Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 10 qua một số giờ đọc hiểu văn bản...

Tài liệu Skkn rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 10 qua một số giờ đọc hiểu văn bản

.DOCX
30
808
52

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Nam Hà Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) RÈN KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA MỘT SỐ GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Người thực hiện: NGUYỄN THỊ TI NA Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn:.........VĂN............   - Lĩnh vực khác: ....................................................... Có đính kèm:Các sản phẩm không thể hiện trong bản in Báo cáo NCKHSPƯD  Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh Hiện vật khác (các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm) Năm học: 2015 - 2016 1 BM02-LLKH SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC –––––––––––––––––– I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: NGUYỄN THỊ TI NA 2. Ngày tháng năm sinh: 15/ 09/ 1978 3. Nam, nữ: nữ 4. Địa chỉ: 57 A1, phường Tân Hiệp, Biên Hòa, Đồng Nai 5. Điện thoại: 0918445466 6. Fax: E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: giáo viên 8. Nhiệm vụ được giao (quản lý, đoàn thể, công việc hành chính, công việc chuyên môn, giảng dạy môn, lớp, chủ nhiệm lớp,…): giảng dạy môn Văn 9. Đơn vị công tác: Trường THPT Nam Hà II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ - Năm nhận bằng: 2013 - Chuyên ngành đào tạo: văn học Việt Nam III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: văn - Số năm có kinh nghiệm: 15 - Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng đã có trong 5 năm gần đây: + Vận dụng trò chơi trong giảng dạy phân môn tiếng Việt + Ứng dụng một số phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trong dạy đọc hiểu văn bản dân gian lớp 10 2 MỤC LỤC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .......................................................................................5 1. Lý do khách quan.................................................................................................8 2. Lý do chủ quan.....................................................................................................8 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.................................................................7 1. Cơ sở lý luận........................................................................................................8 2. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................................8 a. Thuận lợi.........................................................................................................8 b. Khó khăn.........................................................................................................8 III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP .....................................................9 1. Các kĩ năng sống cơ bản....................................................................................10 2. Phương pháp giáo dục kĩ năng sống thông qua một số giờ đọc hiểu văn bản ................................................................................................................................10 3. Tổ chức thực hiện giải pháp...............................................................................11 a. Tiến trình dạy học ………..................................................................................11 b. Tiến hành tại lớp................................................................................................12 c. Giáo án thực nghiệm..........................................................................................12 IV. HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI........................................................................................19 V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG...........................................23 1. Bài học kinh nghiệm..........................................................................................23 2. Những kiến nghị sau khi thực hiện đề tài..........................................................23 Kết luận ................................................................................................................24 Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................................25 3 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT ĐC: đối chứng GV: giáo viên HS: học sinh KNS: kĩ năng sống THPT: trung học phổ thông TN: thực nghiệm UNESSCO: (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa 4 RÈN KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA MỘT SỐ GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Lý do khách quan Nếu có theo dõi báo chí hoặc tin tức trong những chương trình thời sự gần đây, ta dễ dành nhận thấy: giới trẻ hiện nay còn thiếu các kỹ năng sống cần thiết. Đã có nhiều trường hợp, các em HS ở lứa tuổi cấp III, thậm chí là cấp II, tự tử, mang thai ngoài ý muốn, tử vong do tai nạn, hỏa hoạn, đuối nước… Hoặc nhiều bạn trẻ gặp khó khăn lớn trong việc vượt qua các khủng hoảng tâm lý, việc làm chủ và bảo vệ bản thân... đều là do thiếu KNS. Ở các thành phố lớn nói chung, Biên Hòa nói riêng, HS có nhiều điều kiện để tham gia các hoạt động, các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Do đó, các em thường dễ gặp các rủi ro, vướng vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật cũng cao hơn các khu vực khác. Bên cạnh đó, môi trường xã hội, văn hóa Đồng Nai vừa phát triển khá năng động, sáng tạo vừa là môi trường phức tạp. Thực tế này đòi hỏi sự tăng cường xây dựng và rèn luyện KNS cho học sinh. Để làm được điều đó không đâu thích hợp hơn môi trường giáo dục. KNS trở thành một phần không thể thiếu của bài dạy ở các bộ môn khác nhau. Tuy nhiên, việc làm này chỉ dừng ở mức độ tích hợp và cũng chưa có những nội dung cụ thể, chủ yếu phát xuất từ chính tâm huyết của giáo viên dẫn đến việc rèn kĩ năng sống ở mỗi môn học, mỗi giáo viên còn mang tính gượng ép, làm lấy lệ, qua loa. Thậm chí không có cũng chẳng sao bởi mục tiêu của giáo viên là dạy bài dể học sinh có thể đáp ứng nhu cầu thi cử là chính. Môn Ngữ văn là một trong ba môn học công cụ nên có thể kết hợp nhiều nội dung giáo dục trong quá trình dạy học. Ngoài việc trang bị kiến thức, bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ. Nhiều bài học hướng đến việc giúp học sinh nhận thức được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống. KNS là yếu tố cần thiết trong mọi thời đại đặc biệt là trong thời kì hội nhập. Xuất phát từ nhu cầu đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lồng ghép kỹ năng sống vào trong chương trình học của học sinh. Trong “ Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009-2020” (Dự thảo lần thứ 14) nêu rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục và Đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết 5 vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả ở môi trưởng toàn cầu hóa, vừa hợp tác vừa cạnh tranh”. Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT nói chung, đặc biệt là năm học 2014 – 2015 khi dạy môn Ngữ văn lớp 10, tôi thấy phần văn bản 10 là kho kĩ năng sống nếu người giáo viên biết cách khai thác. Điều này tuy không khó nhưng để thực hiện được thì đòi hỏi người giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề và hết lòng vì học sinh thân yêu mới có khả năng giáo dục các em tự tìm tòi, học hỏi, tự vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. 2. Lý do chủ quan Trong những năm gần đây, sự phát triển nhanh chóng về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, sự hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những tác động phức tạp ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Tình trạng xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên trong đó có cả học sinh đã gây nhiều bức xúc trong xã hội. Các em đánh nhau, thậm chí là cư xử vô lễ với giáo viên và những người xung quanh. Lí do ấy đến từ đâu nếu không phải vì sự thiếu hụt các kĩ năng sống? Trước thực trạng trên, trong những năm qua Bộ giáo dục đã xác định lại mục tiêu của giáo dục đồng thời có nhiều nỗ lực để đổi mới theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống. Lồng ghép kĩ năng sống vào các môn học trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với giáo dục hiện nay. Bản thân tôi là môt giáo viên đã có thời gian dạy văn trên 10 năm và dạy ở cả ba khối 10,11,12 nên tôi nhận thấy: Học sinh THPT đặc biệt là các em ở đầu cấp do sự thay đổi tâm sinh lý, đặc điểm lứa tuổi và đặc biệt là việc thiếu các kĩ năng sống nên thường có những suy nghĩ và hành động nông nổi, cảm tính, dễ bị lôi kéo bởi những tác động xấu ... dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Như vậy, hình thành các kỹ năng sống tối thiểu cho các em là việc làm cần thiết. Đặc biệt, với môn Ngữ văn việc lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong các tiết học, được tích hợp trong các giờ học và còn được trải nghiê êm qua thực tế sẽ tạo nên hiệu ứng giúp các em trong viê êc tu dưỡng đạo đức, hướng thiê ên và nâng cao năng lực học tâ pê , sáng tạo. Từ đó, các em có nhâ nê thức đúng đắn trong viê êc thực hiê nê nô iê qui, qui định của nhà trường và tự giác thực hiê nê . Với mong muốn được góp một tiếng nói nhỏ nhằm tạo hiệu quả thật sự trong giờ đọc hiểu văn bản đồng thời giúp học sinh của mình nhất là lứa tuổi đầu cấp THPT có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ, sống có 6 bản lĩnh có nhân cách, tôi chọn đề tài “Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 10 qua một số giờ đọc hiểu văn bản”. II.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận Chúng ta biết rằng, các em HS không phải là những chiếc bình cần đổ đầy kiến thức mà các em là những ngọn đuốc cần thắp sáng, vậy hơn ai hết GV cần phải cố gắng giữ và thổi bùng ngọn lửa ấy trong tâm hồn các em. Lứa tuổi học sinh cấp III là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, ham tìm tòi, khám phá song lại thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị tác động bởi cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Chính vì thế nếu không được giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống các em thường dễ rơi vào lối sống ích kỷ, sự phát triển lệch lạc về nhân cách, thậm chí là rơi vào hố đen của các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống trở thành nhiệm vụ cấp bách, bởi giúp trang bị cho HS có những khả năng, tâm thế xã hội, để các em biết cách xử sự, ứng phó tích cực, thể hiện mình và trau dồi nhân cách, biết sống hữu ích, tránh những va vấp trong cuộc đời. Theo thống kê của các nhà tâm lí học, để đạt thành công trong cuộc sống kĩ năng mềm còn gọi là kĩ năng sống chiếm 85%, kĩ năng cứng( trí tuệ lô-gic) chỉ chiếm 15%. Vì vậy dạy học hiện nay nói chung, dạy văn nói riêng phải tăng cường dạy kĩ năng sống cho HS. Điều 2, luật giáo dục năm 2005, đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; ... hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Phương pháp dạy và học trong những năm gần đây cũng được đổi mới theo hướng : "... phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; ...; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". [1, 17] Như vậy có thể thấy, để phù hợp với đà tiến và yêu cầu của xã hội, nghành giáo dục hiện nay đã có sự chú trọng đến việc trang bị những kĩ năng sống cần thiết cho HS bởi đây là một yêu cầu cấp thiết để các em có thể đáp ứng được nhu cầu xã hội. Các môn học trong trường phổ thông của chúng ta hiện nay đều có khả năng tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho HS. Trong đó, gần gũi nhất có lẽ là Văn học. Bởi Văn học là nhân học, từ trước đến nay đây vẫn là một bộ môn thuận lợi để “ thay thái độ, đổi hành vi” của HS một cách dễ nhất thông qua các bài học ý tứ, sâu sắc mà lại rất nhẹ nhàng. 7 2. Cơ sở thực tiễn: Các kĩ năng sống còn được giáo dục thông qua phương pháp học tập tích cực, dựa trên sự tương tác giữa nội dung bài học và sự trải nghiệm của người lĩnh hội hoặc quá trình đối thoại, tương tác giữa các cá nhân với nhau. Do đó, việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào các nội dung của môn Ngữ văn tương đối thuận lợi, không cần phải đưa thêm thông tin, kiến thức mà chỉ cần tích hợp một cách khoa học để bộ môn ngày càng thiết thực, gần gũi với đời sống hơn. Đó là sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm Kĩ năng sống trong quá trình học tập. a.Thuận lợi: Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, trong quá trình thực hiện chuyên đề tôi đã có một số thuận lợi sau: - Trường có cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học tương đối đầy đủ. Và đặc biệt là sự chỉ đạo tổ chức hướng dẫn sâu sắc của Sở giáo dục, tôi luôn có điều kiện nắm bắt các chuyên đề. - Sở giáo dục và đào tạo Đồng Nai thường xuyên tổ chức các chuyên đề văn học, các lớp tập huấn thay sách, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích hợp rèn kĩ năng sống cho HS. - Được sự hướng dẫn, đóng góp ý kiến nhiệt tình của quý Thầy, cô trong tổ chuyên môn. - Đối tượng học hiện nay cũng có nhiều điều kiện để tự chủ trong việc tiếp cận một tác phẩm văn học. b. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi đó trong quá trình giảng dạy tôi cũng gặp không ít khó khăn khi tích hợp rèn KNS cho HS. - Học sinh chưa thực sự ham học, nhiều em xem ngữ văn là một môn học khô khan, chưa thấy được sự liên hệ cần thiết giữa kiến thức với kĩ năng sống. Vì thế, các em cũng không có sự đầu tư, chuẩn bị nhiều cho bài học,chưa mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình. - Học sinh ít có khả năng cảm nhận tác phẩm, học đối phó với việc thi cử là chính, máy móc thiếu sự chiêm nghiệm, sáng tạo khi tiếp cận tác phẩm. Ngay cả về phía giáo viên cũng chỉ chú trọng vào việc truyền giảng kiến thức chứ không mấy mặn mà với việc rèn KNS cho học sinh.Thói quen chú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết của giáo viên sẽ là cản trở lớn khi triển khai giáo dục kĩ năng sống, loại hình giáo dục nhằm tạo thói quen, thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống. 8 - Việc học Ngữ văn đã khó, học các văn bản cách thời điểm các em đang sống quá xa lại càng khó hơn. Ngoài ra, tiếp cận một văn bản lại là mảng kiến thức đòi hỏi các em phải có sự suy luận, có sự hiểu biết sau đó lại phải tích hợp với nội dung giáo dục kĩ năng sống, điều này không hề đơn giản, nhất là với đối tượng học sinh lớp 10 chưa có nhiều hiểu biết về thực tế cuộc sống. - Hạn chế về mặt thời gian cũng là vấn đề quan trọng trong việc lồng ghép kĩ năng sống vào tiết dạy. Vì một tiết học thường đi rất nhanh để hoàn thành phần lí thuyết, đôi khi hết giờ mà học sinh chưa thực hiện được một kĩ năng nào. Ngoài ra, không có một tiết dạy kĩ năng sống riêng cho học sinh, điều này cũng khó với giáo viên vì nếu quá chú trọng vào giáo dục kĩ năng sống thì lại chậm tiến độ bài dạy theo phân phối chương trình, mà dạy cho kịp nội dung bài đôi khi lại rất khó lồng ghép kĩ năng sống. Khi thực hiện nhiệm vụ lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào các tiết học văn bản, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn (chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, kế hoạch thực hiện, tiêu chí đánh giá, quy định thời lượng của tiết dạy…). Hơn nữa, tổ chức giáo dục kĩ năng sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện, điều này quả là không dễ. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống, mỗi quan niệm diễn đạt theo một cách khác nhau, thường gắn với một bối cảnh cụ thể, với một nền giáo dục nhất định. Theo định nghĩa của UNESSCO, kỹ năng sống được chia thành 2 loại là kỹ năng tâm lý xã hội và kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình luận phê phán, ra quyết định, giao tiếp hiệu quả và thương thuyết. Kĩ năng sống là khả năng tâm lí xã hội, nội dung bao gồm tri thức, thái độ, giá trị và kĩ năng giúp con người giải quyết có hiệu quả những tình huống , những vấn đề nhằm đáp ứng hoạt động của cuộc sống một cách tích cực (Hội thảo khoa học tiếp tục đổi mới quản lí giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo các tỉnh phía Nam). Có nhiều kĩ năng sống khác nhau, tùy hoàn cảnh, môi trường sống, điều kiện sống mà GV cần định hướng cho HS một cách phù hợp. Đối với học sinh đầu cấp THPT thì việc tác động ấy phải dựa trên tâm lí, khả năng học tập của từng đối tượng. Muốn vậy người thầy vừa phải có khả năng sư phạm vừa phải có nghệ thuật giao tiếp. Trên cơ sở đó, giúp học sinh nắm được gía trị của văn bản, để tiếp tục trang bị, hoàn thiện thêm vốn sống trong cuộc đời. Để tích hợp rèn kĩ năng sống cho HS, GV cần dựa trên nguyên tắc 5 chữ T: tương tác, trải nghiệm, tiến trình, thay đổi hành vi, thời gian. Trong đó, kĩ 9 năng tương tác hình thành qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu, tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động, tương tác với giáo viên và với nhau trong quá trình giáo dục. Trải nghiệm có nghĩa là người học cần được đặt vào các tình huống để trải nghiệm và thực hành.Tiến trình giáo dục kĩ năng sống không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình: nhận thức dẫn đến hình thành thái độ sau đó mới là thay đổi hành vi. Giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cựclà mục đích cao nhất của giáo dục kĩ năng sống. Để đạt được điều này thì việc giáo dục kĩ năng sống cần thực hiện xuyên suốt quá trình học tập và rèn luyện của các em. 1. Các kĩ năng sống cơ bản : Có nhiều kĩ năng sống khác nhau. Trong phạm vi đề tài, tôi tạm xếp các kĩ năng thành ba nhóm cụ thể nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực phù hợp với thực tiễn, đă êc điểm học sinh của từng lớp, mà tiến hành viê êc rèn kĩ năng sống cho các em. - Nhóm kĩ năng nhâ ên thức - Nhóm kĩ năng xã hô êi. - Kĩ năng quản lí bản thân. Để lồng ghép trọn vẹn các nhóm kĩ năng sống là điều khó, vì vậy trong quá trình thực nghiệm, tôi thường chú trọng rèn cho các em hai nhóm kĩ năng cơ bản là kĩ năng nhận thức và kĩ năng quản lí bản thân. Bởi tôi xét thấy đây là hai nhóm kĩ năng các em phải sử dụng trong nhiều tình huống của cuộc sống. 2. Phương pháp giáo dục kĩ năng sống thông qua một số giờ đọc hiểu văn bản Giáo dục kỹ năng sống không phải là nói cho các em biết thế nào là đúng thế nào là sai như ta thường làm. Cũng không phải là rao truyền những lời hay ý đẹp để học sinh sẽ quên nhanh. Các phương pháp cổ điển như giảng bài, đọc chép sẽ thất bại hoàn toàn vì chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin đến nhận thức để thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rất lớn. Giáo dục kỹ năng sống là giúp HS nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau. Quyết định phải phát xuất từ chính các em. Vì thế nội dung bài học phải hết sức gần gũi với cuộc sống hay tồn tại ngay trong cuộc sống. HS cần có điều kiện để cọ xát những ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành, áp dụng một cách chủ động có thế các em mới thay đổi hành vi. Xuất phát từ yêu cầu trên, nhiều phương pháp được áp dụng để đem lại hiệu quả trong việc rèn kĩ năng sống như sinh hoạt hay thảo luận theo nhóm, theo cặp, động não, sắm vai, phân tích tình huống, tranh luận, trò chơi, huy động tối đa nghe, nhìn, vận động… góp phần nâng cao khả năng tiếp nhận và sự tương tác giữa kiến thức tại lớp với thực tế cuộc sống. Điều này giúp đem lại hiệu quả và sự hứng thú trong quá trình học tập của các em. Dưới đây là một số 10 phương pháp tiêu biểu mà tôi áp dụng trong quá trình đứng lớp của mình để hình thành kĩ năng sống cho HS - Phương pháp động não. - Phương pháp thảo luận nhóm. - Phương pháp đóng vai - Phương pháp nghiên cứu tình huống (hay còn gọi là phương nghiên cứu các trường hợp điển hình) - Phương pháp trò chơi Các phương pháp này có thể vận dụng linh hoạt trong từng giờ dạy theo từng đối tượng cụ thể. 3. Tổ chức thực hiện giải pháp Để rèn luyện kỹ năng sống cho HS, cách hữu hiệu nhất là để cho các em thực hành trong những tình huống cụ thể ở mỗi bài học. Và các phương pháp hiệu quả nhất đó là: thảo luận, phân tích trường hợp điển hình, giải quyết tình huống, đóng vai, chơi trò chơi, bày tỏ ý kiến… Qua đó, các em sẽ được trải nghiệm và tự rèn luyện kỹ năng sống cho bản thân. Có thể dễ dàng nhận thấy, số lượng phân môn cũng như thời gian dành cho môn Ngữ văn tương đối nhiều, tạo điều kiện không nhỏ để giáo viên có thể tích hợp rèn luyện các KNS cho HS thông qua các giờ dạy. Bởi đây là môn học có khả năng rèn kĩ năng sống cho học sinh khá cao. Xuyên suốt chương trình ở các cấp học, lớp học, gần như mỗi bài học đều có thể tích hợp rèn luyện KNS cho HS ở những mức độ nhất định. Tuy nhiên, với chương trình ngữ văn 10, vì hạn chế và nhiều lí do khách quan tôi chỉ đi sâu vào việc rèn kĩ năng sống cho HS ở một số giờ đọc hiểu văn bản tiêu biểu để giúp các em nhận thức được các giá trị cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp nhất định. Đồng thời, giúp các em định hướng để thực hành đúng cách, điều chỉnh những hiểu biết và kỹ năng còn sai lệch từ phía các em. Phần văn bản ngữ văn 10 có trên 10 tác phẩm và một số đoạn trích (không kể phần đọc thêm). Mỗi tác phẩm và đoạn trích có nội dung giáo dục khác nhau. Do đó, giáo viên phải dựa vào tài liệu hướng dẫn của Bộ Giáo dục và khai thác thêm, chọn hình thức phù hợp với mỗi bài học và đối tượng học sinh. Ở đây, tôi xin đề xuất những giải pháp sau. a. Tiến trình dạy học: * Sự chuẩn bị của giáo viên: - Giáo viên chuẩn bị kĩ năng cần giáo dục thông qua bài học. 11 - Đưa ra hệ thống câu hỏi để học sinh chuẩn bị bài ở nhà.Để có một giờ học sôi nổi, thành công, người GV cần nắm chắc mục đích, yêu cầu bài học để chuẩn bị được một hệ thống câu hỏi khoa học. Lưu ý: Khi đưa câu hỏi, giáo viên cần chú ý đến tính hệ thống và linh hoạt của câu hỏi với đối tượng học sinh nhằm kích thích ham muốn tìm hiểu và học tập của các em. - Chọn lựa phương pháp, kỹ thuật dạy học, xác định nội dung cần tích hợp, thời điểm tích hợp, cách tích hợp như thế nào cho phù hợp với từng bài dạy. - Giám sát, nhận xét và chốt lại vấn đề cần giáo dục. (GV đóng vai trò là người khơi gợi) * Sự chuẩn bị của học sinh: - Học sinh nhận câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà từ giáo viên (tìm hiểu và soạn trước ở nhà). - Tại lớp, khi được yêu cầu HS sẽ trình bày vấn đề theo thời gian quy định. - Qua sự định hướng của GV, HS tự rút ra bài học từ đó hình thành kĩ năng sống, và chủ động vận dụng vào cuộc sống. b. Quá trình tiến hành tại lớp: Có bốn bước chính để tiến hành rèn KNS cho HS qua giờ dạy tại lớp. Trước hết là khám phá. Ở bước này, giáo viên cần tìm hiểu xem học sinh đã biết được diều gì, còn chưa biết gì về vấn đề đặt ra trong tác phẩm, văn bản. Sau đó cần phải có sự kết nối nội dung mới của bài dạy (muốn vậy GV và HS phải giải quyết tất cả những kiến thức mới). Tiếp đến là bước thực hành. Với bước này, giáo viên sẽ lần lượt đặt ra những tình huống, những nội dung, những trò chơi có thể vận dụng kiến thức mới lĩnh hội. Cuối cùng là bước vận dụng. Tùy theo từng hoàn cảnh, từng đối tượng học sinh, giáo viên ứng dụng bài tập tình huống phù hợp để rèn KNS cho các em . c. Giáo án thực nghiệm: Tên bài dạy GV - Xác định kĩ năng sống: kĩ năng nhận thức và kĩ năng giao tiếp ứng xử. - Chuẩn bị ở nhà: Xác định nội dung có thể tích hợp rèn kĩ năng sống, sau đó đặt câu hỏi hay đưa ra tình huống giả định với từng nhân vật: 12 + Qua cảm nhận của em, An Dương Vương là một vị vua có công hay có tội? Vì sao? + Nếu là An Dương Vương em sẽ xử lý thế nào khi biết con gái yêu của mình chính là kẻ phản bội? + Trách nhiệm của chúng ta đối với Đất nước hiện nay là gì? + Qua sự hóa thân của những nhân vật, em học được điều gì về cách ứng xử trong cuộc sống của người Việt Nam? + Qua cảm nhận của em, An Dương Vương là một vị vua có công hay có tội? + Nếu là An Dương Vương em sẽ xử lý thế nào khi biết con gái yêu của mình chính là kẻ phản bội? + Trách nhiệm của chúng ta đối với Đất nước hiện nay là gì? An Dương Vương – Mị Châu – Trọng Thủy + Qua sự hóa thân của những nhân vật, em học được điều gì về cách ứng xử trong cuộc sống của người Việt Nam? - Thực hiện: Tại lớp chia HS theo nhóm hoặc cá nhân, cho các em thảo luận và bày tỏ quan điểm với thời gian tích hợp từ 3’ đến 5’ tùy theo tình huống hay câu hỏi.Từ việc HS trả lời những câu hỏi trên, GV có thể rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho HS bằng cách ứng dụng kỹ thuật viết sáng tạo cho HS trả lời câu hỏi: - Nếu bản thân em rơi vào tình huống tương tự như Mị Châu em sẽ hành động thế nào? Vì sao? - Kết quả: Qua những câu trả lời của các em, giáo dục học sinh kỹ năng nhận thức và kỹ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Đồng thời, rèn giũa cho HS kĩ năng xác định giá trị bản thân, sống có trách nhiệm với cộng đồng, kĩ năng giải quyết vấn đề, không thụ động để chấp nhận nghịch cảnh. Và từ đó giúp các em trân trọng và đánh giá đúng bản thân mình và những sự việc xảy ra xung quanh để tìm ra cách ứng xử phù hợp. Hs - Thảo luận nhóm hay làm việc cá nhân tìm câu trả lời các câu hỏi được GV đưa ra bằng các hình thức. - Trình bày trước lớp (cá nhân hay đại diện nhóm) hay làm 13 bài kiểm tra nhỏ theo thời gian quy định: + Ở phần đầu truyện, An Dương Vương là một vị vua sáng suốt, có công xây dựng nhà nước Âu Lạc, chế tạo vũ khí bảo vệ nước nhà, ngăn chặn giặc phương Bắc xâm lược. Nhưng ở phần sau, An Dương Vương đã chủ quan khinh địch, lơ là trong công tác phòng bị, thậm chí khi quân Triệu Đà tiến sát đến chân thành vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến nỗi “cơ đồ đắm biển sâu”. + Việc An Dương Vương chém đầu Mị Nương cho thấy thái độ dứt khoát khi phải lựa chọn giữa việc nước với việc nhà. Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên mối quan hệ cá nhân, gia đình. Đồng thời cũng phải ra sức phấn đấu, học tập, rèn luyện để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước. Tương tự như vậy, qua nhân vật Mị Châu hay Trọng Thủy các em có thể nhận thức những vấn đề sau: + Với nhân vật Mị Châu, tác giả dân gian đã đặt ra bài học đớn đau về trách nhiệm công dân với quốc gia, dân tộc.Trước hết, nàng đã ngộ nhận về mối quan hệ tình cảm vợ chồng riêng tư khi không có bất cứ sự nghi ngờ nào về đề nghị của Trọng Thủy. Bởi đơn thuần, Mị Châu xem đó là cách chứng minh cho ttnh yêu chân thành của mtnh dành cho chồng. Bên cạnh đó, nàng cũng rất nông nổi khi không chú ý đến câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy khi chia tay và vẫn làm theo tình cảm một cách mù quáng dẫn đường để Trọng Thủy truy đuổi trên đường trốn chạy cùng vua cha. Và có lẽ bài học đau đớn nhất đó chính là vì tình yêu cá nhân mà nàng đã đẩy trăm dân vào cơn khốn cùng điêu linh. Mặc dù bị Rùa vàng kết tội và chấp nhận cái chết để chuộc tội song nàng không thể có cơ hội chuộc tội với dân, với đất nước. Thế nhưng, truyện không kết thúc ngay sau khi Mị Châu bị vua cha chém đầu mà còn nối dài bằng chi tiết máu Mị Châu hóa thành trai ngọc và Trọng Thủy phải chết trong giếng. Như vậy, qua những chi tiết này tác giả dân gian còn gửi gắm đến chúng ta bài học về sự cảm thông với những người trót mắc lỗi lầm nhưng đã biết nhận ra và tìm cách sửa chữa lỗi lầm. Tuy nhiên, không phải lỗi lầm nào cũng có thể sửa chữa và tha thứ. - Kết quả: nhận thức được vai trò và trách nhiệm cá nhân, không lơ là, chủ quan trong bất cứ vấn đề gì mà trước tiên 14 đó là việc học. Biết suy nghĩ và hành động tích cực khi gặp căng thẳng, không làm tổn hại đến bản thân và những người xung quanh, xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt đẹp. Nhàn - Xác định kĩ năng sống: Kĩ năng nhận thức và kĩ năng giao tiếp ứng xử. - Chuẩn bị ở nhà: Xác định nội dung có thể tích hợp rèn kĩ năng sống, sau đó giúp HS nhận thức được giá trị của cuộc sống đẹp một cách toàn vẹn thông qua các câu hỏi: + Theo em, tại sao nhân vật trữ tình lại nhận mình là kẻ dại khi tìm đến nơi vắng vẻ? Em nhận định thế nào về cái dại ấy? + Từ cách sống và quan niệm sống của nhân vật trữ tình trong bài thơ em hiểu thế nào là sống “Nhàn”? + Để sống nhàn như vậy con người cần có những phẩm chất gì? Hướng phấn đấu rèn luyện của bản thân em? GV Để rèn kĩ năng giao tiếp ứng xử, GV có thể sử dụng một số câu hỏi sau: + Nếu được lựa chọn, em có chọn cách sống như nhân vật trữ tình trong văn bản hay em sẽ chọn cách sống khác? Vì sao? + Xét về phương diện xã hội, triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm liệu còn phù hợp với đời sống của chúng ta hiện nay không? Vì sao? - Thực hiện tại lớp: cho các em thảo luận nhanh theo kỹ thuật khăn trải bàn, cử đại diện trình bày kết quả (thúc đẩy sự thi đua giữa các nhóm bằng hình thức cộng điểm nhóm). - Kết quả: 35/40 HS đạt kĩ năng nhận thức, và hình thành kĩ năng giao tiếp ứng xử. Biết cách lựa chọn thái độ sống. Có ý thức giữ gìn nhân cách và phẩm giá. Hs - Học sinh suy nghĩ, giải quyết vấn đề GV đặt ra. - Học sinh có thể thảo luận nhóm để đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá của bản thân, lựa chọn cách sống phù hợp đảm bảo sự phát triển hài hòa cả thể chất và nhân cách. Có ý thức lựa chọn cuộc sống, cách sống đẹp. Đồng thời biết trân trọng và sống hòa hợp với thiên nhiên. - Kết quả: qua quá trình tham gia hoạt động, làm việc cùng nhau, các em sẽ tự hình thành kỹ năng giao tiếp ứng 15 xử với môi trường xã hội và môi trường thiên nhiên. Trong hoàn cảnh hiện nay, đất nước hòa bình, dân chủ. Mỗi người trong chúng ta đều có điều kiện làm chủ bản thân. Trong mọi lúc, mọi nơi hãy sống và cống hiến! Hãy tránh xa những mưu toan tính toán, tranh giành thiệt hơn. Hãy phấn đấu trong công việc nhưng không đặt nặng danh lợi, vì danh lợi mà đánh mất mình! Hãy sống thân thiện, gắn bó với thiên nhiên. Đó là một lối sống đẹp. - Xác định kĩ năng sống: kĩ năng nhận thức và kĩ năng giao tiếp ứng xử. - Chuẩn bị ở nhà: Để rèn kĩ năng nhận thức, GV cần hướng học sinh đến chỗ: nhận thức được vị trí, vai trò và nhiệm vụ của thanh niên trong đời sống. Xác định được những giá trị bản thân từ đó hướng đến cách sống có bản lĩnh. Một số câu hỏi có thể áp dụng để đạt đến đích nhận thức cho HS: + Em hãy cho biết những nhân tố nào tạo nên vẻ đẹp của trang nam nhi thời Trần? GV + Nguyên nhân nào dẫn đến nỗi thẹn của nhân vật trữ tình trong văn bản? + Có khi nào em cảm thấy thẹn không? Vì sao? Liên hệ với nỗi thẹn của nhân vật trữ tình trong văn bản em rút ra bài học gì cho bản thân? Tỏ Lòng + Mặc dù đã lập được nhiều chiến công vang dội nhưng vì sao nhân vật trữ tình vẫn cảm thấy thẹn khi nghe người đời nhắc đến chuyện Vũ Hầu? Em suy nghĩ về nỗi thẹn ấy? + Từ nỗi hổ thẹn của nhân vật trữ tình trong bài hãy trình bày suy nghĩ của mình về lí tưởng sống của tuổi trẻ hiện nay. - Thực hiện tại lớp: cho các em thảo luận nhanh theo kỹ thuật khăn trải bàn, cử đại diện trình bày kết quả (thúc đẩy sự thi đua giữa các nhóm bằng hình thức cộng điểm nhóm). Cuối cùng để đánh giá quá trình hiểu và vận dụng của các em, tôi cho các em làm một bài kiểm tra nhỏ (15 phút). - Kết quả: 36/40 HS có thể nhận ra những kĩ năng sống thông qua văn bản và ứng dụng những KNS ấy vào trong 16 cuộc sống thực tiễn của bản thân. HS GV Từ những vấn đề GV đặt ra, HS thảo luận và xác định cách nhìn nhận đánhgiá đúng về trách nhiệm bản thân đối với môi trường xã hội xung quanh, với bản thân gia đình và rộng hơn là quốc gia, dân tộc. Có ý thức rèn luyện, phấn đấu tài năng và phẩm chất để có thể trở thành rường cột nước nhà. Như vậy quan niệm lập công danh của người xưa rất gần gũi với việc xác định mục tiêu, lý tưởng sống của thanh niên hiện nay. - Xác định kĩ năng sống: kĩ năng nhận thức và kĩ năng ứng xử. - Chuẩn bị ở nhà: xác định nội dung có thể tích hợp rèn kĩ kĩ năng nhận thức cho HS, từ tấm gương phẩm hạnh của Kiều, GV sử dụng một số câu hỏi gợi mở : + Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Kiều là gì? + Em có suy nghĩ gì về hoàn cảnh và cách ứng xử của Kiều trong đêm trao duyên qua mười hai câu đầu? “Cậy em, em có chịu lời ..................................... Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây” + Từ cách thức Kiều thuyết phục và trao duyên cho Vân, em học tập điều gì khi phải thuyết phục người khác? + Qua quyết định trao duyên của Kiều, em thấy gia đình có vai trò và ý nghĩa như thế nào đối với mỗi người? + Trách nhiệm của các thành viên trong gia đình với nhau là gì? + Theo em xã hội hiện nay còn những hoàn cảnh như Thúy Kiều không? Có nên học tập theo cách ứng xử của Kiều không? Em rút ra bài học gì từ nhân vật Thúy Kiều trong đêm trao duyên? Giáo dục kỹ năng giao tiếp, ứng xử: Một số câu hỏi có thể sử dụng: Trao Duyên + Trong thực tế nếu có người dùng vật chất để muốn em trở thành người yêu của họ, thì em sẽ ứng xử như thế nào? + Nếu gặp phải người có hoàn cảnh như Kiều em sẽ 17 đối xử với họ như thế nào? - Kết quả: GV có thể nhận xét để định hướng cho HS: trong bi kịch tình yêu của Kiều và Kim Trọng, người chịu nhiều đau khổ nhất là Kiều nhưng nàng không nghĩ đến bản thân mình mà chỉ nghĩ đến Kim Trọng. Kiều đã quên mình để nghĩ tới người khác, đó là một sự hi sinh cao qúy trong tình yêu. Nàng đã cho đi và không nghĩ mình được nhận lại gì. Đoạn thơ đã đem đến cho chúng ta bài học thật ý nghĩa trong cuộc sống. Đó là bài học cho và nhận. Liên hệ giáo dục HS trong thực tế khi tiếp xúc với những hoàn cảnh không may phải có thái độ cư xử phù hợp. - Học sinh suy nghĩ, giải quyết vấn đề GV đặt ra. - HS sẽ động não, thảo luận và trình bày ý kiến theo yêu cầu và thời gian quy định của GV. - Học sinh thảo luận theo nhóm nhỏ rút ra bài học kĩ năng sống cho bản thân. HS - Kết quả: nhận thức tình cảm gia đình, đạo hiếu làm người, lòng kính yêu cha mẹ, anh chị em trong gia đình, tình yêu chung thủy và sự quan tâm chăm sóc chu đáo đối với người mình yêu ngay cả khi bản thân phải chịu sự hi sinh thiê êt thòi. Biết cảm thông chia sẻ với những người xung quanh nhất là những người thân trong gia đình. Khi phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống không được đổ lỗi cho hoàn cảnh hay ngụy biện không dám vượt qua nghịch cảnh. Đồng thời, giúp HS có thái đô ứng xử khéo léo trước mọi tình huống, cẩn thận trước những cám dỗ của xã hội. Ngoài ra, GV có thể ứng dụng những thao tác trên để giúp hình thành kỹ năng sống cho HS ở những văn bản khác của lớp 10 và cả những văn bản ở lớp 11 hoặc 12. Ví dụ: Bình ngô đại cáo: GV có thể giúp HS nhận thấy: Quan niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi : yên dân – trừ bạo (xuất phát từ quan niệm nho giáo) không khô khan, xa lạ với cuộc sống hiện nay. Hay đó là tư tưởng, quan niệm quá to lớn, ngoài tầm suy nghĩ không thiết thực với đời 18 sống đương thời. Thật ra, trong cuộc sống hiện nay, nhân nghĩa đơn giản là sống tử tế. Cách ứng xử có văn hóa giữa con người với con người như biết nói lời cảm ơn và xin lỗi, biết cảm thông, chia sẻ với người khác. Từ đó, HS có hướng phấn đấu trở thành công dân tốt. Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên: Bằng câu hỏi nhỏ, GV giúp HS nhận thức và rèn kỹ năng ứng xử (hình thức tự luận, có thể thay bằng bài kiểm tra 15 phút) ngay sau giờ đọc hiểu. - Nếu được viết lại phần kết thúc chuyện em sẽ viết như thế nào? Tại sao em chọn cách kết thúc như vậy? Tùy vào ý kiến của các em, GV sẽ định hướng để HS rút ra những kỹ năng sống cho bản thân. - Kỹ năng nhận thức: Công bằng và hạnh phúc chỉ đến khi con người biết đấu tranh với cái xấu, cái ác và sự gian tà. Từ đó củng cố niềm tin của các em vào lẽ phải bởi lẽ chính sẽ thắng tà. Lẽ phải, công lí cũng không lệ thuộc vào số lượng người giữa hai phái chính tà. Bè cánh xấu xa chỉ tồn tại nhất thời. Chính nghĩa sẽ thắng miễn là người quân tử có ý chí và không ngại sự thiệt hại đến bản thân mình. - Kỹ năng giao tiếp, ứng xử: thể hiện rõ trong câu kết văn bản. Người anh hùng không thể hèn kém khư khư ôm cái thiện cho riêng mình “Kẻ sĩ không nên kiêng sợ sự cứng cỏi...”. Thực tếđể tồn tại và phát triển đôi khi con người phải trả giá, hy sinh. Trong thực tế cuộc sống, người tốt, người dám làm việc chính nghĩa chưa chắc sẽ nhận kết quả tốt đẹp trước mắt nhưng không vì thế mà sống hèn kém, nhu nhược, không dám đấu tranh. Chí Khí anh hùng: Giúp HS nhận thấy, quan niệm anh hùng khác xưa: Anh hùng là những người dám nghĩ, dám làm, dám theo đuổi ước mơ. Tuy nhiên cũng phải xác định mục tiêu sao cho phù hợp với năng lực bản thân và hoàn cảnh thực tế để có thể thành công trong cuộc sống. Qua quá trình thực nghiệm, người thực hiện nhận thấy tuy có sự hỗ trợ rất lớn từ BGH và tổ chuyên môn xong vẫn còn tồn tại một số khó khăn như sau: Hiện nay hoạt động giảng dạy mới chỉ nhằm mục đích chủ yếu là truyền thụ kiến thức và đánh giá qua kiểm tra, thi cử với tỷ số lên lớp, tốt nghiệp, đỗ cao đẳng, đại học mà chưa có tiêu chuẩn, tiêu chí về giáo dục KNS cho HS. Việc rèn luyện kĩ năng sống cho HS đa phần là dựa vào kinh nghiệm và bản lĩnh đứng lớp của GV vì thế để đạt hiệu quả, GV cần phải thực hiện theo các bước mang tính hệ thống. Muốn vậy câu hỏi và tình huống giả định đưa ra cho các em cần phải đi từ mức độ thấp đến cao, từ dễ đến khó và có sự liền mạch giữa các khối lớp. Tránh tình trạng đánh trống bỏ dùi hay liên hệ một cách khiên 19 cưỡng, khập khiễng trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó cũng cần chú ý đến tính thời đại của vấn đề đưa ra cho các em HS rèn luyện KNS. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Để đánh giá kết quả, tôi đã tiến hành thực nghiệm sư phạm ở lớp 10C8 (40 HS) và lớp đối chứng 10C9 (42 HS). Mẫu được chọn khảo sát chất lượng là bài kiểm tra 15 phút bằng hình thức tự luận (phụ lục). Sau khi chấm, tôi tiến hành phân loại điểm của các bài kiểm tra ở lớp đối chứng và lớp thực nghiệm như sau: Bảng tổng hợp phân loại điểm kiểm tra 15 phút trước tác động Điểm số Lớp thực nghiệm (10C8) Lớp đối chứng (10C9) 1 0 0 2 0 0 3 0 0 4 2 1 5 6 6 6 10 11 7 13 14 8 8 10 9 1 0 10 0 0 Tổng 40 42 Biểu đồ phân bố điểm trước thực nghiệm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan