Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong môn l...

Tài liệu Skkn phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong môn lịch sử 9.

.DOC
49
2676
80

Mô tả:

MỤC LỤC Phần A - Đặt vấn đề..........................................................................................2 I.Lý do chọn đề tài................................................................................................2 II.Lịch sử vấn đề...................................................................................................4 III.Mục đích nghiên cứu........................................................................................6 IV. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................6 V.Đối tượng nghiên cứu........................................................................................6 VI.Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................7 VII.Phương pháp nghiên cứu................................................................................7 Phần B - Giải quyết vấn đề.................................................................................7 I. Cơ sở lý luận......................................................................................................7 II. Cơ sở thực tiễn................................................................................................11 1. Vài nét về thực trạng.......................................................................................11 2. Nguyên nhân của thực trạng này ...................................................................13 III.Nội dung vấn đề.............................................................................................14 1.Một số biện pháp phát triển năng lực của học sinh trong dạy học nêu vấn đề.........................................................................................................................14 1.1.Mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử lớp 9 THCS......................................14 1.2.Các biện pháp................................................................................................14 1.3. Vận dụng những thành tố của dạy học nêu vấn đề vào một bài học cụ thể........................................................................................................................20 2.Kết quả áp dụng................................................................................................27 3. Bài học sư phạm..............................................................................................28 4. Hiệu quả kinh tế - xã hội.................................................................................29 5.Điều kiện và khả năng áp dụng........................................................................29 Phần C: Kết thúc vấn đề...................................................................................31 -1- “PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH QUA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ TRONG MÔN LỊCH SỬ 9” ................................................. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa với mục tiêu năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội đối với lực lượng lao động là phải năng động, sáng tạo, có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học công nghệ. Để tạo ra lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đó, báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo”. Chính vì thế, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học bên cạnh đổi mới nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta trong thời kỳ mới. Việc đổi mới phương pháp dạy học không chỉ ở những bộ môn được coi là quan trọng, chính yếu mà đòi hỏi đổi mới phải đồng bộ ở tất cả các môn, trong đó có môn Lịch sử. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười cũng đã từng nhấn mạnh: Phải coi trọng giáo dục lịch sử dân tộc, coi lịch sử là tài nguyên giáo khoa số một trong nhà trường. Nếu không làm tốt giáo dục Lịch sử trong nhà trường thì thanh thiếu niên sẽ quên đi cội nguồn dân tộc. Bởi vậy, tri thức Lịch sử là một yếu tố của nền văn hóa chung cho loài người. Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, nhiều giáo viên đã và đang đổi mới cách dạy, tích cực áp dụng các phương pháp dạy học mới nhằm phát -2- huy tính tích cực của học sinh như: dạy học nêu vấn đề, đưa học sinh vào các tình huống có vấn đề, tạo hứng thú học tập cho học sinh rồi sử dụng hệ thống câu hỏi, sử dụng tài liệu, tư liệu… Nhưng thực tế cho thấy hiện nay hầu hết các em không thích học lịch sử vì có quá nhiều các sự kiện, các mốc thời gian mà các em không thể nhớ được.Trong khi đó nhiều giáo viên truyền thụ lại những nội dung được trình bày trong sách giáo khoa, học sinh nghe và ghi chép. Học sinh được làm việc chung theo cả lớp, chưa được tổ chức làm việc theo nhóm và ít được làm việc độc lập. Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử…không được trình bày một cách cụ thể, sinh động; học sinh không được trực tiếp làm việc với các sử liệu. Hoạt động nhận thức của học sinh chưa trở thành trung tâm của quá trình dạy học lịch sử. Học sinh ít được giao nhiệm vụ và tạo điều kiện thuận lợi để tự mình hình thành hiểu biết về quá khứ. Phương thức lĩnh hội bao trùm là nghe và ghi nhớ; do đó, những kiến thức cơ bản không được lĩnh hội vững chắc, những kỹ năng học tập Lịch sử không được hoàn thiện. Trong dạy học Lịch sử, vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp đã không tận dụng khả năng tạo ra sự xúc động, sự rung cảm của học sinh trước các sự kiện, hiện tượng, hành động lịch sử… Vậy làm thế nào để các em có hứng thú, say mê học môn Lịch sử. Muốn học sinh ham học, thích học bộ môn Lịch sử đòi hỏi giáo viên phải có tâm huyết, lòng say mê đặc biệt cần phải có phương pháp tốt biết gợi mở để cuốn hút học sinh, dẫn dắt các em vào tình huống có vấn đề và hướng dẫn các em giải quyết vấn đề để các em nắm bắt được tri thức lịch sử một cách dễ dàng và in sâu trong tâm thức. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử, tôi đã chọn vấn đề “Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong bộ môn lịch sử 9” làm sáng kiến kinh nghiệm. Tôi hy vọng hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình trong quá trình công tác và là một tài liệu để đồng nghiệp tham khảo góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn. -3- II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Lịch sử phát triển của giáo dục, Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích cực của người dạy và người học. Tuy nhiên, tùy vào từng giai đoạn phát triển của lịch sử, phương pháp nêu vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ngay từ thời cổ đại, người ta đã nhận thấy sự xuất hiện của phương pháp nêu vấn đề trong cách dạy học trò của Khổng Tử. V.Ôkôn trong cuốn “ Những cơ sở dạy học nêu vấn đề” đã đưa ra những khái niệm về vấn đề, dạy học nêu vấn đề, những cơ sở của dạy học nêu vấn đề, lịch sử của dạy học nêu vấn đề. I.Ia.Lecne trong cuốn “ Dạy học nêu vấn đề” nên cạnh việc đưa ra những khái niệm quan trọng về dạy học nêu vấn đề, tình huống có vấn đề, tác giải còn đi sâu nghiên cứu và làm rõ nguồn gốc, chức năng, bản chất, phạm vi ứng dụng của dạy học nêu vấn đề. Trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử tập 1” của các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã khẳng định: “Khi hướng dẫn học sinh nắm kiến thức cơ bản, giáo viên cần chú ý đến “ nhu cầu tư duy” của học sinh, khi các em tiếp thu kiến thức mới, hoặc muốn hiểu sâu sắc, làm phong phú hơn kiến thức đã biết. Trong trường hợp này ở học sinh xuất hiện những thắc mắc, những vấn đề được đặt ra để giải quyết. các nhà giáo dục học gọi trường hợp như trên là tình huống có vấn đề. Trong dạy học giáo viên luôn luôn chú trọng khêu gợi học sinh đặt vấn đề tìm hiểu, không dừng ở việc thụ động tiếp thu. Đặt câu hỏi nêu ra điều mình chưa biết là một yếu tố quan trọng để học tập thông minh, chủ động. Vấn đề đặt ra là phải nhằm vào bản chất, những điều quan trọng để hiểu sự kiện, chứ không phải là những chi tiết vụn vặt, hình thức bên ngoài. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách giải quyết vấn đề, sau đó tiếp thụ và củng cố kiến thức mới…Cách dạy học như vậy được gọi là dạy học nêu vấn đề, khác hẳn với cách giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ -4- biết nghe, ghi, nhớ mà lười suy nghĩ. Dạy học nêu vấn đề sẽ phát huy tính tích cực tự nhận thức của học sinh.Một trong những đặc trưng cơ bản của việc phát triển tư duy của học sinh là phát huy năng lực độc lập học tập, phát triển trí thông minh óc sáng tạo của các em trong việc biết đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên và trao đổi với bạn học. Về bản chất, Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành của nhiều phương pháp dạy học liên kết với nhau, trong đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và tổ chức, thúc đẩy hoạt động tìm tòi sáng tạo của học sinh giải quyết vấn đề.”… Trong cuốn: “Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Lịch sử” của tác giả Nguyễn Hải Châu có viết: “Nhiệm vụ của người giáo viên trong dạỵ học truyền thống là người truyền đạt kiến thức cho học sinh. Kiến thức đã được giáo viên chuẩn bị sẵn và cung cấp cho học sinh ở trên lớp theo kiểu giáo viên giảng (đọc), học sinh chép. Giáo viên là người có sứ mạng truyền thụ kiến thức cho học sinh, là trung tâm của giờ học, còn học sinh đóng vai trò thụ động, chờ đợi kiến thức do người giáo viên cung cấp. Nhưng tri thức loài người ngày càng phát triển phong phú, trong một thời lượng cho phép hết sức hạn hẹp, giáo viên không thể cung cấp cho học sinh tất cả những gì thuộc về chuyên môn của mình. Hơn nữa, nếu có cung cấp được thì những kiến thức do giáo viên đưa ra, học sinh tiếp thu một cách thụ động, sẽ không vững chắc trong nhận thức của học sinh. Khoa học giáo dục đã chỉ ra rằng, quá trình học phải là một quá trình chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh, phải là quá trình tự đào tạo thì việc nắm kiến thức mới lâu dài và bền vững. Đã từ lâu các nhà giáo dục đã khởi xướng một kiểu dạy học mới, theo đó thay đổi hẳn quan niệm về vị trí của người giáo viên ở trên lớp. Giáo viên từ vai trò là trung tâm lớp học, người giữ đặc quyền trong việc cung cấp kiến thức có sẵn cho học sinh trở thành người tổ chức hướng dẫn học sinh tự tìm đến kiến thức, biến việc học trở thành một nhu cầu tự thân. Có nhiều cách gọi khác nhau về kiểu dạy học này như: “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” “ dạy học tích cực”, “dạy học tự học”, “dạy học nêu vấn -5- đề”, “dạy học Ơritic”…Dù có tên gọi khác nhau, nhưng nội dung cơ bản của các quan niệm dạy học này đều nhằm đến mục tiêu là phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, biến việc học tập của học sinh trở nên hứng thú, trở thành nhu cầu của chính người học”. Đặc biệt cuốn “Tài liệu dạy học và kiểm tra, đanh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử” của Bộ giáo dục và đào tạo đã gợi mở các biện pháp nhàm phát huy năng lực của học sinh cấp THCS. Đánh giá: Những công trình nghiên cứu một trong những cơ sở gợi mở giúp tôi tìm tòi được hướng giải quyết thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này. Tuy nhiên các tác giả của các công trình nói trên mới đề cập một cách chung chung, giải quyết về mặt lý luận mà chưa đề cập cụ thể việc "Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong bộ môn lịch sử 9 THCS”. Hoàn thành vấn đề này, với tôi có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có thể vận dụng lý luận vào dạy học và khả năng vận dụng vào thực tiễn giảng dạy của bản thân trong quá trình công tác.Đây chính là lý do giúp tôi tiếp tục đi sâu và làm sáng tỏ vấn đề. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong bộ môn Lịch sử 9 nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, khắc phục tình trạng dạy học theo kiểu giáo điều, nhồi sọ, giáo viên đọc cho học sinh chép những kiến thức có sẵn... IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Qua thực tế giảng dạy tôi thấy việc đổi mới phương pháp là rất quan trọng. Đó là vấn đề đã được đề cập đến nhưng tôi thấy chưa thật hiệu quả. Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra phương pháp, giải pháp phù hợp đối với một giờ dạy nhằm “Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong bộ môn lịch sử 9 THCS” V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Là “Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong bộ môn lịch sử 9 THCS” -6- VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Cụ thể là các bài giảng trong chương trình lịch sử 9 THCS VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để giải quyết vÊn ®Ò, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về những vấn đề liên quan đến đề tài của những nhà khoa học giáo dục lịch sử ở nước ta. - Nghiên cứu lý luận các quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta bàn về giáo dục. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm về các biện pháp có liên quan đến đề tài, so sánh đối chiếu với lớp đối chứng để rút ra kết luận. - Tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông. Đề tài được viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp quan sát, khảo sát, so sánh. - Phương pháp phỏng vấn, điều tra. - Phương pháp thống kê toán học. - Phương pháp tổng hợp. - Ph¬ng ph¸p ph©n tÝch B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử dụng như sau: năng lực liên quan đến bình diện, mục tiêu của dạy học, mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành; năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn… Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành của nhiều phương pháp dạy học liên kết với nhau, trong đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và tổ chức, thúc -7- đẩy hoạt động tìm tòi sáng tạo của học sinh giải quyết vấn đề thông qua đó để hình thành và phát triển các năng lực của học sinh. Những vấn đề lý luận và vận dụng của dạy học nêu vấn đề đã được các nhà giáo, các nhà sư phạm quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, có rất nhiều cách giải thích khác nhau, quan niệm về dạy học nêu vấn đề cũng khá phong phú. Chúng ta có thể điểm qua một số quan niệm về dạy học nêu vấn đề của một số tác giả trong và ngoài nước như sau: Nhà giáo dục học Ba Lan V.Ôkôn cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là toàn bộ các hoạt động như tổ chức tình huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý giúp đỡ cho học sinh những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách giải quyết đó và cuối cùng là quá trình hệ thống hóa và củng cố các kiến thức tiếp thu được” I.Ia. Lecne trong cuốn “Dạy học nêu vấn đề”, ông cho rằng dạy học nêu vấn đề là trong quá trình học tập, “học sinh giải quyết một cách sáng tạo các loại vấn đề và các bài toán có vấn đề trong một hệ thống nhất định, thì diễn ra sự lĩnh hội sáng tạo các tri thức và kỹ năng, sự nắm những kinh nghiệm mà hoạt động sáng tạo của xã hội tích luỹ được, sự hình thành nhân cách có tính tích cực của công dân”. Như vậy, theo Lecne, trong dạy học nêu vấn đề phải có vấn đề và các bài toán có vấn đề, học sinh giải quyết các vấn đề này một cách sáng tạo. Theo các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng trong giáo trình “Phương pháp dạy học Lịch sử” đã nêu quan niệm về dạy học nêu vấn đề: “ Trong dạy học, giáo viên luôn chú trọng khơi gợi học sinh đặt vấn đề tìm hiểu, không dừng ở việc thụ động tiếp thu đặt câu hỏi nêu ra điều mình chưa biết là một yếu tố quan trọng để hiểu sự kiện chứ không là những chi tiết vụn vặt, hình thức bên ngoài. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách giải quyết vấn đề, sau đó tiếp thu và củng cố kiến thức mới. cách dạy học như thế gọi là dạy học nêu vấn đề”. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Bảo: “ Dạy học nêu vấn đề là hình thức dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có những nét cơ -8- bản sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan cho họ”. Từ những ý kiến trên đây về dạy học nêu vấn đề, chúng ta có thể thấy: Dạy học nêu vấn đề là một quan niệm dạy học, trong đó, việc phát triển tư duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ, khơi gợi nhu cầu, hứng thú học tập của học sinh được đặt lên hàng đầu. Vai trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong việc tạo ra tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết sáng tạo vấn đề đó. Dạy học nêu vấn đề là cách tổ chức dạy học gồm 3 yếu tố cơ bản: tình huống có vấn đề, biểu đạt vấn đề đưa học sinh vào tình huống có vấn đề và tổ chức, hướng dẫn giúp học sinh tích cực, tự giác, sáng tạo trong giải quyết vấn đề. Như vậy dạy học nêu vấn đề thể hiện quan niệm đúng đắn cho rằng, học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của giáo dục và được thực hiện với những bước đi, biện pháp sư phạm hợp lý. Đồng thời, nó cũng bồi dưỡng cho học sinh hứng thú tìm tòi, nghiên cứu lịch sử, được tập luyện dần dần với phương pháp nghiên cứu khoa học và nâng cao chất lượng học tập bộ môn. Dạy học nêu vấn đề có những yếu tố cơ bản sau: * Vấn đề: Có nhiều cách hiểu thuật ngữ “vấn đề” nhưng hiểu theo nghĩa dùng trong giáo dục thì vấn đề là bài toán mà chủ thể chưa biết ít nhất một phần tử của khách thể, mong muốn tìm phần tử chưa biết đó dựa vào những phần tử biết trước nhưng chưa có trong tay thuật giải. Hay có thêt hiểu:Vấn đề là những mâu thuẫn tự nhiên và xã hội đặt ra đòi hỏi con người phải giải quyết. Vấn đề mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. * Điều kiện để có tình huống có vấn đề: Trước hết tình huống phải tồn tại một vấn đề: Đây là vấn đề trung tâm của tình huống.Tình huống phải chứa đựng một mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa trình độ kiến thức sẵn có của bản thân với yêu cầu lĩnh hội kiến thức, lĩ -9- năng mới. Hay nói cách khác, tình huống có vấn đề là học sinh phải nhận ra được có ít nhất một phần tử nào đó của khách thể mà học sinh chưa biết và cũng chưa có thuật giải nào để tìm phần tử đó. Tình huống phải gợi nhu cầu nhận thức: Tình huống có vấn đề phải chứa đựng một vấn đề tạo ra sự ngạc nhiên, hứng thú, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của học sinh. Hay nói cách khác là phải gợi nhu cầu nhận thức ở học sinh, làm cho học sinh cảm thấy cần thiết phải giải quyết. Chẳng hạn tình huống phải bộc lộ sự khiếm khuyết về kiến thức, kĩ năng để học sinh thấy cần thiết phải chiếm lĩnh tri thức để lấp đầy những khoảng trốngđó nhằm tự hoàn thiện hiểu biết của mình bằng cách tham gia giải quyết vấn đề nảy sinh. Nếu tình huống đưa ra nhưng không khơi dậy ở học sinh nhu cầu phải tìm hiểu, họ cảm thây xa lạ và không liên quan gì đến mình thì chưa được gọi là tình huống có vấn đề. Khơi dậy niềm tin ở khả năng bản thân: Tình huống có vấn đề phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, nó không được vượt quá xa tầm hiểu biết của học sinh vì nếu như vậy học sinh sẽ thấy hoang mang, bế tắc, không sẵn sàng tham gia giải quyết vấn đề. Nếu tình huống quá dễ thì học sinh không cần suy nghĩ mà cũng có thể giải quyết được vấn đề thì yêu cầu của giờ học không được thỏa mãn. Như vậy tình huống cần khơi dậy ở học sinh cảm nghĩ là tuy họ chưa có ngay lời giải nhưng bằng kiến thức sẵn có của chính mình cùng với sự tích cực suy nghĩ thì sẽ có hy vọng giải quyết được vấn đề đó.Với suy nghĩ đó học sinh sẽ tận lực huy động tri thức và kĩ năng sẵn có liên quan đến vấn đề đó của bản thân để giải quyết vấn đề đặt ra.Qua đó tạo cho học sinh niềm tin vào khả năng của bản thân, đây là vấn đề quan trọng của tình huống có vấn đề. * Biểu đạt tình huống vấn đề trong bài giảng của giáo viên: Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề đặt ra yêu cầu cao đối với người giáo viên. Khi có tình huống có vấn đề giáo viên phải tìm cách biểu đạt như thế nào để quá trình dạy học nêu vấn đề diễn ra có hiệu quả. Giáo viên xem học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. Các hình thức mà giáo viên thường tổ chức cho học sinh phát hiện vấn đề đó là học lý thuyết -10- và làm bài tập. Giáo viên luôn thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực để phù hợp với hoạt động học tập của học sinh giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng và triệt để. Trong bài giảng của mình, giáo viên phải đặt học sinh vào trạng thái tâm lý đặc biệt - một trong các điều kiện để có dạy học nêu vấn đề. Lúc đó ở học sinh xuất hiện thắc mắc, hoài nghi, mâu thuẫn trong nhận thức. Vì thế, học sinh tò mò, nhu cầu nhận thức cái chưa biết nhưng cần phải biết xuất hiện. Điều quan trọng là giáo viên phải khéo léo đặt ra vấn đề và gợi hứng thú nhận thức ở học sinh. Học sinh chỉ hứng thú nghe giáo viên giảng bài khi bài học cung cấp những kiến thức mới, khi giáo viên có phương pháp giảng dạy sinh động, lôi cuốn, kích thích học sinh tìm tòi, học hỏi thêm ngoài những điều đã lĩnh hội trên lớp. Cũng qua bài trình bày, giáo viên phải nêu được “vấn đề” trong tình huống có vấn đề, tức là những kiến thức có tính trừu tượng, khái quát nhất định. Những vấn đề này học sinh chưa biết nhưng do yêu cầu nhận thức, bắt buộc học sinh phải biết. Cần chú ý thêm rằng, “ vấn đề” trong tình huống có vấn đề phải vừa sức với học sinh. Trong dạy học nêu vấn đề, giáo viên có thể đặt ra những tình huống có vấn đề cơ bản và những tình huống phụ trợ để giải quyết tình huống có vấn đề cơ bản. Bài trình bày của giáo viên khi gợi ra những tình huống có vấn đề phải tạo ra được bầu không khí sáng tạo, sinh động trong lớp học. Từ đó, các em sẽ hứng thú say mê trong việc tìm tòi, lĩnh hội kiến thức mới. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Vài nét về thực trạng - Về phía giáo viên: Đổi mới phương pháp dạy học là xu thế của thời đại, là trào lưu chung của loài người, là mệnh lệnh của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là sự đòi hỏi của sự đáp ứng yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện thị trường lao động đầy cạnh tranh của con em chúng -11- ta,...chứ không phải là ý muốn chủ quan của một người hoặc một nhóm người nào đó. Trong mấy năm qua, bộ môn lịch sử đã đổi mới nhiều trong các khâu cơ bản của quá trình dạy học. Bài học học lịch sử diễn ra sinh động, hấp dẫn, không khí học tập sôi nổi, hứng thú, học sinh tích cực làm việc một cách độc lập, có phần sáng tạo. Nhiều giáo viên dạy sử có năng lực tổ chức quá trình học tập theo quan niệm sư phạm hiện đại, vận dụng các phương pháp mới đạt hiệu quả, bên cạnh những cách dạy học truyền thống; có nhận thức đúng đắn về đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt, một số giáo viên đã vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề có hiệu quả góp phần quan trọng vào việc rèn luyện năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ trong việc giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình học tập; giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn hệ thống kiến thức của môn học, rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư duy, loogic…Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần trong lao động học tập, thái đội vượt khó nói riêng. Năm học 2014-2015, Bộ giáo dục triển khai việc đổi mới trong dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát triển năng lực của học sinh. Bên cạnh việc cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học thì việc vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề góp phần quan trọng trong việc phát triển năng lực tư dạy, khẳ năng nhận biết và giải quyết vấn đề của học sinh. Song đôi khi vì nhiều lí do, cách dạy học này đối với giáo viên không phải lúc nào cũng thành công. Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí truyết. Việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. -12- Trên thực tế có nhiều giáo viên đã sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, tuy nhiên sử dụng phương pháp dạy học này để phát triển năng lực cho học sinh một cách có hiệu quả nhất thì còn nhiều hạn chế. - Về phía học sinh: Các em thường hay rụt rè khi được yêu cầu phát biểu, thường chỉ 1 vài em tích cực từ đầu năm đến cuối năm luôn luôn phát biểu, còn có em ngại nói, ít tư duy, nếu thầy, cô không quan tâm tới có khi cả năm chẳng phát biểu bao giờ. Vì vậy phần lớn học sinh ngại học lịch sử, không thích học lịch sử. Hầu hết các em coi môn sử là môn phụ không cần học, nếu học chỉ để cho đủ điểm, không cần đọng lại gì trong đầu. Học sinh học lịch sử một cách thụ động, chỉ biết ghi chép như một cái máy, học thuộc như một cái máy.... Tại sao học sinh lại không yêu thích với môn lịch sử, giờ học lịch sử? Phải chăng là do phía người dạy hay sách giáo khoa. Vì vậy, tôi đã làm phiếu điều tra trước khi thực hiện đề tài. PHIẾU ĐIỀU TRA (Em hứng thú hoặc quan tâm đến nội dung nào sau đây, hãy đánh dấu x vào ô trống trong bảng) Nội dung Có Không Em có quan tâm đến bộ môn lịch sử trong trường học 95/150 55/150 Em có yêu thích giờ học lịch sử 80/150 70/150 Đã khi nào em tự đặt câu hỏi về một sự kiện lịch sử 65/150 85/150 Đã khi nào em tự tìm hiểu về một sự kiện lịch sử 50/150 100/150 Qua kết quả điều tra, số học sinh yêu thích môn lịch sử chưa nhiều và tự đặt vấn đề, tự tìm hiểu về một sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử lại càng ít hơn. 2. Nguyên nhân của thực trạng này Sở dĩ có tình trạng trên vì cách dạy học nêu vấn đề cần rất nhiều thời gian, đòi hỏi người giáo viên phải tính toán thật kỹ khi xây dựng tình huống. Bởi nếu tình huống không vừa sức với học sinh hoặc là quá khó hoặc là quá dễ cũng sẽ không động viên học sinh tham gia tích cực vào quá trình nhận thức tri thức mới. Hơn nữa nếu đã tốn nhiều thời gian xây dựng mà không khuyến khích người học tích cực sẽ tạo cho người thầy có tâm lý chán nản, dần dần ngại xây dựng tình huống có vấn đề. Đồng thời việc thực hiện này ở trên lớp cũng mất nhiều thời gian, nếu không khéo sẽ dẫn đến cháy giáo án, khó thành công một -13- giờ dạy. Nhiều giáo viên xây dựng tình huống nhưng thực tế lại không khéo léo dẫn dắt thành ra lại khiến vấn đề trở nên rắc rối, khó hiểu, thậm chí lại có kết quả ngược lại so với mong muốn. Chính vì thế, nhiều giáo viên xây dựng các tình huống trong dạy học nêu vấn đề ở bộ môn Lịch sử không được thường xuyên, mà chỉ là để thực hiện trong các giờ hội giảng, chuyên đề, hoặc có xây dựng tình huống nhưng chỉ là để đối phó trong giáo án mà thôi. Hơn nữa, cũng xuất phát từ thực tế quan niệm trong xã hội về môn học: xem nhẹ, không bằng những môn học thời thượng; nên giáo viên cũng thiếu nhiệt tình. Còn các em học sinh được học ở những giờ dạy đó đều được nâng cao hơn về khả năng giao tiếp trước tập thể, tính tích cực và sáng tạo có điều kiện để thể hiện. Những kiến thức các em tự mình nhận ra và tự mình ghi nhớ nên được nhớ sâu sắc hơn. Tuy nhiên, không phải giờ học nào cũng được học như thế nên các em mong muốn có nhiều giờ dạy hay và hứng thú, có nhiều tình huống cho các em tham gia giải quyết để nâng cao khả năng tự nhận thức cho mình. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn 1 số em không thích học môn sử vì bố mẹ hoặc xã hội không trọng; hoặc 1 số em chưa thật sự mạnh dạn, nhận thức quá kém so với các bạn cùng trang lứa (hạn chế của vùng nông thôn miền núi nghèo) nên còn chưa nhận thức được vai trò, ý nghĩa của cách dạy học này, vì thế mà chính kiến không rõ ràng. III. NỘI DUNG VẤN ĐỀ 1. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ. 1.1.Mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử lớp 9 THCS (Phụ lục) 1.2. Các biện pháp: Phương pháp dạy học nêu vấn đề sẽ đặt học sinh trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức. Dạy học nêu vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức cảu học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực -14- khác nhau của học sinh. Qua thực tiễn giảng dạy của bản thân trong dạy học Lịch sử lớp 9, tôi đã đúc rút được các biện pháp sau nhằm phát huy năng lực của học sinh: a. Biện pháp 1: Trao đổi, đàm thoại trong dạy học lịch sử: Đây là công việc mà giáo viên nêu ra các câu hỏi để học sinh lần lượt trả lời, đồng thời các em có thể trao đổi với nhau, dưới sự chỉ đạo của thầy, qua đó đạt được mục đích dạy học nêu vấn đề. Việc trao đổi, đàm thoại trong dạy học Lịch sử được tiến hành dưới các dạng chủ yếu sau: + Tái hiện sự kiện lịch sử: Qua trao đổi giữa giáo viên và học sinh nhằm gợi lại những kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới để khái quát hoá và hệ thống hoá kiến thức. Nó giúp cho học sinh củng cố, hiểu sâu hơn kíến thức cũ, làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức mới, không bị gián đoạn trong nhận thức. Việc trao đổi tái hiện sự kiện lịch sử cũng có thể tiến hành ở đầu giờ để giới thiệu bài mới hoặc trong tiến trình bài giảng để củng cố hay khẳng định sự kiện, lúc ấy giáo viên cần nhắc lại kiến thức cũ, để học sinh nhận thức được liên tục, có hệ thống. Ví dụ: Khi dạy bài: “ Nước Mĩ ”, giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh Mĩ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản sử dụng câu hỏi tái hiện như sau: Bức tranh mà em đang quan sát gợi cho em nhớ đến sự kiện nào? Sau khi học sinh nhớ lại và trả lời giáo viên hỏi tiếp:Các em hãy cho biết: Nước Mĩ đã thu được những lợi nhuận gì sau chiến tranh? Đó là tình huống có vấn đề mà HS buộc phải nhớ lại kiến thức và trả lời: Nước Mĩ buôn bán vũ khí thu được 114 tỉ USD, chiến tranh ít tàn phá...... ? Vậy những điều kiện thuận lợi đó giúp nền kinh tế Mĩ phát triển như thế nào? sau chiến tranh thế giới thứ II thì chính sách đối nội, đối ngoại của giới cầm quyền Mĩ thực hiện ra sao?..... GV dẫn dắt vào bài hôm nay. Như vậy HS sẽ nắm kiến thức 1 cách có hệ thống, liên tục. -15- Hình ảnh Mĩ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hi-rô-si-ma của Nhật + Phân tích và khái quát hoá: Qua trao đổi, đàm thoại nhằm làm cho học sinh tiếp thu kiến thức trình bày, hiểu được tính logic, bản chất của sự kiện lịch sử. trong việc trao đổi này, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích và đánh giá các sự kiện lịch sử. Câu hỏi nêu ra để học sinh trao đổi kiểu này thường liên quan đến các sự kiện cơ bản đòi hỏi sự vận dụng tổng hợp của nhiều hiện tượng, để tìm ra tính logic, bản chất của sự kiện đó. Ví dụ: Khi dạy bài 24: “Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945 – 1946) ” Phần VI. GV đặt câu hỏi để hướng dẫn HS thảo luận nhóm và phân tích: ? Tại sao nói việc ký hiệp định sơ bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946 là chủ trương hết sức sáng suốt của Đảng ta? Trước tình huống này, HS phải vận dụng kiến thức của các sự kiện liên quan. -16- GV có thể gợi mở bằng hệ thống câu hỏi: Quân Tưởng và quân Pháp có âm mưu gì để chống phá cách mạng nước ta? ( Kí hiệp ước Hoa-Pháp bắt tay chống phá cách mạng nước ta...) ? Cùng một lúc chúng ta có thể đối đầu với nhiều kẻ thù hay không? (Chúng ta phải đuổi được 20 vạn quân Tưởng về nước......). Như vậy qua 2 câu hỏi gợi mở trên, chắc chắn HS sẽ giải quyết được vấn đề mà giáo viên đưa ra ở đầu mục Phần VI: Tại sao nói việc ký hiệp định sơ bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946 là chủ trương hết sức sáng suốt của Đảng ta? (Tránh phải đối đầu với nhiều kẻ thù, việc ký hiệp định ta đuổi nhanh được 20 vạn quân Tưởng về nước, có thời gian để chuẩn bị lực lượng để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài, tỏ rõ thiện chí hòa bình của nhân dân ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.... + Tìm tòi phát hiện sự kiện lịch sử: Qua trao đổi trong quá trình dạy học nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh khi giải quyết các nhiệm vụ học tập phức tạp. Trong trường hợp này, giáo viên đặt câu hỏi để học sinh huy động những kiến thức cần thiết đã thu nhận được trong quá trình học tập, trong hoạt động thực tiễn ( quan sát, nhận xét…) để so sánh, đối chiếu các sự kiện lịch sử bằng suy đoán logic và tự tìm ra câu trả lời cho vấn đề đặt ra. Trao đổi tìm tòi phát hiện bao gồm một chuỗi các câu hỏi lần lượt tìm hiểu những vấn đề nhỏ, bộ phận có liên quan với nhau, hợp thành vấn đề lớn, cơ bản. Việc giải quyết các câu hỏi nhỏ có tính chất gợi ý, bổ trợ sẽ dẫn đến việc giải quyết vấn đề chính. Ví dụ: Sau khi tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta giai đoạn từ 1945-1954. GV đưa ra tình huống có vấn đề: Theo em những thắng lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược của ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp là gì? Thắng lợi nào có ý nghĩa quyết định nhất? HS phải tiến hành thao tác so sánh, đối chiếu trên cơ sở đã nắm được nội dung của cả 3 chiến thắng Việt Bắc 1947,Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ 1954 để tìm tòi và phát hiện ra vấn đề. GV có thể hướng dẫn các em thao tác so sánh trên các phương diện: Thời gian tồn tại, địa bàn ( qui mô)......Với các câu hỏi trên, HS dễ dàng so sánh và -17- nhận thấy: Chiến thắng Điện Biên Phủ xứng đáng là thắng lợi có ý nghĩa quyết định nhất. (Đập tan kế hoạch Na-Va với ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh,tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giaotaij hội nghị Giơ-ne-vơ......) + Ôn tập, tổng kết bài học lịch sử hoặc giai đoạn lịch sử: Biện pháp trao đổi được được tiến hành để khái quát hoá, củng cố kiến thức đã học và nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. Ví dụ dạy bài 13: “Tổng kết lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến nay”, GV nên đặt ra tình huống (vấn đề) ngay ở đầu giờ ôn tập để trong suốt tiến trình bài giảng sẽ lần lượt giải quyết từng phần của vấn đề: VD –Trong khoảng thời gian học kì I các em đã được tìm hiểu chặng đường lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến nay. Ở tiết học này, cô trò ta cùng dừng lại để xem xét: Trong giai đoạn lịch sử đã học nội dung chính của giai đoạn này là gì? Các xu thế phát triển của thế giới ngày nay? Tại sao lại nói: “ Hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển” vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các dân tộc? Đó cũng là những vấn đề chính của tiết ôn tập ngày hôm nay. Với cách đặt vấn đề trên đã tạo tâm thế cho HS trong giờ học, xác định cho các em mục đích rõ ràng, buộc các em phải tích cực huy động những kiến thức đã học để giải quyết. Và sau đó trong bài dạy, GV cho các em thời gian hoàn thiện các bảng thống kê để trả lời các câu hỏi. + Trong kiểm tra: Nhằm xem xét việc tiếp thu kiến thức của học sinh trong học tập để đánh giá, bổ sung, đính chính kiến thức. Việc trao đổi này được tiến hành thường xuyên, xen vào bài giảng hay trong khi kiểm tra bài cũ. Trao đổi kiểm tra không chỉ nhằm xem xét học sinh nắm các sự kiện lịch sử mà cả khả năng phân tích khái quát, hệ thống hoá và thực hành của học sinh. Với loại câu hỏi này, GV tiến hành thường xuyên trong các bài học hoặc nên cho HS tự đặt câu hỏi và kiểm tra lẫn nhau, thậm chí bản thân mỗi học sinh tự đặt câu hỏi và trả lời. Song vấn đề đặt ra là phải tuân thủ những yêu cầu sư phạm. Chọn các loại câu hỏi nào và tổ chức trao đổi như thế nào cho đúng với yêu cầu sư phạm. -18- b. Biện pháp 2: Tự nghiên cứu vấn đề và trình bày kết quả: Trong trường hợp vấn đề khó và phức tạp, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự tìm tòi thêm tư liệu, sự kiện để giải quyết vấn đề. Ví dụ: Nguyễn Aí Quốc có vai trò như thế nào đối với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam? Để làm rõ vấn đề này, ngoài bài học trong sách giáo khoa học sinh cần phải tìm thêm các tài liệu khác nữa và giành thêm thời gian thì mới giải quyết trọn vẹn vấn đề. Giải quyết được vấn đề này, học sinh không chỉ kính phục, trân trọng Người mà còn được bồi dưỡng, củng cố niềm tin vào việc tiếp tục thực hiện con đường đã được lựa chọn và khẳng định. c. Các bước tiến hành: Bài học theo kiểu dạy học nêu vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với việc hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Dạy học nêu vấn đề bao gồm các thành tố: trình bày nêu vấn đề, tình huống có vấn đề và bài tập nêu vấn đề. * Bước 1: Trình bày nêu vấn đề: Khi trình bày nêu vấn đề, phải đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học, tính Đảng, ngôn ngữ trong sáng... Khơi gợi và quyết định hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Giáo viên đặt học sinh trước sự giải quyết một điều mới, điều chưa biết, đồng thời hướng dẫn học sinh độc lập tìm ra vấn đề đó trên cơ sở phần trình bày của giáo viên và những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, vốn sống thực tế của các em. * Bước 2: Giáo viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý xuất hiện khi con người gặp phải tình huống khó khăn giải quyết bằng tri thức đã có, bằng cách thức đã biết không thể được mà đòi hỏi phải lĩnh hội tri thức mới và cách thức hành động mới. Ví dụ: khi tìm hiểu bài 3 “Quá trình phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa” thì giáo viên có thể dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề: Sau chiến tranh thế giới thứ hai tình hình chính trị ở Châu Âu có nhiều sự biến đổi với sự ra đời của hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Còn ở Châu Á, Phi, Mĩ-Latinh có gì biến đổi không? -19- Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra như thế nào? Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc tan rã ra sao? Các em cùng tìm hiểu tiết học hôm nay để trả lời cho những nội dung trên. Có những loại tình huống có vấn đề sau: - Tình huống nghịch lý là tình huống vấn đề xuất hiện đứng trước một sự lựa chọn rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết. - Tình huống bác bỏ là tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một luận điểm kết luôn sai lầm. Để đạt được điều đó người học phải tìm ra được chỗ yếu, chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kết luận đó và chứng minh tính chất sai lầm của chúng. - Tình huống tại sao là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học và trong dạy học. Như vậy, các tình huống trên đòi hỏi người học phải vận dụng kiến thức và kĩ năng vốn có đẻ giải quyết vấn đề đặt ra. Người học phải tìm ra được các mối liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên nhân dẫn đến kết quả đó. * Bước 3: Giáo viên đưa ra bài tập nêu vấn đề (bài tập nhận thức) - Đây là bài tập mà việc độc lập giải quyết nó sẽ dẫn đến chố tạo ra sự hiểu biết mới bằng phương thức giải quyết mới mà trước đó học sinh chưa biết.Chức năng quan trọng của của bài tập nêu vấn đề là rèn luyện năng lực tích cực , độc lập suy nghĩ trong việc giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình học tập. Vì vậy, việc xây dựng và sử dụng bài tập nêu vấn đề trong dạy học phải nhằm vào mục đích: Tăng cường hoạt động nhận thức tích cực, độc lập thông minh sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức; giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn hệ thống kiến thức của môn học, bài học; rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy, lôgic...bồi dưỡng tư tưởng tình cảm đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần trong lao động học tập, thái độ vượt khó nói riêng. 1.3. Vận dụng những thành tố trên vào một bài học lịch sử cụ thể có cấu trúc như sau: -20-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng