SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“PHÁT HUY KHẢ NĂNG PHẢN BIỆN CỦA HỌC SINH THPT
TRONG DẠY HỌC VĂN”
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chỉ thị số 2737 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, ngày 27 – 7 - 2012 đã nêu rõ từng
nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục năm học 2012 – 2013. Trong đó, toàn ngành tiếp
tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ XI, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước. Một trong những giải pháp trọng tâm vẫn phải là đổi mới phương pháp dạy
học. Vận dụng các hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học sao cho đạt hiệu quả cao
nhất theo yêu cầu của mục tiêu giáo dục là một trong những cách đổi mới thiết thực nhất.
1.2. Từ thực tế của đời sống xã hội, ngành GD&ĐT đặt ra yêu cầu phải đào tạo
được thế hệ người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc. Đồng thời có ý thức
chủ động, tích cực bày tỏ quan điểm, lập trường trước những vấn đề nảy sinh trong đời
sống xã hội, hướng tới chân lí của mọi vấn đề. Trong dạy học, tất cả các bộ môn cần rèn
luyện cho học sinh biết tranh luận, phản biện vấn đề, tạo thói quen tốt trong nhìn nhận,
đánh giá các vấn đề trong cuộc sống. Yêu cầu mang tính cấp thiết ấy cũng góp phần thực
hiện mục tiêu kết hợp dạy “người” với dạy “chữ”, lí thuyết phải gắn với thực hành. Khả
năng phản biện của học sinh trong quá trình học tập sẽ giúp học sinh phát huy được tính
chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện được khả năng làm việc độc lập, làm việc
theo nhóm.
1.3. Ở Việt Nam, các nhà quản lí giáo dục đang rất quan tâm, nghiên cứu và đưa
việc phản biện vào trường học như một hoạt động giáo dục thường xuyên, liên tục. Tuy
nhiên, vấn đề này mới dừng lại ở bậc ĐH, Cao đẳng. Ở bậc THPT chưa được quan tâm
thích đáng. Hoặc việc nghiên cứu, vận dụng còn mang tính rời rạc, chưa hệ thống, bài
bản, hiệu quả.
1.4. Thực tế cho thấy, khả năng phản biện vấn đề ở học sinh THPT còn tồn tại dưới
dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Nhiều học sinh muốn phản biện, hoặc đã từng phản
biện nhưng chưa được giáo viên tạo điều kiện, chưa được các bạn trong lớp hưởng ứng
chân thành. Có nhiều lí do khác nhau khiến cho khả năng này chưa trở thành thói quen,
thành kỹ năng được. Việc dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT vì thế mà cũng trở nên
nhàm chán hơn, hình thức truyền thụ một chiều. Học sinh nghe, hiểu và làm theo. Không
phản hồi. Phát huy được khả năng phản biện vấn đề của học sinh, chắc chắn chất lượng
dạy và học sẽ được nâng lên một mức đáng kể.
1.5. Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là xây dựng một
nền giáo dục thực sự dân chủ. Phản biện của học sinh trong quá trình dạy học là một biểu
hiện tích cực của một giờ học dân chủ và một nền giáo dục dân chủ. Phát huy khả năng
phản biện của học sinh là một trong những cách góp phần xây dựng những giờ học đầy
ắp không khí dân chủ và một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ.
1.6. Đặt trong bối cảnh chung của ngành GD hiện nay, phát huy khả năng phản
biện của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học Văn nói riêng cũng góp phần quan
trọng vào việc xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
Với những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất : cần phải “Phát huy khả năng
phản biện của học sinh THPT trong dạy học Văn”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Theo quan sát của cá nhân thì ở Việt Nam, cho đến nay đã có nhiều ý kiến về việc
cần đưa phản biện vào nhà trường, trong quá trình dạy học ở các bộ môn khác nhau. Các
ý kiến được đăng tải trên các báo, tạp chí, các website. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu chính thức nào về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn – THPT, góp phần thực hiện
thành công công cuộc đổi mới phương pháp dạy học văn. Đồng thời, phát huy tối đa tiềm
năng học tập, nghiên cứu, sáng tạo của học sinh ở bộ môn Ngữ Văn, cấp THPT. Bồi
dưỡng và nâng cao kĩ năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, đặc biệt là góp phần
hình thành kĩ năng phản biện tích cực cho HS trong học tập hiện tại cũng như trong cuộc
sống sau này.
4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu và chỉ ra cách phát huy khả năng phản biện của học sinh trong dạy học
Văn ở trường THPT.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
- Những phương pháp chính : Nghiên cứu lí luận ; Thực nghiệm ;
- Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn dịch;
Quy nạp ;
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về Phản biện khoa học, Phản biện xã hội, Phản biện trong dạy học. Đề
xuất những phương pháp phát huy khả năng phản biện của học sinh trong giờ dạy học
Ngữ Văn tại trường THPT. Thực nghiệm tại trường THPT Hoàng Hoa Thám. Chỉ ra ưu
điểm, tồn tại trong vận dụng.
6. Kế hoạch nghiên cứu, thời gian hoàn thành
Từ tháng 6/2012 đến tháng 4/2013 :
- Tháng 6, 7/2012 : nghiên cứu lí luận về phản biện
- Tháng 8/2012 : phân tích, thực nghiệm lần 1
- Tháng 9, 10/2012: phân tích, thực nghiệm lần 2,3
- Tháng 11/2012 - 4/2013 : viết và hoàn thành
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC PHÁT HUY KHẢ NĂNG PHẢN BIỆN CỦA HỌC
SINH THPT TRONG DẠY HỌC VĂN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Thuật ngữ và khái niệm
- Thuật ngữ “Phản biện” (Opponency) mới được xuất hiện không lâu và nhanh
chóng được dùng một cách rộng rãi. “Phản biện” là dùng lý lẽ và dẫn chứng để lập luận
chống lại một ý kiến, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, hành động, việc làm … nhằm
thuyết phục người nghe nhìn nhận, đánh giá vấn đề theo cách khác có sức thuyết phục
hơn, đúng hơn. Phản biện khác với chỉ trích : Chỉ trích nhắm vào người. Phản biện cũng
khác với phê bình hay phê phán : Ở cả hai từ này, đối tượng có thể là người mà cũng có
thể là vật thể (ví dụ tác giả và tác phẩm của họ). Phản biện chủ yếu là chống lại một luận
điểm. Nhưng phản biện lại khác với biện bác. Biện bác nhắm đến sự bác bỏ. Biện luận để
bác bỏ. Sự bác bỏ là chủ đích, là mục tiêu duy nhất. Nó có tính cách tiêu cực. Người ta
nói hay hay dở, đúng hay sai mặc kệ: người biện bác chỉ khăng khăng tìm cách phủ nhận.
Phản biện thì khác. Nó chống đối một luận điểm bằng cách đề xuất một cách nhìn hay
một góc nhìn khác để người bị phản biện phải cố gắng chứng minh quan điểm của mình
là đúng đắn nhất và để mọi người có thể lựa chọn. Phản biện được xây dựng trên tinh
thần đối thoại, và do đó, có tính tích cực và xây dựng. Mục tiêu đầu tiên của phản biện
không phải là bác bỏ (như trong biện bác) hay đả kích (như trong chỉ trích) hay tìm
khuyết điểm (như trong phê phán) hoặc cả khuyết điểm lẫn ưu điểm (như trong phê bình).
Mục tiêu chính của phản biện là thúc đẩy mọi người cân nhắc lựa chọn cái tối ưu. Mục
tiêu thứ hai của phản biện là buộc đối tượng bị phản biện phải tăng cường sự thuyết phục
cho các quan điểm của họ. Họ phải chứng minh là họ đúng hơn. Về phương diện chính trị
và xã hội, với hai mục tiêu ấy (tìm cái tối ưu và thuyết phục), phản biện rõ ràng là một
điều cần thiết không những để tránh những chính sách sai lầm mà còn để thúc đẩy quá
trình dân chủ hóa, quá trình hiện đại hóa của đất nước.
Phản biện nói chung đòi hỏi tâm sáng, tầm cao, cách đúng.
(Ảnh minh họa)
- Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá
một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và
khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Muốn có phản biện trước hết phải có tư duy
phản biện. Tư duy phản biện thể hiện tính tích cực của chủ thể.
- Phản biện xã hội là phản biện về các vấn đề của đời sống xã hội, thường là
những vấn đề mới nảy sinh, còn nóng bỏng, gây chú ý, gây bức xúc trong nhân dân. Phản
biện xã hội thường diễn ra giữa hai hay nhiều người nhưng trước sự theo dõi của đông
đảo tầng lớp nhân dân. Phản biện xã hội thường xuất hiện trên các phương tiện thông tin
đại chúng : báo chí (báo in, báo mạng), phát thanh, truyền hình ; trên các diễn đàn, hội
nghị … Phản biện xã hội thể hiện tính dân chủ trong xã hội văn minh.
- Phản biện khoa học là phản biện trong các ngành khoa học. Đây là phản biện của
những người nghiên cứu khoa học, có trình độ chuyên môn cao. Phản biện khoa học diễn
ra trong các hội nghị khoa học, các buổi bảo vệ luận văn, luận án khoa học, công bố công trình khoa
học … Phản biện khoa học thể hiện những bước tiến vầ trí tuệ của con người.
- Phản biện trong dạy học là phản biện diễn ra trong quá trình dạy học, giữa học
sinh với học sinh, học sinh với giáo viên và ngược lại. Phản biện trong dạy học thể hiện
tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của người học và tính dân chủ của giờ học.
- Lập luận phản biện là quá trình lập luận để đưa ra phản biện. Nó là sự phối kết
hợp các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận … Lập luận phản
biện phải rõ ràng, lôgíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Phản biện có sức thuyết
phục hay không là nhờ lập luận.
1.1.2. Ý nghĩa của phản biện trong dạy học
Phản biện trong dạy học có khả năng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của người học. Góp phần rèn luyện người học có kỹ năng phản biện xã hội khi tham
gia vào cuộc sống. Đồng thời, góp phần đào tạo con người năng động, sáng tạo, đáp ứng
tốt yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
Phản biện trong dạy học giúp cho cả thày và trò có cái nhìn khách quan, công tâm
về chân lí của mọi vấn đề.
Phản biện trong dạy học khẳng định tính dân chủ trong giờ học, khẳng định tính
tích cực, tiến bộ của một nền giáo dục.
Đặt trong bối cảnh hiện nay, phản biện trong dạy học cũng còn góp phần tích cực
vào phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
1.1.3. Cấu trúc của phản biện
Về cơ bản, một phản biện bao gồm các yếu tố sau : mục tiêu phản biện, nhân vật
phản biện, nội dung phản biện, lập luận phản biện, kết quả.
- Mục tiêu phản biện : hướng tới chân lí của vấn đề. Hiểu đúng nhất, tối ưu nhất. Phản biện
không nhằm hạ thấp vai trò của người khác để nâng vai trò của người phản biện.
- Nhân vật phản biện gồm hai hay nhiều người tham gia vào quá trình phản biện
được quy thành hai đối tượng : người phản biện và người bị phản biện. Người phản biện là
người đưa ra lập luận phản biện nhằm chi ra cách hiểu đúng đắn hơn cho vấn đề. Người bị phản biện
là người có ý kiến bị phản biện hoặc đang bênh vực cho ý kiến bị phản biện.
- Nội dung phản biện là vấn đề đang được nói đến nhưng chưa thỏa đáng, chưa
thuyết phục người đọc, người nghe.
- Lập luận phản biện là cách dùng các thao tác lập luận để đưa ra phản biện. Các
thao tác gồm : giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh … Kết hợp với lí lẽ,
dẫn chứng. Nếu phản biện ở dạng nói, lập luận phản biện còn kèm thêm thái độ, cử chỉ,
cảm xúc của người phản biện.
- Kết quả của phản biện có thể đúng, có thể không đúng. Nếu đúng sẽ là chân lí
được rút ra. Nếu chưa đúng sẽ là tiền đề cho những phản biện tiếp theo.
Cấu trúc một phản biện khá gần gũi, bám sát với cấu trúc quá trình dạy học. Điều
này sẽ giúp cho quá trình dạy học đạt được mục tiêu ở mức độ cao nhất. Đây là điều mà
bất kể người giáo viên chân chính nào cũng muốn và phải hướng tới.
1.1.4. Hình thức phản biện
Một phản biện có thể tồn tại ở hai dạng : nói, viết. Tùy theo từng tiêu chí mà có
cách phân chia hình thức phản biện khác nhau.
- Theo tiêu chí thời gian sẽ có : phản biện lần 1, phản biện lần 2, …
- Theo tiêu chí mức độ sẽ có : phản biện cơ bản, phản biện chiều sâu, …
- Theo tiêu chí tính chất sẽ có : phản biện đơn, phản biện kép (phản biện lại phản biện). …
- Theo tiêu chí nhân vật phản biện : phản biện cá nhân, phản biện nhóm …
Hình thức phản biện nào cũng có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh trong học tập. Đặc biệt nó đề cao được tính dân chủ trong một giờ học –
vấn đề mà nền giáo dục tiên tiến nào cũng hướng tới. Điều đó còn góp phần rèn luyện kỹ
năng sống, hoàn thiện nhân cách con người – một mục tiêu quan trọng trong giáo dục phổ
thông.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Phản biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến
Ngày nay, nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đã coi trọng tư duy phản biện
trong dạy học. Ở Mỹ, người ta đề cao tính dân chủ trong giáo dục, tạo điều kiện cho
người học phát huy khả năng phản biện. Phó giáo sư lịch sử Johann N. Neem thuộc Đại
học Western Washington (Mỹ), trong một bài viết đăng trên tạp chí The Chronicle of
Higher Education [13], đã thúc giục nhà chức trách và những nhà giáo dục Mỹ cần thực
hiện tốt hơn việc giáo dục lịch sử dân tộc và phải dạy với tinh thần phản biện. Còn hệ
thống giáo dục Anh thì coi tư duy phản biện như một môn học chính qui. Trình độ A
dành cho học viên 16-18 tuổi. Họ phải làm 2 bài kiểm tra chính: "Sự đáng tin của dẫn
chứng" (Credibility of Evidence) và "Phát triển tranh luận" (Assessing/Developing
Argument). Đối với học sinh dưới 16-18 tuổi, tư duy phản biện được đưa xen kẽ vào trong
bài giảng của giáo viên [12].
Các nước tiên tiến đã coi trọng phản biện trong dạy học, đây là cơ sở đáng tin cậy
để chúng ta mạnh dạn đưa phản biện vào trong dạy học ở cả bậc Đại học và bậc THPT.
1.2.2. Phản biện trong dạy học ở Việt nam
Ở Việt Nam, các nhà giáo dục cũng đã quan tâm đến phát triển tư duy phản biện
cho học sinh. Tiến sĩ Bùi Trân Phượng - Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen, nói :
“Giáo dục, nhất là giáo dục Đại học, không chỉ cung cấp kiến thức mà quan trọng hơn là
rèn luyện phương pháp tư duy. Người học phải biết đánh giá thông tin, có quan điểm
phản biện để làm rõ vấn đề”. Tố Tâm - Giảng viên Global Education cũng nêu : “Tư duy
phản biện rất cần thiết trong phương pháp đào tạo ngày nay. Học các kỹ năng đọc, viết,
hay số học là chưa đủ. Điều quan trọng là họ phải biết cách tự đặt vấn đề, đánh giá,
nghiên cứu và giải quyết vấn đề” [14].
Mới đây nhất, trong Quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở,
trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành kèm theo Thông tư số: 13/2012/TT-BGDĐT, ngày 06 tháng 4 năm
2012, chương II, điều 7, mục 2c có nói : “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo và biết phản biện” [2]. Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ
Văn theo hướng tăng tính mở trong đề bài, nhất là phần nghị luận xã hội đã tạo điều kiện
thuận lợi cho học sinh chủ động, sáng tạo trong trình bầy, lập luận theo quan điểm của
mình. Đó chính là cơ hội phát huy khả năng phản biện của học sinh.
1.2.3. Tính đặc thù của bộ môn Văn trong trường THPT
Môn Văn là môn học đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật (nghệ thuật
ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và
theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng
nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có những vấn đề ngày trước sai nhưng bây giờ
lại đúng. Ai cũng biết câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” của Quang Dũng đã
từng bị tẩy chay, quy chụp là mang chút tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản nhưng rồi vào
những năm 90 lại được “lật ngược thế cờ”. Đó lại là câu thơ hay về vẻ đẹp hào hoa của
người lính Tây Tiến. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân vẫn được xem là “ngông”
nhưng gần đây, cách hiểu này đang “xung” với một luồng quan điểm trái ngược “không
ngông”… Mỗi lúc, trên diễn đàn báo chí lại nóng lên một chủ đề nào đấy của Văn học và
việc dạy Văn: “mầu” hay “mùi” (trong bài thơ Cây chuối – Nguyễn Trãi) ; “mặt chữ
điền” (trong Đây thôn Vĩ Giạ - Hàn Mặc Tử) hiểu thế nào? ; “sông” hay “sóng” (trong
Sóng – Xuân Quỳnh) không hiểu nổi mình? Chí Phèo tỉnh – Chí Phèo say ; có hay không
việc cắt xén, thêm bớt phần kết thúc truyện cổ tích Tấm Cám? ; mới đây nhất là “dòng
thơ sexy ở Việt Nam” được “bới” lên từ các tác phẩm của Nguyễn Dữ! v.v… Nhiều vấn
đề có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí. Vì vậy trong
học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học sinh như
những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn cho vấn đề.
Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người toàn
diện, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc phát huy khả năng phản biện của học
sinh lại cần hơn bao giờ hết. Khi nhà trường phổ thông trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản
biện cũng có nghĩa là đã trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công
trong cuộc sống.
1.2.4. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay
Cùng với những nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, học sinh cũng có nhu cầu bộc
lộ bản thân. Nhất là trong giai đoạn mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ trong giờ
học được đề cao như lúc này. Đó là mong muốn được thể hiện mình trước thày cô và bạn
bè trong lớp, muốn chứng minh khả năng, sự tiến bộ của mình. Nhu cầu bộc lộ làm tiền đề cho khát
vọng khẳng định bản thân và thực tế nhiều bạn trẻ đã khẳng định được mình.
Nhu cầu bộc lộ bản thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát huy tiềm
năng học tập, khả năng phản biện vấn đề.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VĂN Ở TRƯỜNG
THPT
2.1. Tiềm năng phản biện ở học sinh
Như trên đã trình bày, học sinh ngày nay luôn có nhu cầu bộc lộ mình, nhất là trong
những tình huống được động viên, khích lệ, có hứng thú. Khi đó mà có sự kết hợp với
những hiểu biết sâu rộng vấn đề, sự định hướng khuyến khích của giáo viên thì các em sẽ
thể hiện hết mình. Không khí tiết học trở nên “nóng” hơn!
Những tác phẩm văn học được đưa vào chương trình giảng dạy phần lớn đã “thuộc
về một thời”. Đành rằng giá trị một tác phẩm Văn học có thể “bất khả biến” nhưng các
em lại là người của “hôm nay”, nhìn nhận đánh giá vấn đề luôn có xu hướng từ góc nhìn
của con người hiện đại. Điều đó rất dễ dẫn đến tâm trạng “bất hòa” với quá khứ, hay một
sự “ấm ức” nào đó, hoặc có nhu cầu “đánh giá lại” vấn đề. Đó sẽ là nền tảng cho những
phản biện bùng phát.
Mặc dù không nhiều nhưng cũng có một bộ phận học sinh có đam mê Văn chương.
Các em miệt mài tìm tòi, đọc, suy nghĩ, sáng tạo. Những học sinh này hoàn toàn có thể
“đổi mới” hay “bổ sung” chân lí mà thày đưa ra.
2.2. Thực trạng phản biện của học sinh THPT hiện nay trong những giờ dạy
học Văn
2.2.1. Những thuận lợi cho phản biện của học sinh
Thứ nhất, chương trình môn Ngữ Văn ở THPT có độ mở tương đối. Nó thể hiện
ngay ở sự phong phú của nội dung và kiểu bài học. Nhất là có sự bổ sung của phần nghị
luận xã hội. Mục tiêu dạy học của bộ môn Văn cũng khá phức hợp. Thêm vào nữa là tính
chất đặc thù bộ môn Văn – vừa khoa học, vừa nghệ thuật. Điều đó có thể mở ra trước mắt
người học cả một chân trời tri thức và khả năng liên tưởng so sánh, cảm nhận, thẩm bình,
đánh giá không giới hạn.
Thứ hai, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá của bộ môn Ngữ Văn gần đây làm sống
dậy mạnh mẽ ý thức cá nhân người học. Họ có thể thoải mái bộc lộ quan điểm riêng của
bản thân mà không sợ “chệch” ý thày. Tiêu chí đúng, sai được thay bằng lập luận có
thuyết phục hay không? Đây là cơ hội để học sinh phát huy tối đa khả năng học tập, hiểu
biết của mình.
Thứ ba, dù sao thì học sinh vẫn là những người đi sau nên kho kinh nghiệm của thế
hệ trước để lại rất có giá trị. Học sinh có thể sáng tạo trên kho kinh nghiệm đó.
Thứ tư, không khí học tập đầy ắp tính dân chủ của nền giáo dục hiện đại cũng tạo
nhiều cơ hội cho người học phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Trong bối cảnh hiện
nay, toàn ngành đang thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì tính sáng
tạo của học sinh càng có điều kiện thăng hoa.
Thứ năm, sự tương tác HS – HS, HS – GV trong quá trình dạy học nhiều khi làm
lóe sáng trong người học những ý tưởng kì diệu. Điều này khó có thể có đối với người
nằm ngoài quá trình dạy học.
Thứ sáu, tài liệu tham khảo của bộ môn ngày càng phong phú, dễ tìm. Phương tiện
đọc, lưu trữ cũng rất dễ dàng. Điều này giúp học sinh mở rộng kiến thức cần thiết cho
những phản biện khi có thể.
2.2.2. Những khó khăn cho phản biện của học sinh
Rào cản lớn nhất cho những phản biện của học sinh trong dạy học nói chung và dạy
học Văn nói riêng có lẽ là tư duy phản biện ở cả thày và trò. Dường như những quan
điểm truyền thống với những bức tường thành tích khổng lồ vẫn chưa sẵn sàng đón tiếp
tư duy phản biện. Phần lớn giáo viên hiện nay, khi đứng trên bục giảng đều không muốn
học sinh phản biện lại những gì mình nêu ra. Có nhiều lí do khác nhau. Danh dự. Uy tín.
Hạn chế về chuyên môn (ở một bộ phận giáo viên)… Thậm chí, có người gay gắt hơn thì
coi phản biện của học sinh là hành vi vô lễ (cãi thày). Giáo viên không có thói quen nhận
lỗi trước học trò (khi có lỗi) mà chỉ quen “luôn đúng”, duy nhất đúng trước chúng. Vì lẽ
đó mà học sinh cũng ít biểu hiện (ít dám) phản biện, chưa kể phản biện gay gắt. Có chỗ
không thuyết phục, nhiều khi chịu ấm ức hoặc rơi vào chủ nghĩa A.Q – thày nói chỉ có
đúng! Nói đúng ra thì học sinh Việt Nam chưa có thói quen nghi ngờ kiến thức.
Bên cạnh đó, ngày nay không có nhiều học sinh thật sự yêu thích, say sưa môn
Văn. Mà không đam mê thì không có động lực, hứng thú để tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo.
Vì vậy, thày nói sao thì nghe thế (15 hay 14 gật tất).
Không những thế, điều kiện kiến thức, môi trường học tập, thời gian tiết học, bài
học cũng còn nhiều bất cập. Chương trình vẫn ôm đồm, nặng tính hàn lâm, nhiều đơn vị
kiến thức không cần thiết những vẫn phải học, gây nhàm chán. Kiến thức nặng, quá tải
thì học sinh chỉ lo “tải” cho hết đã, còn đâu mà nghĩ để nghi ngờ hay phản biện gì.
2.2.3. Đã có những dấu hiệu phản biện
Mặc dù có những khó khăn như đã nói trên nhưng vẫn có những dấu hiệu của phản
biện trong dạy học Văn hiện nay.
Trước hết, đó là những thắc mắc sau bài học. Sau những tiết học Văn, nhất là
những tiết học về những văn bản đặc sắc thường có những em thực sự quan tâm đến bài
học, có những băn khoăn về một nội dung nào đấy mà thày trò vẫn chưa giải quyết thấu
đáo, chưa thuyết phục do hạn chế về thời gian. Chẳng hạn, có học sinh đã chia sẻ sự băn
khoăn này : em vẫn chưa thực sự cảm nhận hết được tình cảm của Thanh Thảo dành cho
G.Lorca mặc dù biết đó là tình cảm rất sâu sắc ; sự đồng điệu của hai tâm hồn ấy liệu có
làm cho các nghệ sĩ Việt Nam chạnh lòng. Em rất thích truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,
nhất là Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê … song em có cảm giác hình như Nguyễn Minh
Châu còn muốn nói gì đó qua Chiếc thuyền ngoài xa mà người đọc chưa tìm ra. Nó
không chỉ là “tuyên ngôn nghệ thuật” mà còn là “bản di chúc nghệ thuật”. Đọc tùy bút
Sông Đà của Nguyễn Tuân rất khó chịu vì những câu văn dài đuỗn, lắm thành phần phụ
lắt léo, những so sánh thì lạ, chẳng biết ông dựa trên tiêu chí nào!
Bên cạnh đó là những câu hỏi mang tính khám phá. Tôi có thói quen kết thúc mỗi
tiết học bằng một câu hỏi : có em nào còn băn khoăn, thắc mắc hay hỏi thêm gì về vấn
đề/ bài này nữa không? Đã không ít lần tôi nhận được những câu hỏi rất hay từ học sinh.
Chẳng hạn : Gọi vẻ đẹp của người vợ nhặt (trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân) là “vẻ
đẹp khuất lấp” liệu có gượng gạo, bởi vì đó là vẻ đẹp vượt lên trên hoàn cảnh cơ mà?
Ánh mắt của ông lão sơn tràng đầy vẻ lo lắng khi nhìn ra ngoài mặt phá (lúc này chỉ còn
duy nhất một chiếc thuyền vó) nói lên điều gì? Nguyễn Minh Châu có gửi gắm gì ở ánh
mắt ấy không? Trong Đây thôn Vĩ Giạ có những dấu hiệu của thơ tượng trưng, siêu thực
không? ...
Do hạn chế về thời gian cũng như đặc thù của môn Văn nên không phải vấn đề nào
đưa ra cũng giải quyết dứt điểm trong giờ học được. Những tình huống còn bỏ ngỏ trong
các bài học luôn là xuất phát điểm cho những tìm tòi, khám phá, sáng tạo của học sinh,
nhất là những học sinh yêu thích và say mê môn Văn (tuy số này không nhiều). Chẳng
hạn : nếu cứ nhất định, khăng khăng (thậm chí kể cả việc gọi hồn Hàn Mặc Tử mà hỏi)
phải hiểu cho ra lẽ khuôn “mặt chữ điền” kia là của ai? Hay chi tiết “Gục trên súng mũ,
bỏ quên đời” (trong Tây Tiến) là hi sinh hay chỉ thiếp đi vì mệt? Câu thơ “không ai chôn
cất tiếng đàn” (Đàn ghi ta của Lorca) hiểu thế nào thì thuyết phúc? Đành rằng, nghệ thuật
là lĩnh vực tinh thần không thể “chôn” nhưng đã có những “tiền lệ” : “Hỡi tuổi trẻ! Hãy
giết chết Booc-ghêt!” (lời Booc-ghết) ; “Hãy chôn Thơ mới” (Trần Dần).
Những dấu hiệu trên đây cho thấy thực trạng dạy học Văn ở trường THPT còn
nhiều điều phải bàn, phải làm. Trong khi chờ đợi những sáng kiến, cải tiến mang tính
bước ngoặt chúng ta hãy cứ làm những gì có thể. Phát huy khả năng phản biện của học
sinh là việc nên làm.
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG PHẢN BIỆN CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC VĂN Ở TRƯỜNG THPT
3.1. Điều kiện phát huy khả năng phản biện của học sinh trong dạy học Văn
Để có thể phát huy được khả năng phản biện của học sinh THPT trong giờ học Văn
cần có sự xuất hiện của những điều kiện sau :
- Cả thày và trò phải có tư duy phản biện
- Học sinh phải có hiểu biết sâu rộng vấn đề
- Giờ học Văn phải có không khí dân chủ, thân thiện
- Giờ học Văn phải có tình huống phản biện
Như đã nói ở chương 1, những phản biện của học sinh có thể đúng, thuyết phục, có
thể sai, không thuyết phục, điều đó không quan trọng. Quan trọng là qua phản biện,
người học thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của mình. Khoảng cách thày –
trò được rút ngắn.
3.2. Một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy khả năng phản biện của học sinh
THPT trong dạy học Văn
Biện pháp 1 : Bồi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh
Như đã trình bày ở chương 1, tư duy phản biện (critical thinking) là một quá trình
tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác
cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Trong
bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, chúng ta nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy
phản biện. Có tư duy phản biện học sinh mới có thể phản biện.
Biện pháp này có thể vận dụng với tất cả các đối tượng học sinh nhưng chủ yếu
hướng tới học sinh đại trà. Vì học sinh giỏi Văn, chuyên Văn thường đã có tư duy phản
biện. Còn học sinh đại trà thường thụ động trong học tập nên tư duy phản biện gần như
không có hoặc yếu.
Trước hết, cần cho học sinh hiểu rằng việc phản biện lại một nội dung, vấn đề do
người khác nêu ra (kể cả là thày, cô giáo của mình) là việc làm tích cực để đạt đến tính
tối ưu của chân lí chứ không phải là hành vi khiếm nhã, ngông cuồng hay vô lễ như vẫn
thường hiểu. Đó cũng là một khâu trong quá trình học tập. Tư duy phản biện phải trở
thành thói quen tốt, thói quen luôn nghi ngờ kiến thức. Thói quen này giúp học sinh chủ
động trong học tập, vận dụng kiến thức.
Học sinh phải thấy được quá trình tư duy phản biện phải có những bước sau :
- Đọc và theo dõi cẩn thận những bước đi của luận cứ nhằm xác định các tiên đề và
các kết luận mà tác giả luận cứ nêu ra (trong trường hợp theo học một môn học mới, đây
cũng chính là các kiến thức mới mà người thầy muốn học sinh tiếp nhận). Phải đặt ra
những câu hỏi nghi vấn như : tại sao lại như thế? Bản chất vấn đề là gì? Nếu thế này, thế
kia thì sao? v.v …
- Nếu trong luận cứ, ta thấy không có suy luận mà chỉ là những khẳng định (facts),
thì luận cứ chỉ chứa đựng những thông tin, có thể chính xác hay sai lệch ; như thế, ta có
quyền không quan tâm đến những gì mà tác giả của luận cứ muốn thuyết phục người
nghe. Kết luận rút ra từ những luận cứ đó có thể không có sức thuyết phục.
- Trong trường hợp kết luận không thuyết phục, có nghĩa là nó mang tính ngụy
biện, cần xem xét lại. Có nên chấp nhận những kết luận mà tác giả đã nêu hay không?
Đây là điểm mấu chốt của tư duy phản biện. Bởi vì nếu ta chấp nhận tập hợp các luận cứ,
tức là ta hoàn toàn chấp nhận kết luận của tác giả ; Ngược lại, nếu ta phủ nhận những
luận cứ này có nghĩa là ta không chấp nhận kết luận. Tức là từ chối hay chấp nhận những
kiến thức mới như một thành phần của hệ thống kiến thức mà học sinh cần tích lũy trong
quá trình học tập.
Cách đánh giá vấn đề, chấp nhận hay từ chối phải dựa trên kiến thức đã được tích
lũy của mình, dựa trên kinh nghiệm và lòng tin cá nhân. Kiến thức phụ thuộc vào môi
trường giáo dục, phương pháp giảng dạy của người thầy cũng như phương pháp học tập
của học sinh ; kinh nghiệm phụ thuộc vào môi trường xã hội và cuối cùng là lòng tin lại
phụ thuộc vào môi trường giáo dục gia đình.
Trong quá trình vận dụng tư duy phản biện, bất cứ ở tại thời điểm nào, người học
cũng phải sẵn sàng động não, suy luận và đánh giá ; những hoạt động này sẽ tạo thành
một phong cách tư duy, luôn luôn sẵn sàng lắng nghe, nhưng trước khi chấp nhận bất cứ
ý kiến nào, người học phải chủ động phân tích và đánh giá. Hoạt động của não bộ theo
phong cách này sẽ giúp người học hình thành vững vàng tư duy độc lập và tư duy phản
biện. Với tư duy độc lập và tư duy phản biện như nền tảng, và với kiến thức tích lũy thành hệ
thống, học sinh sẽ có điều kiện phát triển tư duy sáng tạo của mình.
Ta thấy ngay, kết quả của học tập và vận tốc phát triển trí tuệ phụ thuộc mạnh mẽ
vào phương pháp học tập của học sinh. Người nào nắm vững phương pháp tư duy phản
biện, thì chất lượng học tập càng cao và trí tuệ càng phát triển vững chắc.
Tư duy phản biện không thể có ngay lập tức mà cần có quá trình. Trước hết, công
việc này phải làm thường xuyên, liên tục qua tất cả các môn học chứ không phải chỉ có
môn Văn. Dần dần mới trở thành thói quen tư duy phản biện.
Biện pháp 2 : Tăng cường rèn luyện kỹ năng phản biện
Kỹ năng phản biện là hệ thống các kỹ năng trong từng khâu của quá trình để đưa ra
một phản biện, bao gồm những kỹ năng chủ yếu : tư duy độc lập ; phân tích – tổng hợp ;
lập luận ; đánh giá … Biện pháp này hướng tới tất cả các đối tượng học sinh nhưng chủ
yếu là học sinh đại trà vì học sinh đại trà thường yếu kỹ năng này. Có tư duy phản biện
mới chỉ là cơ sở thứ nhất để có phản biện. Còn phản biện đạt hiệu quả thuyết phục đến
đâu chủ yếu là nhờ vào kỹ năng phản biện. Trong đó, trọng tâm là kỹ năng lập luận phản
biện.
Kỹ năng tư duy độc lập là rất cần thiết với học sinh trong quá trình học tập nói
chung, trong quá trình phản biện nói riêng. Giáo viên có thể giúp học sinh suy nghĩ độc
lập bằng cách không phải lúc nào cũng đưa ra ngay câu trả lời. Thay vào đó, hãy để
người học tự mình nghiên cứu và tìm ra phương án giải quyết trước khi đưa ra sự trợ
giúp. Học sinh cũng cần học cách tổ chức vấn đề. Một vấn đề có thể trở nên rất rối rắm
và phức tạp nếu học sinh không biết cách tổ chức. Giáo viên có thể làm mẫu các kỹ năng
và cung cấp các tư liệu cần thiết để học sinh luyện tập cách tổ chức vấn đề cũng như phác
thảo trình tự xử lý các công việc. Thao tác suy diễn cũng rất cần thiết. Thay vì trông chờ
vào những câu trả lời rõ ràng, học sinh nên học cách tự mình suy diễn. Một phương pháp
luyện tập kỹ năng suy diễn rất hiệu quả là cho học sinh đọc các đoạn văn ngắn từ các dữ
liệu học tập trong sách giáo khoa hay các bài tập thực hành, mở rộng khác rồi yêu cầu
phân tích ý nghĩa của mỗi đoạn. Khả năng dự đoán những tình huống có thể xảy ra cũng
cần thiết không kém. Những câu hỏi mở có liên quan đến nhiều chủ đề có thể giúp học
sinh phát huy trí tưởng tượng và dự đoán kết quả hợp lý nhất. Một kỹ năng quan trọng
khác là phân biệt luận cứ hợp lý và luận cứ bất hợp lý. Có một sự khác nhau giữa các
luận cứ hợp lý và luận cứ bất hợp lý. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng phân
biệt được. Đâu là các sự việc chứng minh được cho luận cứ? Đâu là luận cứ không có cơ
sở bởi thiếu tính thuyết phục? Hãy đưa ra các đoạn văn bao gồm cả các luận cứ thuyết
phục và không thuyết phục, và yêu cầu học sinh phân biệt chúng. Các kỹ năng nói trên
được tổng hợp thể hiện ở khâu giải quyết vấn đề. Bằng cách đưa ra nhiều phương án giải
quyết, giáo viên có thể giúp học sinh tự mình nhìn nhận một vấn đề. Những vấn đề này có thể liên
quan đến nhiều lĩnh vực chủ chốt. Cho phép học sinh đủ thời gian để nghiên cứu mà không có sự trợ
giúp nào cả trước khi chỉ dẫn cho họ.
Quan trọng hơn cả là kỹ năng lập luận. Bởi vì, học sinh muốn đạt đến tính tối ưu
của vấn đề buộc phải thuyết phục được người khác. Một phản biện có sức thuyết phục
đến đâu là phụ thuộc vào độ sắc của những lí lẽ, độ mạnh mẽ hùng hồn của lập luận, độ
chắc chắn, đáng tin cậy của minh chứng mà người phản biện đưa ra. Giáo viên hãy
khuyến khích học sinh sử dụng các kỹ năng lập luận. Học sinh sẽ học cách nghiên cứu
bằng cách đưa ra các lý giải hợp lý cho câu trả lời. Có nhiều cách luyện tập kỹ năng này
như : những bài tập trình bày một vấn đề ; đánh giá và giải thích đánh giá của mình về
một vấn đề ; tổ chức hệ thống luận điểm theo các trình tự logic khác nhau ; tìm kiếm
minh chứng cho luận điểm … Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng
chứng, tỉ mỉ và công tâm.
Ngoài ra, học sinh cũng cần rèn luyện khả năng mở rộng vấn đề. Không chỉ bó hẹp
trong nguồn tài liệu mà giáo viên cung cấp, học sinh cần học cách tự tìm những tư liệu
mới để phục vụ cho chủ đề. Từ đó, phát huy khả năng tự phân tích và đưa ra cách nhìn
nhận riêng đối với mỗi chủ đề được đặt ra.
Như vậy, có thể nói lập luận phản biện có vai trò quyết định trong phản biện của
học sinh. Và kỹ năng này không phải ngày một ngày hai mà có được mà phải luyện tập
trong một thời gian dài, đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực rất cao. Nếu có phương pháp hợp lý,
tôi tin rằng học sinh sẽ tiến bộ nhanh chóng và sử dụng phản biện một cách sắc bén và
hiệu quả.
Biện pháp 3 : Bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu theo chuyên đề, tổ chức chuyên
đề ngoại khóa
Đây là một trong những biện pháp quan trọng giúp học sinh nâng cao khả năng
phản biện, bởi “có thực mới vực được đạo”. Kiến thức chuyên sâu cần cho tất cả các đối
tượng học sinh nhưng mức độ thì khác nhau với từng đối tượng. Độ sâu của kiến thức sẽ
là thước đo khả năng phản biện của học sinh.
Có nhiều cách bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu cho học sinh như : hướng dẫn trực
tiếp qua các chủ đề tự chọn (1 tiết/ tuần) ; các buổi bồi dưỡng, ôn luyện ; làm các dự án
dạy học dưới dạng các bài tập nghiên cứu ; tổ chức các chuyên đề ngoại khóa ; cung cấp
tài liệu tham khảo và hướng dẫn cách lĩnh hội ; thông qua các cuộc thi ; các trò chơi dưới
dạng “Đố vui” … Tùy theo từng đối tượng học sinh mà bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu
theo chuyên đề hoặc mảng chuyên đề cho phù hợp. Làm sao cho hiệu quả mà không gây
áp lực, căng thẳng cho học sinh.
Biện pháp này có vẻ rất khó vận dụng bởi đa số học sinh bây giờ không tha thiết
với môn Văn. Học sinh ở vùng nông thôn, vùng sâu xa như trường Hoàng Hoa Thám thì
càng khó. Nhưng không thể thấy khó mà bỏ. Chúng ta sẽ linh hoạt với từng đối tượng. Bồi dưỡng
kiến thức chuyên sâu là cách nâng cao dần chất lượng bộ môn cho học sinh.
Cách làm hiệu quả nhất hiện nay theo tôi là tổ chức các chuyên đề ngoại khóa.
Nhiều thì 1 lần/ tháng ; ít thì 2 lần trên /học kì. Tổ chức chuyên đề ngoại khóa sẽ giúp học
sinh mở rộng, nâng cao kiến thức theo kiểu “chơi mà học”, rất thoải mái. Học sinh sẽ cập
nhật kiến thức ngay cả trong quá trình chuẩn bị cho chuyên đề, trao đổi giữa bạn bè các
nhóm với nhau. Học tập trong lúc diễn ra chuyên đề : học sinh được nghe, trao đổi, đối
thoại về những đơn vị kiến thức trong chuyên đề. Học sinh sẽ hứng thú hơn, phát huy hết
thế mạnh của mình. Ngoài bồi dưỡng kiến thức, các chuyên đề ngoại khóa còn rèn luyện
cho học sinh kĩ năng trình bày, lập luận một vấn đề theo quan điểm của riêng mình.
Biện pháp 4 : Khích lệ, động viên, mở đường
Đây là những biện pháp mang tính hỗ trợ kiểu “giọt nước tràn ly”. Nhiều khi học
sinh có tư duy phản biện, có kỹ năng phản biện tốt cùng với kiến thức chuyên sâu rất tốt
nhưng do hoàn cảnh, tính cách nhút nhát … mà học sinh không dám hay e ngại phản
- Xem thêm -