Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn rèn luyện khả năng cảm thụ văn học cho học sinh trung học phổ thông...

Tài liệu Skkn rèn luyện khả năng cảm thụ văn học cho học sinh trung học phổ thông

.DOC
13
959
68

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT HỒNG BÀNG Sáng kiến kinh nghiệm Đề tài RÈN LUYỆN KHẢ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Họ tên giáo viên: ĐỖ THỊ HỒNG NHUNG Tổ: Ngữ văn Năm học: 2012 – 2013 Trang 1 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị Trường THPT Hồng Bàng Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KHẢ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Người thực hiện: Đỗ Thị Hồng Nhung Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục:…………………………. - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn  - Lĩnh vực khác: ............................................ (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học: 2012-2013 Trang 2 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: ĐỖ THỊ HỒNG NHUNG 2. Ngày tháng năm sinh: 25/12/1976 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: Trường THPT Hồng Bàng 5. Điện thoại: 0979 727 899 6. Fax: (CQ)/ 0613741284 (NR); ĐTDĐ: E-mail: 7. Chức vụ: Phó Chủ tịch Công đoàn 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Hồng Bàng II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân - Năm nhận bằng: 2001 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Ngữ văn Số năm có kinh nghiệm: 12 - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 12 năm gần đây: 1. Phong cách giảng dạy của giáo viên bộ môn văn- Tiếng việt bậc THPT. 2. Chuyên đề: Một vài suy nghĩ khi phân tích thơ thất ngôn bát cú Đường luật. 3. Tiết dạy nghị luận xã hội. Trang 3 RÈN LUYỆN KHẢ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nghề dạy học là nghề cao quý. Người giáo viên một khi chọn nghề dạy học là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn qua mỗi môn được dạy trong nhà trường. Mỗi môn học thì việc dạy và học có đặc thù riêng của nó. Môn văn cũng không ngoại lệ. Không giống với bộ môn khác trong nhà trường, môn văn có một đặc trưng riêng, để cảm thụ được nó người học phải có một khả năng tư duy trừu tượng cao, người học văn không chỉ đơn thuần nắm được nội dung tác phẩm mà phải rung cảm trước nó, có như vậy mới chiếm lĩnh hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm, mới yêu thích môn văn. Hơn nữa, thực tế theo nhu cầu của cuộc sống hiện nay đại đa số học sinh rất thờ ơ với môn văn, không hứng thú, học chống đối, chỉ chú tâm đến các môn tự nhiên do cơn lốc của cơ chế thị trường, học sinh yêu thích văn chương ngày một ít đi vì theo các em chọn lựa các môn tự nhiên dễ học và cho rằng dễ tìm trường thi, có cơ hội tìm được việc làm, còn theo văn chương đã ít trường thi lại còn khó xin được việc. Ngoài ra khối thi D, C các ngành không phong phú bằng khi thi các khối A, B… Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn trong trường THPT và đa số dạy lớp 12, tôi đã từng giật mình và nhận thấy một thực tế đáng buồn khi học sinh hỏi: “ Cô ơi, học môn ngữ văn để làm gì ạ? …nghèo lắm cô ơi!”. Hoặc khi chọn các em đi thi học sinh giỏi văn thì một số em từ chối , thích thi môn khác. Đúng thật, là một giáo viên đã khó với sự nghiệp trồng người mà dạy văn lại càng khó hơn, bản thân tôi từng trăn trở với bao câu hỏi: làm thế nào để các em yêu thích môn văn và có niềm đam mê, khao khát học văn? Để có được điều này, theo tôi là phải rèn luyện cho các em khả năng cảm thụ văn học. Khi các em thực sự “sống” với tác phẩm thì các em sẽ hiểu và yêu thích môn văn, đó là lí do tôi chọn đề tài này. II. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI: Nghiên cứu trong diện hẹp: - Đối tượng: học sinh THPT Hồng Bàng, cụ thể hai lớp 12A1 (lớp chọn khá của trường) và lớp 12A12 (lớp yếu nhất của trường). - Kiến thức văn học: các tác phẩm văn học lớp 12 và một số tài liệu tham khảo. III. KHẢO SÁT TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài: Qua khảo sát thực tế tôi thấy khả năng cảm thụ văn học của học sinh trong giờ văn rất hạn chế, hầu hết học sinh chỉ có khả năng tái tạo lại tác phẩm (nội dung tác phẩm), hầu như không có khả năng tự chiếm lĩnh tri thức, tự suy nghĩ, vận động nên với những câu hỏi suy luận rất ít học sinh trả lời được, thường các em dựa vào tài liệu có sẵn, sao chép… nếu không sao chép thì phần trả lời rất sơ sài, nông cạn. 2. Số liệu cụ thể: Trang 4 Qua quá trình giảng dạy, kiểm nghiệm khả năng cảm thụ văn học của học sinh trong giờ dạy văn ở hai lớp: 12A1 (lớp chọn khá của trường) và 12A12 (lớp yếu nhất của trường), khi tôi ra hai dạng câu hỏi: tái tạo và cảm thụ tác phẩm thì kết quả trả lời của học sinh như sau: Trả lời Dạng câu hỏi Câu hỏi tái tạo Câu hỏi cảm thụ IV. Đúng Tương đối đúng Chưa đạt A1 A12 A1 A12 A1 A12 30 10 10 01 18 28 20 13 02 12 08 25 NỘI DUNG ĐỀ TÀI: Cảm thụ văn học là một kĩ năng quan trọng trong việc học văn, giúp học sinh đi vào chiều sâu, rộng của nhận thức để đánh giá hoàn chỉnh giá trị của tác phẩm, để làm được điều đó theo tôi giáo viên dạy ngữ văn cần phải đạt được một số kĩ năng sau: 1/ Giúp học sinh khám phá tác phẩm: 1.1 / Hiểu đúng tác phẩm: vì tác phẩm văn học thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Để làm được điều này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu cuộc đời và những tư tưởng, tình cảm, phong cách, sở trường của tác giả; đồng thời giáo viên mở rộng thêm kiến thức về tác giả để học sinh có cách nhìn đúng, chính xác về tác phẩm. Hơn nữa, văn học phản ánh hiện thực nên cần phải tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm mới hiểu hết giá trị của tác phẩm. Ngoài ra, học sinh cũng cần tìm thêm những nhận xét, đánh giá khác để có nhận thức đúng trong việc cảm thụ tác phẩm của mình. Ví dụ: Khi tìm hiểu vể tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, ta cần phải biết: Kim Lân là một cây bút chuyên viết về nông thôn và người nông dân “ một lòng một dạ đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”- đó là phong cách, là sở trường cho nên ông nới viết “Vợ nhặt” đạt đến như thế, các nhân vật có ngôn ngữ, lối sống, sinh hoạt… “thuần nông” như thế. Tác phẩm lại viết trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 của nước ta nên trước măt ta hiện lên cảnh “ tối sầm vì đói khát ấy”. 1.2/ Đọc văn bản: đây là một thao tác không thể thiếu trong giờ đọc văn, vì đọc giúp người học sẽ tiếp nhận tác phẩm: đọc kĩ cả tác phẩm, đọc lướt, đọc sáng tạo… khi học sinh đọc diễn cảm là đã nắm bắt được giá trị nội dung tư tưởng, thẩm mỹ và phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Đồng thời học sinh có thể liên tưởng, tưởng tượng và thâm nhập vào nhân vật, vào tác phẩm, tư tưởng của nhà văn. Ví dụ1 : cho học sinh đọc đoạn trích trong tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (SGK lớp 12, tập 2), khi trong vai vợ Trương Ba thì ở màn đối thoại đầu vợ Trương Ba nói với giọng trách móc, đau khổ; nhưng đến màn kết thì nói với giọng trữ tình, đầy yêu thương khi Trương Ba rời khỏi xác hàng thịt để được là chính mình với những hình ảnh đẹp trong lòng người thân. Ví dụ 2: đọc bài thơ “ Sóng”, Xuân Quỳnh (SGK lớp 12, tập 1); ba khổ thơ đầu đọc nhanh, mạnh, ào ạt như những cơn sóng biển bởi đó là những cơn sóng lòng của người con gái đang yêu; đến khổ thơ cuối, đọc giọng chậm rãi, chiêm nghiệm cuộc đời. Trang 5 Vì vậy, việc đọc đúng, diễn cảm sẽ giúp học sinh cảm nhận được những hình tượng trong tác phẩm, thời đại của tác phẩm, tư tưởng của nhà văn. 1.3/ Tìm hiểu văn bản: Bên cạnh việc phân tích nội dung và nghệ thuật của văn bản bằng phương pháp thuyết giảng cũ thì tôi không bàn đến nữa, tuy nhiên việc để học sinh yêu thích và cảm thụ được tác phẩm thì theo tôi rất cần một số thao tác sau trong quá trình tìm hiểu văn bản: - Bằng con đường đàm thoại, gợi mở, giáo viên tạo ra cho lớp học một không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ nhận thức của mình., giờ học có không khí tâm tình, trao đổi thân mật về những vấn đề trong cuộc sống do nhà văn nêu lên, mối liên hệ giữa nhà văn, giáo viên, học sinh được hình thành ngay trong lớp học. Qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên và phản hồi của học sinh sẽ giúp khả năng cảm thụ của học sinh được phát huy. Những câu hỏi không chỉ thể hiện việc khai thác giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà còn thể hiện logic kiến thức, tiến trình lĩnh hội kiến thức và khả năng sáng tạo trong tác phẩm, làm cho học sinh có khả năng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo (câu hỏi phải được xây dựng hợp lí từ dễ đến khó). Ví dụ: . Em hình dung như thế nào về nhân vật người đàn bà làng chài? (trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu) (Câu hỏi phát hiện thông tin) . Em có hình dung gì về cuộc sống của Mỵ qua trang viết của Tô Hoài (Vợ chống Aphủ)? (Câu hỏi tái hiện, liên tưởng, tưởng tượng). . Vì sao Kim Lân không đặt nhan đề là Cưới vợ mà lại là Vợ nhặt ? ( Câu hỏi hướng dẫn học sinh thảo luận, phân tích). . So sánh con đường đến với cách mạng của nhân vật Aphủ (Vợ chồng APhủ, Tô Hoài) với Tnú (Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành)? (Câu hỏi so sánh). . Qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu, em hiểu gì về cuộc sống của người phụ nữ làm nghề chài lưới sau năm 1975? (Câu hỏi nâng lên nhận xét khái quát, đánh giá). . Qua tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc thông điệp gì? Người giáo viên luôn phải xem đặt câu hỏi là một nghệ thuật, câu hỏi cần có sự kết hợp giữa những lời đề dẫn, gợi mở, khi là tình huống hấp dẫn bất ngờ kích thích sự suy nghĩ tưởng tượng, sự rung cảm của người tiếp nhận tác phẩm. Với các câu hỏi đưa ra cho học sinh, không phải câu hỏi nào học sinh cũng dễ trả lời. ở dạng câu hỏi có tính chất suy luận, nâng cao hoặc cảm thụ văn học, giáo viên cần phải luôn đặt tình huống gợi mở cho học sinh như thế nào để các em vừa đi đúng trọng tâm kiến thức, vừa đảm bảo được tiến trình giờ dạy, không nặng nề. - Phân tích tác phẩm nhằm khám phá chiều sâu nội dung tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học. Việc phân tích tác phẩm làm cho hoạt động nhận thức không dừng lại ở nhận thức cảm tính mà là nhận thức lí tính. Để phân tích đi đúng hướng, có chiều sâu, giáo viên cần xác định đúng và bám chắc vào yêu cầu cần đạt của tiết học, bám vào thể loại, phương thức biểu đạt của văn bản. Cần đặt tác phẩm vào hoàn cảnh ra đời, có những so sánh, đối chiếu phù hợp với nội dung và nghệ thuật, giữa những tác phẩm cùng loại, cùng thời… Hiểu và cảm cùng tác phẩm là yêu cầu cần đạt của giờ giảng văn. - Lời giảng bình của giáo viên có vai trò rất quan trọng trong việc phát huy khả năng cảm thụ tác phẩm của học sinh. Thực tế cho thấy giáo viên nào bình giỏi thì giờ dạy sẽ gây hứng thú và mang màu sắc cảm xúc văn học rõ rệt, giờ giảng văn thành công thì không thể thiếu lời bình của Trang 6 giáo viên, chứng tỏ giáo viên hiểu tác phẩm đến mức nhuần nhuyễn biến thành rung động cảm xúc, tình cảm chủ quan và gây truyền cảm cho người học. Ví dụ: Sau câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng (Vợ nhặt, Kim Lân), thị theo Tràng về thật. Tràng lo lắm… nhưng “Chậc, kệ”. Phải nói là Tràng liều, đang đứng bên bờ vực thẳm của cái đói mà còn dám đèo bòng . Cái từ ấy đã thể hiện được tình người của Tràng, nếu vị trí như Tràng thì phải làm sao đây?... “xấu người nhưng đẹp nết”, đúng là “lá rách đùm lá nát”… 2/ Giáo dục kĩ năng sống: “ Văn học là nhân học”, bản thân nó chứa đựng những nội dung cơ bản của việc giáo dục kĩ năng sống, giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người; giúp học sinh làm giàu cảm xúc, thẩm mỹ và hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông, đối tượng học sinh đã tương đối vững về kiến thức, có hiểu biết và kĩ năng sống cho bản thân, cơ bản hình thành giá trị về nhân cách. Giáo dục kĩ năng sống qua tác phẩm văn học giúp học sinh có nhận thức tư tưởng đúng đắn, nuôi dưỡng ước mơ, lí tưởng, biết sống và phấn đấu không chỉ cho bản thân mà còn cho mọi người và xã hội. Ví dụ1 : “ Thông điệp nhân ngày thế giới phóng chống AIDS, 1-12-2003”, Cô- Phi An- nan, giáo dục học sinh kĩ năng sống: - Nhận thức được : đại dịch HIV/AIDS là một hiểm họa mang tình toàn cầu nên việc phòng chống AIDS là vấn đề có ý nghĩa bức thiết và tầm quan trọng đặc biệt, là trách nhiệm của mỗi người, mỗi quốc gia. - Thấy rõ sức thuyết phục mạnh mẽ của bản thông điệp, tầm nhìn, tầm suy nghĩ sâu rộng của tác giả. - Tự nhận thức về tính chất nóng bỏng của cuộc chiến phòng chống AIDS hiện nay trên thế giới, từ đó xác định được của mỗi cá nhân khi tham gia vào cuộc chiến đấu này. Ví dụ 2: “ Tây Tiến”, Quang Dũng, giáo dục học sinh kĩ năng sống: - Cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên miền tây Tổ quốc và hình ảnh người lính Tây Tiến. - Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ : bút pháp lãng mạn, những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu. - Tự nhận thức về tình thần yêu nước ý chí vượt khó của người lính Tây Tiến, qua đó tự rút ra bài học cho cá nhân. Ví dụ 3: “ Việt Bắc”, Tố Hữu, giáo dục học sinh kĩ năng sống: - Cảm nhận được một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng, tình nghĩa thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. - Nhận thức được tính đậm đà không chỉ trong nội dung nội dung mà còn ở hình thức nghệ thuật của tác phẩm. - Giao tiếp trình bày, trao đổi về mạch cám xúc của bài thơ về giai điệu, về cảm xúc ở người đi trong bài thơ. Ví dụ 4: “ Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành, giáo dục học sinh kĩ năng sống: - Nắm được tư tưởng mà tác giả gửi gắm qua những hình tượng của tác phẩm : sự lựa chọn con đường đi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù. Trang 7 - Thấy được vẻ đẹp sử thi và nét đặc sắc Tây Nguyên, ý nghĩa và giá trị của tác phẩm trong hoàn cảnh chiến đấu chống Mỹ cứu nước lúc bấy giờ và trong thời đại ngày nay. - Vận dụng được kĩ năng phân tích tác phẩm văn chương tự sự. Ví dụ 5: “ Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi, giáo dục học sinh kĩ năng sống: - Hiểu được nguồn gốc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn và những chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước - Thấy được một số đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Môn học ngữ văn có khả năng kì diệu trong việc giáo dục nhân cách con người, không chỉ cho học sinh những bài học sống, những trải nghiệm, mà môn học còn tự hình thành những kĩ năng sống rất cần thiết. Từ đó học sinh sẽ yêu thích và hứng thú hơn với những tác phẩm văn học vì học sinh thực sự được trải nghiệm, tự nhận thức tình cảm, thái độ đúng đắn, hình thành hành vi, thói quen tốt. Học sinh có kĩ năng ra quyết định, lựa chọn con đường đi đúng đắn trước ngưỡng của tương lai. 3/ Liên hệ thực tế: Khi giáo viên truyền thụ kiến thức giáo điều, xa rời thực tế khiến các em không hứng thú học tập. Vì vậy, phương pháp liên hệ thực tế của giáo viên sẽ giúp học sinh tư duy, nhận thức, lựa chọn sáng tạo, trau dồi cho mình những tình cảm, đạo đức phù hợp với xã hội mình đang sống, giúp các em hứng thú, say mê học tập, sẽ góp phần làm nên thành công lớn trong giờ dạy văn. Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Một người Hà Nội”, Nguyễn Khải. Qua việc dạy con của bà Hiền, GV có thể cho học sinh nhận xét về cách dạy con và liên hệ với gia đình mình. - Bà Hiền dạy con từ những cái nhỏ nhất: ngồi ăn, cầm bát, cầm đũa, múc canh.. Em có suy nghĩ như thế nào? HS tự do phát biểu, GV nhấn mạnh: đây không phải là chuyện nhỏ mà là văn hóa sống, không được sống tùy tiện, buông tuồng. - Bà Hiền dạy con phải có lòng tự trọng. Em suy nghĩ như thế nào về lòng tự trọng? HS tự do phát biểu, GV nhấn mạnh: con người sống phải có lòng tự trọng dù trong bất kì hoàn cảnh nào, bởi lòng tự trọng không cho phép con người ta sống ích kỉ, hèn nhát. Ví dụ 2: Khi dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu GV có thể hỏi: - Qua cảnh người đàn ông đánh vợ, em có suy nghĩ gì về hành động đó? HS tự do phát biểu, GV nhấn mạnh: đây là hiện tượng chúng ta có thể gặp trong cuộc sống, con người không chỉ chịu bạo lực về thể xác mà còn chịu bạo lực về tinh thần, cuộc sống và tính cách của những đứa con rồi sẽ ra sao? - Em có suy nghĩ gì về hình ảnh người đàn bà hàng chài? HS tự do phát biểu, GV nhấn mạnh: tôn vinh, đề cao người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. - Theo em cần làm gì để chấm dứt tình trạng bạo lực gia đình? HS tự do phát biểu, GV nhấn mạnh: mọi người, các cơ quan, tổ chức cần phải có trách nhiệm, cùng tìm ra những biện pháp thiết thực để người phụ nữ được sống bình đẳng, được tôn trọng; trẻ em được bảo vệ, được sống trong đùm bọc, yêu thương, bình yên. Trang 8 Học một tác phẩm để học sinh biết suy ngẫm để tự sống tốt hơn, tích lũy thêm những kinh nghiệm sống là điều rất tốt. Tác phẩm văn chương không thể xa rời cuộc sống, từ đó nâng cao chất lượng giờ học, học sinh sẽ đam mê học hơn, tự nhiên hiểu bài sâu hơn, không gò ép. Ngoài việc giúp học sinh khám phá tác phẩm, kết hợp giáo dục kĩ năng sống, liên hệ thực tế, để tạo hứng thú và học sinh có thể cảm thụ tác phẩm văn học tốt giáo viên cũng cần ứng dụng công nghệ thông tin, phim, kịch, sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan... tiết học sẽ hứng thú hơn rất nhiều, học sinh dễ hiểu và nhớ lâu hơn. V. KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: Trong những năm qua, cùng với việc tham khảo tài liệu, dự giờ rút kinh nghiệm, trong các tiết dạy tôi đã áp dụng các biện pháp trên để rèn luyện khả năng cảm thụ văn học cho học sinh, tôi thấy đã có tác dụng rõ, học sinh say mê học văn hơn, giờ dạy nhẹ nhàng không nặng nề. Kết quả cụ thể cuối năm: khả năng cảm thụ văn học của học sinh trong gi ờ dạy v ăn ở hai l ớp: 12A1 (lớp chọn khá của trường) và 12A12 (lớp yếu nhất c ủa tr ường), khi tôi ra hai d ạng câu h ỏi: tái tạo và cảm thụ tác phẩm thì kết quả trả lời của học sinh như sau: Trả lời Dạng câu hỏi Câu hỏi tái tạo Câu hỏi cảm thụ Đúng Tương đối đúng Chưa đạt A1 A12 A1 A12 A1 A12 40 34 27 08 08 11 06 18 02 05 05 12 Môn văn là môn khoa học về một ngành nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ. Môn văn là một môn khoa học nhân văn không phải là môn khoa học chính xác nên việc rèn luyện năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là rất khó khăn đòi hỏi sự kiên trì và tế nhị. Việc học cũng phụ thuộc vào cảm hứng, tài liệu sách vở của học sinh nên công việc của thầy giáo dạy văn càng khó. Vì thế đây là một trách nhiệm nặng nề của người thầy dạy văn vì nó có tác dụng nhất định đối với nhân cách con người tài năng. Trên đây là những suy nghĩ, tâm tư, những kinh nghiệm nhỏ sau nhiều năm giảng dạy của cá nhân tôi đã đúc kết được, do cách truyền thụ kiến thức và sự gây hứng thú với bộ môn văn học của nhiều giáo viên sẽ khác nhau nên chắc chắn tôi sẽ còn những hạn chế riêng của bản thân. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp để bản thân tôi có thêm kinh nghiệm trong việc giảng dạy và đặc biệt là tạo hứng thú, đam mê học văn cho học sinh, tôi luôn mong rằng qua mỗi giờ dạy của mình sẽ thắp lên trong lòng mỗi học sinh một ước mơ, một suy nghĩ đẹp. Xuân Lộc, ngày 30 tháng 03 năm 2013 Người viết Đỗ Thị Hồng Nhung Trang 9 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu giáo dục kĩ năng sống ở trường THPT ( Tài liệu dành cho giáo viên)- Bộ Giáo dục và Đào tạo 2. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng sống môn Ngữ văn 12, Nhà xuất bản Giáo dục, 2010 3. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12 4. Một số tài liệu tham khảo khác. Trang 10 SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Đơn vị Trường THPT Hồng Bàng Xuân Lộc , ngày tháng năm 2013 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2012-2013 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện khả năng cảm thụ văn học cho học sinh THPT Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Hồng Nhung, Chức vụ: Phó Chủ tịch Công Đoàn Đơn vị: Trường THPT Hồng Bàng Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn - Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: ........................................................  Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị   Trong Ngành  1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có   2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  Trang 11 Sau khi duyệt xét SKKN, Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận và chịu trách nhiệm của người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm. XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) Trang 12 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu) Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD&ĐT Đồng Nai Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Đồng Nai thống nhất xếp loại: ............... Những người thẩm định (Ký, ghi rõ họ tên) Chủ tịch HĐKH (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên) ............................................................ ............................................................ Trang 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan