tiếp thông
qua miêu tả cảnh vật, nét mặt, cử chỉ, trang phục…của nhân vật. Từ đó rèn luyện kĩ năng
sử dụng các yếu tố miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự. Có thể tổ chức theo nhóm, gợi ý
để học sinh thực hành tại lớp các bài tập 1,3 trong phần Luyện tập (SGK).
Bài tập 1: Thuật lại đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều bằng văn xuôi, chú ý miêu tả nội
tâm của nàng Kiều.
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuyển thành văn xuôi đoạn trích, lưu ý về độ dài đoạn
văn, lựa chọn ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ ba (dựa vào đoạn trích thơ đã học để xác
định các sự việc diễn ra và tâm trạng của Kiều lúc đó).
VD: Sau khi Kiều quyết định bán mình chuộc cha, mụ mối đưa một gã đàn ông đến nhà
Vương ông. Gã đàn ông ấy khoảng hơn bốn mươi tuổi, ăn mặc chải chuốt tới mức đỏm
dáng. Hắn xưng là Mã Giám Sinh nhưng khi vào nhà, chủ nhà hỏi han trò chuyện thì hắn
bộc lộ rõ chân tướng là một kẻ lưu manh vô học bằng những câu trả lời cộc lốc, trống
không, với cử chỉ ngồi tót lên ghế trên một cách sỗ sàng. Gã ngồi gật gù, có vẻ ưng ý khi
xem xét, “kiểm tra” tài sắc của Kiều như một món hàng ngoài chợ, rồi bắt đầu một cuộc
mặc cả đúng nòi con buôn… Trong khi mụ mối và Mã Giám Sinh dường như đang “say
đòn” với cuộc mua bán thì nàng Kiều đáng thương chết lặng đi trong nỗi đau đớn, tuổi
nhục ê chề… Nàng đâu ngờ cuộc đời mình lại đến nông nỗi này ?… Cuối cùng thì cuộc
mặc cả cũng kết thúc, một người con gái tài sắc, đoan trang, hiếu thảo được định giá
“vàng ngoài bốn trăm”.
Bài tập 2: Ghi lại tâm trạng của em sau khi để xảy ra một chuyện có lỗi với bạn.
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
12
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
Cần lưu ý học sinh kể lại sự việc không hay mà mình gây ra cho bạn là việc gì, diễn ra
như thế nào, tâm trạng của em sau khi gây ra việc không hay đó ra sao, có thể miêu tả nội
tâm bằng cách nào. Cho học sinh tham khảo văn bản Bài học đường đời đầu tiên (Ngữ
văn 6, tập hai), xác định đâu là kết hợp miêu tả nội tâm của nhân vật trong bài, từ đó vận
dụng vào bài làm của mình. (Nên viết ngắn gọn)
VD: Đoạn văn miêu tả nội tâm: “Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng tôi. Còn Dế
Choắt than thở thế nào, tôi cũng không để tai. Hồi ấy, tôi có tính tự đắc, cứ miệng mình
nói tai mình nghe chứ không biết nghe ai, thậm chí cũng chẳng để ý có ai nghe mình
không”.
(Theo Dế mèn phiêu lưu kí)
Gọi 2 - 3 em trình bày, cả lớp cùng góp ý sửa chữa. Giáo viên bổ sung, uốn nắn. Có
thể đọc đoạn văn cho học sinh tham khảo:
Một hôm tôi bị mất cây bút kim tinh mà người cậu vừa mới tặng. Tôi vừa buồn vừa sợ
nên khóc hu hu. Cô giáo bảo cả lớp mở cặp sách cho cô khám xét. Cả lớp lào rào tiếng
mở cặp, xì xầm, bàn tán… Chợt có một người không chịu mở cặp cho cô xem. Đó là Hạnh,
cô bạn ở cạnh nhà tôi.Cô bé rất say mê đọc truyện và thích những đồ vật lung linh, đẹp
mắt. Mặt Hạnh tái mét. Cô giáo giật lấy chiếc cặp mở toang ra. Và tôi thấy có cây bút
của mình ở trong đấy.Cả lớp làm ầm lên, cô hỏi Hạnh: “Tại sao em lại lấy cắp của
bạn?”Hạnh giàn giụa nước mắt , giọng đứt quãng: “Da ï! Thưa… em không lấy cắp…
Em nhặt được ạ !”… Cô giáo bảo: “Nếu nhặt được của rơi thì em phải trả lại cho người
đánh mất chứ. Em làm cô thất vọng quá”. Tôi tức giận ném cho Hạnh cái nhìn khinh bỉ:
“Bạn đừng nói dối ! Đồ ăn cắp”. Và từ đó tôi bắt đầu xa lánh Hạnh.
… Rồi một hôm đang giờ học, Hạnh mang lên cho cô giáo một hộp bút chì màu bảo là
nhặt được. Tuần sau, Hạnh lại mang lên một cuốn tập mới, rồi một số tiền nhặt được… Có
lúc tôi cảm thấy dường như mình có lỗi với Hạnh.
Một hôm, mẹ Hạnh hớt hải chạy sang xin mẹ tôi một củ gừng. Hạnh bị cảm lạnh. Tôi cũng
theo mẹ chạy sang. Mẹ Hạnh kể dạo này hễ đi học về là Hạnh tranh thủ đi hốt trấu hoặc
ra ruộng bắt cua về bán, dành dụm tiền để ủng hộ cho các bạn nghèo, học giỏi. Hạnh vừa
nhờ mẹ mua một chiếc khăn tay mới để tặng bạn… Tôi dần dần vỡ lẽ. Thì ra bấy lâu nay
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
13
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
Hạnh không hề nhặt được của rơi. Hạnh âm thầm kiếm tiền mua đồ mang đến lớp bảo là
nhặt được. Hạnh muốn chuộc lại lỗi lầm của mình. Còn cây bút của tôi có thể đúng là
Hạnh đã nhặt được. Tôi buồn quá, bật khóc… Cho đến bây giờ mỗi lần nhớ đến tuổi thơ
tôi lại nhớ đến Hạnh, nhớ con ăn cắp… như nhớ một bài học tuổi thơ, một kỉ niệm khó
phai mờ.
- Bài Nghị luận trong văn bản tự sự ( Bài 10 – tiết 50) và “Luyện tập viết đoạn văn
tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận (Bài 12 – tiết 60):
Có thể nói tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất với cuộc sống. Mà cuộc sống thì hết
sức đa dạng, phong phú, với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, tất cả các kiểu nhân
vật, các mẫu người ta vẫn thường gặp hằng ngày. Để tập trung khắc họa kiểu nhân vật hay
triết lý, hay suy nghĩ, trăn trở, về lí tưởng, về cuộc đời, về yêu ghét, vui buồn… như nhân
vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc, hoặc để khắc họa kiểu nhân vật ăn nói khúc chiết,
gãy gọn “khôn ngoan” như Hoạn Thư trong Truyện Kiều,… Nam Cao cũng như Nguyễn
Du không thể không dùng các yếu tố nghị luận để tô đậm tính cách nhân vật mà mình
muốn khắc họa. Hoặc để thể hiện một quan điểm, lập trường, cách nhìn nhận, đánh giá,
một ý nghĩa triết lý nào đó trong câu chuyện, người ta có thể sử dụng kết hợp yếu tố nghị
luận. Trong một văn bản tự sự thì nghị luận chỉ là những yếu tố đơn lẻ, biệt lập trong một
tình huống cụ thể, một sự việc hay một nhân vật cụ thể, đan xen “thấp thoáng”, cốt để làm
nổi bật sự việc và con người, làm cho tự sự thêm sâu sắc. Bài học lý thuyết cần giúp học
sinh nắm được vai trò, tác dụng này của yếu tố nghị luận trong văn tự sự. Yếu tố nghị luận
thường được biểu hiện trong văn bản tự sự bằng cách:
- Người viết (kể) và nhân vật nêu lên các ý kiến, nhận xét cùng các lí lẽ dẫn chứng để
người đọc (người nghe) phải suy ngẫm về vấn đề đó. Thường xuất hiện trong các
cuộc đối thoại, độc thoại.
- Dùng các từ ngữ và kiểu câu mang tính chất lập luận.
Bài luyện tập phải hướng tới rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn tự sự có sử
dụng yếu tố nghị luận, qua đó củng cố thêm kiến thức về văn tự sự như: sự việc, người kể,
ngôi kể, trình tự kể… Từ sự phân tích vai tró, tác dụng của yếu tố nghị luận trong đoạn văn
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
14
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
Lỗi lầm và sự biết ơn, nên dành nhiều thời gian hướng dẫn học sinh làm bài tập thực hành
viết đoạn văn (mục II).
VD: Bài tập 1: (SGK trang 161) Viết một đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp. Trong buổi
sinh hoạt lớp đó, em đã phát biểu ý kiến để chứng minh Nam là một người bạn tốt. (hoặc
bầu chọn một bạn trong lớp làm lớp trưởng chẳng hạn)
Giáo viên cần gợi ý cho học sinh bằng cách nêu câu hỏi như:
- Buổi sinh hoạt lớp diễn ra như thế nào? (thời gian, địa điểm, ai là người điều khiển,
không khí của buổi sinh hoạt lớp ra sao,…)
- Nội dung buổi sinh hoạt là gì ? Em đã phát biểu về vấn đề gì ? Tại sao lại phát biểu
về việc đó ?
- Em đã thuyết phục cả lớp rằng Nam là người bạn rất tốt như thế nào (lí lẽ, ví dụ, lời
phân tích,…)
Yêu cầu học sinh viết đoạn văn trong 10 phút theo các gợi ý đã trao đổi. Gọi một em đọc
đoạn văn và hướng dẫn cả lớp phân tích, góp ý. Giáo viên nhận xét, đánh giá.
Có thể cho học sinh tham khảo đoạn văn sau:
Sáng nay, trong buổi sinh hoạt lớp với chủ đề “Ai là người bạn tốt nhất?”.Lớp trưởng
Uyên sau khi nhận xét chung tình hình của lớp trong tuần, bạn đã thông qua kết quả đánh
giá 5 người bạn tốt nhất do các tổ bình bầu. Uyên vừa dứt lời, cả lớp vỗ tay đồng thanh
nhất trí. Nhưng riêng lòng tôi cứ day dứt về trường hợp của Nam. Nam không được ban
cán bộ lớp xét duyệt vì lí do bạn đi học muộn một buổi. Sau khi cân nhắc, suy nghĩ, tôi
quyết định phát biểu ý kiến của mình về trường hợp của Nam. Tôi nói:
- Thưa các bạn, lớp ta ai cũng biết Nam là một học sinh học giỏi, một cán bộ lớp
luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nam vốn ít nói, nhưng lại rất chan hòa
với bạn, sẵn sàng giúp đỡ các bạn một cách âm thầm như giảng lại bài cho bạn Thanh
bị ốm, đưa Vân về tận nhà khi xe bạn bị hỏng giữa trưa hè, chân thành, tế nhị góp ý
khi bạn chưa nghiêm túc trong giờ kiểm tra… Lí do Nam đi học muộn cũng bởi sáng
hôm đó, trên đường đi học Nam đã giúp em Mai lớp 6A bị ốm bất thường cấp cứu vào
bệnh viện. Tôi nghĩ: người bạn tốt là người không những biết chia sẻ khó khăn với bạn
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
15
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
bè, sẵn sàng giúp đỡ người khác mà còn dám thẳng thắn phê bình giúp bạn tiến bộ. Tôi
khẳng định: Nam là người bạn rất tốt của chúng ta !
Tôi vừa dứt lời, cả lớp hướng về phía Nam vỗ tay rào rào tán thưởng. Thậm chí có bạn
còn đề nghị Nam là đội viên xuất sắc trong đợt thi đua này. Vâng, phẩm chất người bạn
tốt phải thể hiện từ ý nghĩ, cử chỉ, đến việc làm cụ thể chứ đâu phải chỉ ở lời nói !
Bài tập 2: Viết đoạn văn kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu
sắc của người bà kính yêu đã làm cho em cảm động.
Cần gợi ý cho học sinh xác định:
- Người bà đã để lại một việc làm, lời nói hay một suy nghĩ? Điều đó diễn ra trong
hoàn cảnh nào ?
- Nội dung cụ thể là gì ? Nội dung đó giản dị mà sâu sắc, cảm động như thế nào ?
- Suy nghĩ về bài học rút ra từ câu chuyện trên.
Học sinh dựa vào đoạn văn tham khảo SGK để làm. (Về nhà làm và trình bày ở phần
KTBC trong giờ học sau)
- Bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự (Bài 13 – tiết 64):
Nhân vật trong tự sự được miêu tả trên nhiều phương diện: ngoại hình, nội tâm, hành
động, ngôn ngữ, trang phục,… Ở các lớp 6,7,8 học sinh đã học nhiều về miêu tả nhân vật ở
các mặt về ngoại hình, hành động, trang phục… Ngữ văn 9 tập trung xem xét nhân vật ở
phương diện ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật thể hiện trong tự sự bao gồm ngôn ngữ đối
thoại và ngôn ngữ độc thoại. Trong độc thoại có độc thoại thành lời và độc thoại nội tâm
(nói thầm với chính mình, không thành lời). Ngôn ngữ là phương tiện nghệ thuật để nhà
văn khắc họa tính cách và phẩm chất nhân vật khá rõ nét. Qua hướng dẫn học sinh tìm hiểu
đoạn trích từ truyện ngắn Làng của Kim Lân (theo câu hỏi SGK), giáo viên giúp các em
thấy được:
- Hình thức đối thoại tạo cho câu chuyện có không khí gần gũi, thật như cuộc sống
đang diễn ra trong thực tế; tạo tình huống để khai thác nội tâm nhân vật; thể hiện tư tưởng,
thái độ tình cảm của người nói.
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
16
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
- Hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm giúp cho người đọc cảm nhận được chiều
sâu tâm lí tinh tế, nhạy cảm của nhân vật; góp phần khắc họa thành công tính cách nhân
vật.
Sau bài học này, giáo viên chú ý hướng dẫn, yêu cầu học sinh thực hiện bài tập 2
(SGK) ở nhà: Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề tài tự chọn, trong đó sử dụng cả
hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm.(Kiểm tra, chấm điểm ở giờ học sau).
Lưu ý lời đối thoại phải được chọn lọc tránh sa vào “vụn vặt”, thể hiện ý nghĩ, thái độ tình
cảm, tính cách của nhân vật, có tác dụng tái hiện câu chuyện một cách sinh động; mỗi lượt
thoại được đánh dấu bằng dấu gạch ngang đầu dòng.
Lời độc thoại, độc thoại nội tâm để biểu hiện tâm trạng nhân vật: day dứt, hối hận, xúc
động, biết ơn, lo lắng, vui mừng…
Cho học sinh tham khảo những đoạn văn sử dụng tốt các yếu tố này (bài làm hay của
học sinh).
VD: “… Tôi chỉ nhớ ánh mắt rưng rưng , Mai nhìn tôi, đầy tức giận, môi run rẩy:
- Đi ra ngay !
Tôi chạy vụt đi, lòng nặng nề vô cùng. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Mai giận dữ
như vậy. Tôi chạy, chạy như trốn ánh mắt ấy, tôi muốn khóc quá. Tôi rất sợ , sợ sự giận
dữ Mai ném cho tôi, sợ cả chính việc mình vừa làm. Về đến nhà, tôi đóng sập cửa phòng
lại. Tôi thở hổn hển, chân tôi đứng không vững nữa, tôi bần thần ngồi xuống ghế như
không tin chuyện vừa xảy ra. Lúc bình tĩnh lại, tôi tự trách mình sao lại làm như vậy. “Tại
sao tôi lại không chiến thắng được tính tò mò của mình? Tại sao?…”. Tôi buồn bực
quăng cả chồng sách trên bàn xuống đất. Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt, không
yên.”
(Kể lại một lần trót xem nhật kí của bạn)
- Bài Người kể chuyện trong văn bản tự sự (Bài 14 – tiết 70):
Ngữ văn 9 tiếp tục nâng cao một bước về người kể chuyện và ngôi kể trong văn tự sự.
Người kể là ai, xuất hiện ở ngôi nào, xưng là gì? Đó là người trong cuộc hay ngoài cuộc?
Cũng là sự việc và con người ấy, nhưng nếu thay đổi ngôi kể, thay đổi người kể thì nội
dung hiệc thực được phản ánh và ý nghĩa của câu chuyện có thể rất khác nhau. Cần giúp
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
17
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
học sinh thấy được đặc điểm, tác dụng của hai hình thức người kể chuyện trong văn bản tự
sự:
+ Người kể chuyện theo ngôi thứ ba: là người giấu mình, nhưng cái nhìn của
người kể này lại có mặt ở tất cả mọi nơi trong văn bản, đã biết hết mọi sự việc, nhìn thấu
được nhân vật trong truyện.
+ Người kể chuyện theo ngôi thứ nhất: người kể xưng “tôi” , giúp cho người kể dễ
đi sâu vào tâm tư tình cảm, miêu tả được những diễn biến tâm lí tinh vi, phức tạp trong
nhân vật “tôi”, nhưng khó tạo ra cái nhìn nhiều chiều, dễ gây nên sự đơn điệu trong giọng
văn trần thuật.
Vai trò của người kể chuyện là dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện, kết nối các sự
việc, giúp người đọc hiểu về nhân vật, đưa ra nhận xét, đánh giá về những điều được kể.
Việc thay đổi ngôi kể trong văn tự sự để thay đổi điểm nhìn khác nhau là rất có ý nghĩa.
- Thực hành Viết bài Tập làm văn số 2 (Văn tự sự – tiết 34,35):
Trước khi làm bài, giáo viên cần gợi nhắc cho học sinh nắm lại các bước làm một bài
văn nói chung và bài văn tự sự nói riêng đã được học, đó là:
- Tìm hiểu đề, tìm ý.
- Lập dàn ý.
- Viết bài.
- Đọc lại bài và sửa chữa.
Yêu cầu chủ yếu của bài viết này là học sinh viết được bài văn tự sự kết hợp với miêu
tả cảnh vật, con người, hành động. Giáo viên có thể chọn một trong các đề bài ở SGK –
Ngữ văn 9 để cho học sinh làm.
Điều cần thiết là phải khơi gợi được trí tưởng tượng của học sinh sao cho hợp với quy
luật của đời sống, tâm lí tình cảm khi tái hiện một sự việc nào đó.(Dặn dò học sinh suy
nghĩ, tìm ý cho các đề bài ở nhà).
Trên lớp, sau khi ghi đề bài cụ thể, có thể dành một khoảng thời gian ngắn để gợi ý cho
học sinh lập dàn bài.
VD:
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
18
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
Đề bài: Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu
ngày.
+ Mở bài: Giới thiệu về giấc mơ ( Em nằm mơ lúc nào ? Trong mơ em gặp lại người
thân nào của mình ? Người ấy hiện đang đi công tác xa, chuyển chỗ ở tới nơi xa hay đã
mất ?).
+ Thân bài: Kể lại diễn biến câu chuyện trong mơ. Có thể là:
* Người ấy và em gặp nhau ở đâu? Khi gặp lại em thấy người ấy như thế nào? (Tả
quang cảnh, nét mặt, dáng đi, giọng nói, nụ cười…).
* Người ấy làm gì, nói gì với em? Sự việc nào đáng nhơ ù? (kể và tả sự việc ấy).
* Kết thúc cuộc gặp gỡ là sự việc gì ? (VD: Người ấy ôm em thật lâu, xúc động,
dặn dò).
* Một sự việc nào đó (chuông đồng hồ hoặc tiếng ai gọi…) đưa em trở về thực tại.
+ Kết bài: Cảm nghĩ của em về giấc mơ. (nuối tiếc, nhớ người ấy, hứa với lòng sẽ thực
hiện lời dạy của ngươiø ấy trong mơ…).
- Thực hành Viết bài Tập làm văn số 3 (Văn tự sự – tiết 68,69):
Yêu cầu của bài viết này là học sinh phải biết vận dụng những kiến thức đã học ở phần
TLV lớp 9 để thực hành viết một bài văn tự sự có sử dụng các yếu tố miêu tả nội tâm và
nghị luận.
Nhằm chuẩn bị cho bài viết số 3, giáo viên có thể giới thiệu một số đề bài cho học
sinh tham khảo, định hướng cốt truyện. (Có thể ngoài 4 đề bài trong SGK).
Trình tự hướng dẫn học sinh làm bài cũng giống như bài viết số 2. Tuy nhiên, cần lưu
ý việc vận dụng các yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận trong bài viết; và tùy thuộc vào
hoàn cảnh câu chuyện mà xây dựng những yếu tố tưởng tượng hợp lí.
VD:
Đề bài: Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong Bài thơ về
tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ và trò
chuyện đó.
Tình huống mà đề bài giả định là gặp lại người chiến sĩ lái xe năm xưa trong bài thơ đã
học. Như thế để viết được bài văn này, học sinh cần nắm được nội dung hình tượng người
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
19
Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9
chiến sĩ lái xe trong bài thơ (những suy nghĩ, tình cảm, những đặc điểm, phẩm chất của
anh bộ đội trong chiến tranh…). Từ đó kể lại cuộc gặp gỡ. Có thể gợi ý cho học sinh xây
dựng dàn bài như sau:
+ Mở bài: Giới thiệu tình huống cuộc gặp gỡ. (trong buổi họp mặt cựu chiến binh,
chuyến về thăm chiến trường xưa, trong mơ…).
+ Thân bài: Kể diễn biến cuộc gặp gỡ, trò chuyện.
* Hoàn cảnh câu chuyện: quang cảnh, thời gian cuộc gặp (trên Trường Sơn, giờ
nghỉ ngơi hay ở trọng điểm…).
* Nhân vật người chiến sĩ lái xe: giọng nói, nụ cười, khuôn mặt, trang phục…
* Nội dung cuộc trò chuyện: những khó khăn gian khổ trong chiến tranh, suy nghĩ,
hành động của người lính…(đối thoại)
* Những suy nghĩ, tình cảm của người viết về người chiến sĩ lái xe, về cuộc chiến
tranh và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với quá khứ lịch sự của cha anh cũng như đối với
hiện tại.( đan xen miêu tả nội tâm và nghị luận, sử dụng hình thức độc thoại và độc thoại
nội tâm).
+ Kết bài: Kết thúc cuộc gặp gỡ, ấn tượng sâu sắc (rút ra bài học về lẽ sống…)
- Thực hiện chấm bài và trả bài:
Muốn rèn luyện kĩ năng viết bài tập làm văn, giáo viên phải biết học sinh còn hạn chế
ở mặt nào. Bài viết của học sinh thể hiện rõ nhất các kĩ năng làm bài tập làm văn nói
chung như bố cục, diễn đạt, ngữ pháp, chính tả, kĩ năng làm bài tự sự nói riêng, kết hợp tự
nhiên các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận… Trong quá trình chấm bài giáo viên đối
chiếu bài viết của học sinh với tất cả những yêu cầu ấy để cho học sinh lời nhận xét trên
bài làm chính xác, giúp các em nhận thức đúng sai, thiếu sót, rút ra kinh nghiệm để viết
bài đạt kết quả tốt hơn trong những lần sau. Tránh không phê gì hoặc chỉ gạch chân các
lỗi.
- Giáo viên cần thực hiện tốt tiết trả bài viết cho học sinh theo chuyên đề của Sở Giáo
dục đã triển khai ở các năm học trước. Các bước, các nội dung phải tiến hành trong tiết
này là:
1. Đề bài (ghi lại đề bài đã cho kiểm tra).
Người thực hiện: Lê Thị Mỹ Lam
Năm học 2010-2011
20
- Xem thêm -