Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn những ƣu điểm và hạn chế khi giảng dạy công nghệ thông tin đối với môn ngữ ...

Tài liệu Skkn những ƣu điểm và hạn chế khi giảng dạy công nghệ thông tin đối với môn ngữ văn trong trƣờng thpt.

.PDF
44
998
64

Mô tả:

MỤC LỤC Trang I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 2 1. Cơ sở lý luận 4 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 4 a. Những ƣu điểm trong giảng dạy CNTT đối với môn ngữ văn 4 a1. Những ƣu điểm xét từ phía giáo viên giảng dạy 4 a2. Những ƣu điểm xét từ phía học sinh học tập 8 b. Những hạn chế trong giảng dạy CNTT đối với môn ngữ văn 9 b1. Những hạn chế xét từ phía giáo viên giảng dạy 9 b2. Những hạn chế xét từ phía học sinh học tập 13 III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 14 IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG 16 V. PHỤ LỤC 18 -1- BM03-TMSKKN NHỮNG ƢU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ KHI GIẢNG DẠY CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỐI VỚI MÔN NGỮ VĂN TRONG TRƢỜNG THPT VI. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thế kỉ XXI là thế kỉ của Công Nghệ Thông Tin (CNTT), phải thực sự khẳng định rằng nền văn minh tin học đã đi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như khoa học kĩ thuật, quốc phòng, an ninh, y tế, văn hóa…tất cả đều xem CNTT như một phần không thể thiếu của đời sống khoa học của ngành mình. Đối với ngành giáo dục cũng vậy, CNTT trở thành nhiệm vụ của người giáo viên trong thực hiện công tác giảng dạy, giáo dục và học tập. Chính bộ GD&ĐT cũng đã xác định được những tác động không nhỏ của CNTT đối với giáo dục nên đã triển khai không ít công văn chỉ đạo về việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở trường học. Công văn số: 4960/BGDĐT-CNTT V/v Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2011 – 2012 của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chỉ đạo cụ thể: “Các sở GDĐT chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn cụ thể cho giáo viên các môn học tự triển khai việc tích hợp, lồng ghép việc sử dụng các công cụ CNTT vào quá trình dạy các môn học của mình nhằm tăng cường hiệu quả dạy học qua các phương tiện nghe nhìn, kích thích sự sáng tạo và độc lập suy nghĩ, tăng cường khả năng tự học, tự tìm tòi của người học… Các giáo viên cần tích cực, chủ động tham khảo và sử dụng các phần mềm ứng dụng tích hợp vào các môn học trên website http://edu.net.vn để cùng chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi học tập…Khuyến khích giáo viên chủ động tự soạn giáo án, bài giảng và tài liệu giảng dạy để ứng dụng CNTT trong các môn học” [ ] Giảng dạy CNTT trong trường THPT hiện nay là một công việc bình thường đối với tất cả giáo viên nói chung và đối với môn Ngữ Văn nói riêng. Nó như một phần không thể thiếu trong quá trình giảng dạy cũng như thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên. Trong sự bình thường hóa của nhiệm vụ ấy, khi thực hiện việc giảng dạy CNTT, chúng tôi rút ra được những ưu điểm và hạn chế đối với việc giảng dạy CNTT đối với bộ môn Ngữ văn trong trường THPT -2- VII. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Trong hơn mười năm trở lại đây CNTT trở thành một phần quan trọng tham dự vào mọi hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, giáo dục của xã hội Việt Nam. Xét thấy sự ảnh hưởng rộng lớn và tác dụng của nó trong thời hiện đại, bộ GD&ĐT đã ban hành không ít những công văn hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện việc áp dụng, giảng dạy CNTT trong trường học. Chỉ thị số: 55/2008/CTBGDĐT ra ngày 30 tháng 9 năm 2008; Về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 nêu rõ: “Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước. Để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo, tăng cường giảng dạy và đào tạo về CNTT, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các cấp quản lý, các cơ sở giáo dục trong toàn ngành triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau đây trong giai đoạn 2008-2012. Chỉ thị nêu rõ: 1. Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của CNTT và triển khai có kết quả cao yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. 2. Xây dựng hệ thống đơn vị công tác chuyên trách về CNTT trong ngành. 3. Phát triển mạng giáo dục (EduNet) và các dịch vụ công về thông tin giáo dục trên Internet. 4. Đẩy mạnh một cách hợp lý việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy và học ở từng cấp học. 5. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý giáo dục. 6. Tăng cường giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu ứng dụng về CNTT. 7. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và xã hội hoá. 8. Công tác thi đua, đánh giá kết quả ứng dụng CNTT” [ ]. Trong công văn 4960/BGDĐTCNTT V/v Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2011 – 2012 có -3- đoạn: “Quán triệt tinh thần công tác ứng dụng CNTT và đào tạo nguồn nhân lực CNTT là công tác thường xuyên và lâu dài của ngành giáo dục, tiếp tục phát huy các kết quả đạt được trong các năm qua. Các sở GDĐT tổ chức quán triệt và nâng cao nhận thức, trách nhiệm đến toàn thể cán bộ, giáo viên trong ngành ở địa phương, trước hết cho lãnh đạo các đơn vị, các cơ sở giáo dục và đào tạo về tinh thần và nội dung của các văn bản quan trọng sau: a) Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020; b) Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012; c) Nghị định số 102/2009/NĐ-CP ngày 6 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước; d) Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục” [ ]. Đặc biệt công văn số: 12966/BGDĐT-CNTT V/v đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về CNTT - ngày 10 tháng 12 năm 2007 chỉ đạo cụ thể đến việc biên soạn, giảng dạy CNTT đến cấp học THCS và THPT: “Công tác biên soạn bài giảng điện tử: Khuyến khích mỗi trường THPT, THCS tạo mới nhiều thêm bài giảng điện tử của các môn học, đặc biệt cho cả các môn khoa học xã hội như Văn, Sử, Địa, Nhạc, Họa. Khuyến khích giáo viên tham khảo các tài liệu, bài giảng điện tử của đồng nghiệp trong công tác giảng dạy song cần phát huy tính tích cực học tập thông qua thảo luận nhóm, tổ chức cho học sinh tập tự giải quyết vấn đề, khuyến khích cách suy nghĩ độc lập và suy xét, phản biện lại vấn đề. Tránh lạm dụng thái quá CNTT trong giờ giảng như dùng nhiều hiệu ứng chữ chuyển động, mầu lòe loẹt, phông chữ khó đọc, tham ghi nhiều chữ và cỡ chữ nhỏ, không có thời gian cho học sinh thảo luận ...” []. công văn này bộ cũng chỉ rõ bộ môn văn học với những ưu điểm và hạn chế khi sử dụng CNTT trong giảng dạy. Đó cũng chính là nội dung chính của sáng kiến kinh nghiệm này -4- 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài a. Những ƣu điểm trong giảng dạy CNTT đối với môn ngữ văn a1. Những ƣu điểm xét từ phía giáo viên giảng dạy Không gian giảng dạy thay đổi, tạo cảm hứng mới lạ, tránh sự nhàm chán quen thuộc trên lớp. Việc giáo viên giảng dạy trên lớp là một công việc bình thường và quen thuộc, vì thế khi giảng dạy CNTT tại phòng máy cũng là điều kiện để thầy và trò thay đổi không khí. Chính sự đầu tư của giáo viên cho một tiết dạy CNTT đã là một hứng thú trong tâm thế giảng dạy của người thầy. Từ đặc trưng của môn ngữ văn, người giáo viên có điều kiện tìm kiếm âm thanh, hình ảnh làm tư liệu minh họa, tác động. Ví dụ: Khi giảng dạy đoạn trích : “Hồi trống cổ thành” của La Quán Trung – Trích “Tam quốc diễn nghĩa” ở chương trình văn học 10, giáo viên dễ dàng downloat video clip từ mạng, cắt phim từ đĩa CD hay lấy hình ảnh minh họa từ clip. Vì thế, khi giảng dạy giáo viên nhập hồn vào không gian câu chuyện. Chính không gian này tạo cho thầy và trò niềm hứng khởi trong quá trình day và học. Các điều kiện hỗ trợ tìm kiếm hình ảnh minh họa thuận lợi Một trong những thuận lợi không nhỏ cho giáo viên trong quá trình tìm kiếm hình ảnh, video clip, âm thanh minh họa chính là sự phong phú của các dụng cụ điện tử, các phần mềm ân thanh, hình ảnh. Ví dụ , khi cần tìm kiếm âm thanh, clip chúng ta có thể sử dụng các phần mềm tiện ích như: Mp3 Sound -5- Cutter , , Cut MP3 Online , Ainsoft MP3 Cutter for Mac 1.0.1 X-Wave MP3 Cutter Joiner , Wma Cutter, Free Audio Cutter, hay các phần mềm âm thanh nhƣ: Windows Media Player GomPlayer WinAMP Koyote Easy Mp3 Ogg , KMPlayer , VLC Media player , JetAudio , 3GP Player , JetAudio , Realplayer , , v.v…Chính sự tiện lợi của thời đại tin học đóng góp không nhỏ cho giáo viên soạn giảng CNTT nhanh hơn, hiệu quả hơn. Ví dụ: Để tái hiện không khí hùng hồn của Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại quảng trường Ba Đình lịch sử vào ngày 2/9/1945, giáo viên dạy văn có thể dễ dàng cắt chọn âm thanh từ phần mềm. Internet và lợi ích tham khảo kiến thức Qua tiết dạy ấy, học sinh như được sống lại không khí hùng hồn, hào sảng, trọng đại của ngày quốc khánh 2/9/1945. Chính sự hỗ trợ về hình ảnh, âm thanh, video ấy đã đóng góp không nhỏ làm cho tiết dạy văn chính luận “Tuyên ngôn độc lập” sinh động hơn, hấp dẫn hơn. -6- Một điều mà bất cứ giáo viên nào biết sử dụng CNTT, biết sử dung Internet cũng đều thừa nhận rằng Internet là một kho bách khoa toàn thư đồ sộ nhất, có thể cung cấp mọi thông tin cho người tìm kiếm. Chính sự vô hạn về kiến thức ấy, giúp ích không nhỏ cho người giáo viên tìm kiếm những thông ti cần thiết, những thông tin bổ sung vào nguồn kiến thức giảng dạy của mình. Ví dụ, nếu gíao viên ngữ văn muốn giảng dạy tác phẩm “Chí phèo” của Nam Cao (sách văn học 11, tập 1) chúng ta có thể tham khảo không ít những bài soạn Powerpoint từ nguồn http://baigiang.violet.vn/, với các địa chỉ cụ thể: (http://baigiang.violet.vn/present/list/cat_id/1340/page/3) (http://baigiang.violet.vn/present/list/cat_id/1340/page/4) (http://baigiang.violet.vn/present/list/cat_id/1340/page/5) (http://baigiang.violet.vn/present/list/cat_id/1340/page/8) -7- Từ ví dụ nhỏ trên đây chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy Internet là nột nguồn thông tin quý giá cho giáo viên nói chung và cho giáo viên dạy văn nói riêng tìm kiếm tri thức hỗ trợ cho việc tham khảo, soạn dạy một tiết dạy CNTT Khi giảng dạy một tiết CNTT cụ thể đối với môn ngữ văn, người giáo viên chỉ cần gõ vào tên bài dạy thì các địa chỉ trên Internet có thể cung cấp một số lượng giáo án phong phú. Mặt khác, nếu muốn tìm hiểu thêm về tác giả, về bài viết tham khảo đối với tác phẩm thì Internet cũng cung cấp cho người giáo viên một số lượng bài viết đa dạng về nhiều cách nhìn nhận, đánh giá về tác phẩm. Chính từ nguồn kiến thức tham khảo phong phú đó, giáo viên có điều kiện sàng lọc, soạn ra được một giáo án hoàn hảo, phù hợp với -8- đối tượng học sinh mình giảng dạy. Như vậy, lợi ích tham khảo kiến thức của giáo viên văn từ Internet là rất lớn. Sự thành công ở mức độ nào còn phụ thuộc vào ý thức, lương tâm và trách nhiệm của người giáo viên trước bài soạn CNTT. Giáo viên càng dành thời gian tham khảo, sàng lọc kiến thức từ Internet càng nhiều bao nhiêu thì sự thâm nhập vào bài dạy càng cao bấy nhiêu, và tất yếu hiệu quả giảng dạy sẽ cao lên. Ngược lại, nếu giáo viên ỉ lại vào bài soạn Internet, không tìm tòi, khám phá, tự giác soạn giảng thì tiết dạy sẽ hời hợt, nhạt nhẽo, ít tác dụng đối với học sinh. Trình chiếu và mối quan hệ liền mạch với kiến thức bài dạy Xét từ đặc thù của một tiết dạy CNTT, tiết dạy powerpoint, chúng ta nhận thấy; Mỗi tiết dạy là một sự liền mạch về kiến thức, bởi lẽ, giáo viên bộ môn trong quá trình soạn giảng đã chú tâm đến tính logic, tính liên kết kiến thức của chính bài dạy đó. Ví dụ: một slides trình chiếu là một tiểu mục cụ thể, và khi hết tiểu mục đó thì slides kế tiếp mới tiếp tục. Và cứ thế, mọi ứng dụng khác đều tập trung vào chính slides đó. Vì lẽ ấy, mỗi bài dạy CNTT thực sự là một văn bản khoa học, một liên kết logic của kiến thức. a2. Những ƣu điểm xét từ phía học sinh học tập Học sinh hứng thú khi thay đổi môi trường học quen thuộc ở lớp cố định Đối với học sinh, việc học trên phòng cố định dành cho lớp mình là một công việc quen thuộc, quen thuộc đến thành bình thường hóa. Song, đối với tiết dạy CNTT, và đặc biệt là đối với môn văn, với học sinh thực sự là một niềm hứng thú, nó gợi lên sự tò mò trước bài học sắp sửa. Nhìn chung, trong các tiết dạy CNTT tất cả các em đều tập trung lắng nghe giáo viên giảng bài, tập trung cao độ quan sát những thông tin từ màn hình trình chiếu. Đó thực sự là một lợi thế không nhỏ đối với một tiết dạy. Ở độ tập trung vào một tiết dạy cụ thể thì tiết dạy truyền thống, tiết dạy bình thường không có được lợi thế này. -9- Học sinh được tiếp cận hình ảnh, video clip minh họa, sinh động tạo hứng thú trong tiếp nhận tri thức Một trong những lợi thế cơ bản nhất – xét về tâm lí tiếp nhận của học sinh đối với tiết dạy CNTT chính là sự thu hút của hình ảnh, âm thanh, màu sắc…của bài dạy khi giáo viên trình chiếu. Những hình ảnh minh họa tác động trực tiếp vào thị giác và nó giúp ích không nhỏ cho việc nhớ nội dung tác phẩm. Những âm thanh như ngâm thơ, đọc truyện, lời thoại của nhân vật thông qua các diễn viên điện ảnh, các nghệ sỹ sẽ dễ đi vào trí nhớ học sinh hơn. Độ rung động của bài thơ sẽ sâu hơn, hút hồn hơn. Ví dụ: Ngân thơ: Vội vàng – Xuân Diệu, Đây thôn vĩ dạ - Hàn Mặc Tử, Việt Bắc – Tố Hữu, Tây Tiến – Quang Dũng, Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm, Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm… Trong thực tế tiết dạy văn, mỗi khi nghe nghệ sỹ đọc thơ, ngân thơ – Độ rung động của nó tác động rất lớn vào cảm xúc của học sinh, điều đó kích thích sự cảm thụ của học sinh đối với văn bản tác phẩm thơ. b. Những hạn chế trong giảng dạy CNTT đối với môn ngữ văn b2. Những hạn chế xét từ phía giáo viên giảng dạy Ý thức đầu tư, sáng tạo, soạn giảng bài dạy mới hạn chế do sự có sẵn giáo án CNTT từ Internet Bên cạnh những ưu điểm giáo viên được hưởng lợi từ Internet, thì chính Internet cũng mang đến cho người giáo viên sự ỉ lại trong quá trình soạn giảng một tiết CNTT. Như trên đã chứng minh, chỉ một tiết “Chí phèo” (chương trình văn học 11) thì đã có rất nhiều bài giảng Powerpoint được đẩy lên trang web Bạch Kim. Chính sự thuận lợi trong việc tìm kiếm bài giảng này đã tạo cho không ít giáo viên sự chây lười trong quá trình nghiên cứu chi tiết bài giảng, tự thân tìm kiếm tài liệu hay tự mình dốc sức soạn giảng một tiết dạy phù hợp với kiến thức học sinh. Chính việc “ăn sẵn” giáo án CNTT ấy, làm cho người giáo viên mất đi sự thâm nhập sâu sắc vào bài dạy, vào tiết dạy. Mất đi ý tưởng sáng tạo của một tiết dạy. Trong quá trình dự - 10 - giờ giáo viên trong tổ, chúng tôi nhận thấy; hầu hết các tư liệu, hình ảnh…của tiết dạy đều được copy từ các trang mạng trên Internet. Vấn đề này, ngày càng nguy hại hơn cho không ít những giáo viên mới ra trường, nếu họ thiếu tinh thần tự lập soạn giảng giáo án CNTT. Càng về lâu về dài, người giáo viên sẽ mất đi tinh thần làm việc độc lập, tự giác. Và tất yếu ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tiết dạy. Đối với giáo viên lớn tuổi, trình độ và kỉ thuật tin học hạn chế, thị lực và sức khỏe không tốt, không ngồi lâu trước màn hình vi tính được, thì việc lấy sẵn giáo án CNTT từ mạng càng nhiều, sự đầu tư cho giáo án CNTT càng ít. Thực tế, nếu nhà trường có quy định bắt buộc mỗi năm có bao nhiêu tiết dạy CNTT đối với môn văn, thì họ cũng chỉ làm sơ sài cho qua theo quy định mà thôi, chứ việc tập trung công sức soạn giảng cho tiết dạy CNTT thực sự chưa cao. Đây cũng là một thực tế trong trường THPT hiện nay. Hình ảnh và video clip minh họa thiếu tính điển hình hóa Chúng ta đều biết, bản chất của văn chương chính là tính hình tượng, cái hay của hình tượng trong văn học có khi chỉ nằm ở suy tưởng, tưởng tượng của người đọc. Tuy nhiên, việc sử dụng video clip hay hình ảnh minh họa của bài dạy văn lại có điểm hạn chế là “đông cứng” hình tượng văn học. Vấn đề này làm mất suy tưởng phong phú trong tâm hồn học sinh. Bên cạnh những hạn chế trên, chúng ta còn biết rằng, những video clip hay hình ảnh dù hoàn mỹ đến đâu cũng không thể nào đáp ứng được hình tượng văn học. Bởi lẽ, mỗi người đọc sẽ có một hình tượng văn học trong một văn bản. Và như thế sẽ có n hình tượng văn học cho một nhân vật mà nhà văn xây dựng nên. Ví dụ, khi đưa hình minh họa hình ảnh nàng Kiều trong truyện Kiều của Nguyễn Du, thì dù hình ảnh đó có hoàn thiện đến đâu cũng không thể sánh bằng hình tượng nàng kiều được cụ Nguyễn miêu tả “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Sau dây là một vài hình ảnh minh họa từ giáo án CNTT được đăng tải trên trang web Bạch Kim http://baigiang.violet.vn/present/show/entryid/ - 11 - 7120507. Hình ảnh minh họa Thúy Kiều, Từ Hải “Truyện Kiều” – Nguyễn Du Thúy Kiều Thúy Kiều Từ Hải http://baigiang.violet.vn/present/show/entry_id/202520. Hình ảnh minh họa bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” http://baigiang.violet.vn/present/show/entry_id/7384788. Hình ảnh minh họa bài thơ “Tràng Giang” – Huy Cận “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” - 12 - “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” “Lớp lớp may cao đùn núi bạc” “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Từ những hình ảnh minh họa trên, là những giáo viên dạy văn, chúng ta thực sự nhận thấy, việc lựa chọn hình ảnh minh họa của người giáo viên khi soạn tiết CNTT còn sơ sài, thiếu đầu tư, thiếu điển hình. Những hình ảnh trên, không chỉ không có tác dụng mở rộng trí tưởng tượng của hình tượng thơ cho học sinh, mà còn là cho hình ảnh thơ méo mó, xấu đi so với thực tế văn bản của tác giả. Điều này thật nguy hại đối với học sinh, khi hình ảnh ấy thay thế hình tượng từ văn bản tác phẩm giảng dạy. Sự thăng hoa trong tiết dạy văn bị giảm sút So với một tiết dạy văn truyền thống, thì tiết dạy CNTT có ưu thế là chủ động về thời gian và kiến thức lên lớp. Tuy nhiên, đó cũng chính là hạn chế trong việc tạo cảm xúc của một tiết dạy văn học. Bởi lẽ, mọi chi tiết đều được mặc định sẵn, giáo viên chỉ việc bấm enter để trình chiếu nội dung tiết dạy. Chính sự thúc bách phải hoàn thành nội dung và thời lượng tiết dạy đã triệt tiêu cảm xúc của giáo viên dạy văn. Vì thế, tiết dạy CNTT mặc dù độ tin cậy về kiến thức cao hơn, mức độ khoa học cao hơn nhưng sẽ giảm sút sự thăng hoa của người giảng dạy. Xét về bản chất của một tiết ngữ văn – đây cũng là một sự cần thiết trong giảng dạy văn học ở trường THPT. Sức ép của thời gian và thời lượng của bài dạy Nhìn chung, một tiết dạy CNTT môn văn, đa số giáo viên đều chuẩn bị kỹ bài dạy, nội dung đầy đủ, phong phú. Chính điều này cũng là áp lực không nhỏ về thời lượng cho giáo viên dạy văn. Họ không đủ thời gian để - 13 - dừng lại giảng giải sâu vấn đề đang giải quyết, đang đề cập đến, những vấn đề nằm ngoài tác phẩm cũng bị loại bỏ, sự so sánh tương phản hay tương đồng đều bị hạn chế giảng giải, phân tích, mà nếu có đi chăng nữa thì cũng chỉ nêu lên sơ lược, khái quát mà thôi. Chính vì lẽ ấy, sự khắc sâu kiến thức của tiết dạy CNTT thường không cao bằng tiết dạy truyền thống. Sự bao quát lớp học và nắm bắt tâm lí tiếp nhận học sinh hạn chế Do áp lực về tiết dạy phải hoàn thành (không thể bù sang tiết dạy khác hay tiết dạy truyền thống được) nên người giáo viên chủ yếu chú tâm vào giáo án CNTT là chính mà lơ là hơn ở phần nắm bắt tình hình nắm bài của học sinh. Các câu hỏi phát vấn về kiểm tra sự tiếp nhận kiến thức của giáo viên dành cho học sinh cũng hạn chế. Vì lẽ ấy, người giáo viên không thể hoàn toàn nắm rõ được sự tiếp nhận kiến thức mới của các em tốt hơn một tiết giảng dạy truyền thống b2. Những hạn chế xét từ phía học sinh học tập Sự mâu thuẫn giữa hình tượng văn học và hình ảnh, clip minh họa Mỗi cá thể học sinh là một thế giới tâm lí độc lập, nên việc tiếp thu hình tượng văn học từ một văn bản cũng khác nhau. Theo lí thuyết mới, thì một văn bản văn học có n tác phẩm và là một văn bản không đông cứng. Tuy nhiên, với hình ảnh video clip, hình ảnh minh họa, vô hình dung người giáo viên đã “đông cứng” hình tượng văn học. Nó như mặc định cho học sinh suy nghĩ rằng đó là nhân vật, đó là hình ảnh chính của câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn. Mà cho dù không như thế nữa thì hình ảnh đó vẫn là một tác động khắc sâu vào tâm trí các em Ghi chép không kịp nội dung Một trong những hạn chế nổi bật nhất của giảng dạy CNTT xét từ phía học sinh chính là học sinh không ghi chép kịp nội dung bài dạy. Vấn đề ở đây chính là phía giáo viên soạn giảng, họ không căn được thời gian giữa trình chiếu và thời gian học sinh ghi hết nội dung trình chiếu đó. Thứ hai, là thông tin trình chiếu nhiều và dài. Thứ ba, là học sinh khi quan sát ở bảng - 14 - động này bị lóa mắt nên học sinh ghi bài chậm hơn so với dạy bảng phấn truyền thống. Thứ tư, là khi dạy bảng truyền thống giáo viên vừa ghi lên bảng vừa căn được thời lượng học sinh chép bài. Vì thế, giữa giáo viên và học sinh có một sự liên hệ ăn ý. Nên trong quá trình giảng – ghi – và học sinh ghi liền mạch. Còn trong tiết dạy CNTT giữa giáo viên văn và học sinh thường chưa ăn khớp giữa trình chiếu – giảng – và học sinh ghi. Điểm hạn chế này cũng chính là trở ngại lớn cho học sinh trong quá trình học tập, tiếp thu bài giảng của môn ngữ văn. Sự lắng đọng, khắc sâu bài dạy hạn chế Từ những hạn chế từ ghi chép, từ hình ảnh trực quan thiếu điển hình, từ sự tưởng tượng về hình tượng văn học bị hạn chế…tất cả những hạn chế đó đã tạo nên sự trở ngại không nhỏ cho học sinh trong quá trình tiếp thu bài giảng của mình. Nếu xét ở tiết dạy truyền thống – ghi bảng thì việc khắc sâu kiến thức của học sinh có điều kiện hơn hẳn việc giảng dạy CNTT. Sự trình bày ở bảng động ghi bằng phấn, giáo viên có điều kiện nhấn mạnh những từ ngữ giàu ý nghĩa nội dung, nghệ thuật bằng cách ghi phấn màu hoặc bằng cách ghạch dưới những từ đó, hoặc có thể giảng rộng ra những vấn đề liên quan tương phản hoặc tương đồng để học sinh khắc sâu kiến thức của mình hơn. VIII. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Những kinh nghiệm Khi thiết kế bài giảng Power Point, một giáo án CNTT cần bảo đảm được tính hệ thống, tính mạch lạc, tính chính xác và hướng đến các hoạt động phát huy tính tích cực của học sinh, nên làm cho học sinh được bộc lộ suy nghĩ của mình qua giờ học… Sự trình diễn đừng quá cầu kì phô diễn mà phải chú ý mục tiêu đặt ra từ bài học. Tuy nhiên, không phải bài nào ta cũng dạy qua máy, cần có sự chọn , không nên chạy theo phong trào mà không nghĩ đến tính hiệu quả. Khâu chuẩn bị bài cũng phải chu đáo và luôn tìm tòi sáng tạo, phương pháp có - 15 - thay đổi ,có phong phú bài dạy mới có kết quả tốt, và luôn tâm niệm một điều: “Máy móc chỉ là phương tiện, chỉ có phương pháp giảng dạy làm sao đạt hiệu quả mới là cần thiết”. Với khoảng thời gian 11 năm trên bục giảng, có thể đó là một thời gian dài của một đời người, thời gian cũng dài cho sự trải nghiệm từ chương trình cũ, đến chương trình cải cách, đến bây giờ là chương trình phân ban, có nhiều bài nặng nề những cũng có rất nhiều bài hay, mới mẻ nhất là những tác phẩm viết sau năm 1975 các nhà văn đã đặt ra nhiều vấn đề gai góc phức tạp trong cuộc sống, tôi đã nghiên cứu tìm tòi bằng tất cả cái tâm và sự say mê nghề nghiệp, nếu không tận tụy với nghề thì sẽ không cập nhật được kiến thức với thời cuộc. Tôi rất thích câu nói nhà viết kịch Lưu Quang Vũ: “Có cái hôm qua nó đúng nhưng hôm nay nó đã lỗi thời vì sự vật không đứng yên” cho nên mỗi giáo viên cũng phải luôn luôn làm mới kiến thức của mình... Để có một giờ dạy tốt dù bằng cách nào, phương pháp nào cũng rất cần cái tâm và tài của người thầy.... Trong quá trình giảng dạy, áp dụng CNTT vào lớp được phân công giảng dạy, tôi nhận thấy hiệu quả giảng dạy môn văn được nâng lên rõ rệt, cụ thể kết quả thu được trong những năm qua như sau: Stt Lớp Năm học Kết quả Ghi chú tốt nghiệp 1 12a1 2004 - 2005 80 % Lớp bình thường 2 12a2 2005 - 2006 100 % Lớp chọn ban A 3 12a12 2006 - 2007 75 % Lớp bình thường 4 12a8 2007 - 2008 84 % Lóp bình thường - 16 - 5 12c 6 7 IX. 11cb7 2008 - 2009 100 % Lóp chọn ban C 2009 – 2010 Đi học sau đại học, không 2010 – 2011 phân công giảng dạy 2011 – 2012 86.1 % Lớp bình thường ban cơ bản ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Từ vấn đề chính, những ưu điểm và hạn chế khi giảng dạy CNTT đối với môn văn, thực sự là đề tài tôi tâm đắc từ lâu, chính từ thực tế giảng dạy tôi đã rút ra được những kinh nghiệm như đã trình bày trong phần nội dung. Thiết nghĩ, những ưu điểm và hạn chế ấy, giáo viên dạy văn cần lưu tâm trong quá trình giảng dạy của mình để phát huy tối đa những ưu điểm mà CNTT đưa đến cho người dạy lẫn người học. Điều mong muốn cao nhất của đề tài là chất lượng giảng dạy môn ngữ văn trong thời đại hiện nay được nâng lên cao hơn, xứng đáng là môn học trọng trâm nhất mà bộ giáo dục và đào tạo đề ra. Từ đề tài này, tôi mong muốn được ngành giáo dục quan tâm đến việc soạn giảng CNTT đối với môn văn trong trường THPT hiện nay. Vì thực tế, các văn bản chỉ đạo từ trước đến giờ chưa đi sâu vào những ưu điểm và hạn chế của việc giảng dạy CNTT đối với môn văn. Nếu có nêu lên đi chăng nữa thì chỉ nêu lên những vấn đề khái quát chung cho tất cả các môn, thiếu tính chỉ đạo sâu sát cụ thể đối với môn văn – Môn có tính chất đặc thù riêng. Từ kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, theo tôi, các tiết dạy CNTT đối với môn ngữ văn nếu sử dụng hình ảnh, video thì chỉ nên sử dụng với kiểu bài văn học sử, hoặc văn học hiện thực, vì nó mang tính chất tái hiện hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh lịch sử…Còn đối với văn học lãng mạn, siêu thực, tượng trưng thì nên sử sụng phần ngân thơ, đọc thơ của các nghệ sỹ diễn đạt, - 17 - tránh dùng hình ảnh minh họa áp đạt một chiều, thiếu tính điển hình và mang tính chất đông cứng hình tượng… Tất nhiên, với giáo viên giảng dạy, mỗi tác phẩm có những phương pháp tương tác thích hợp, và việc sử dụng CNTT như thế nào cho phù hợp là một việc làm cần được xem xét, suy nghĩ cho thấu đáo, phù hợp với đặc trưng bộ môn và khoa học giáo dục. Xác định đề tài có phạm vi áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả tại đơn vị hoặc đã phổ biến áp dụng trong ngành Giáo dục hoặc có khả năng áp dụng trong phạm vi rộng đạt hiệu quả. Trên cơ sở đó, đề xuất: - Các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đƣờng lối, chính sách của đơn vị hoặc của ngành Giáo dục. - Đƣa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào hoạt động giáo dục. Tác giả trình bày ngắn gọn, đầy đủ các vấn đề có liên quan trực tiếp với đề tài. - 18 - X. PHỤ LỤC BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: 12966/BGDĐT-CNTT V/v đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về CNTT Kính gửi: Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2007 - Các Sở Giáo dục và Đào tạo - Các trƣờng đại học, cao đẳng sƣ phạm, khoa sƣ phạm Ngày 07/9/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã có Công văn số 9584/BGDĐT-CNTT gửi các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học, cao đẳng sư phạm, các khoa sư phạm hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 20072008 về CNTT. Để đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ về CNTT đã đề ra tại Công văn 9584 nêu ở trên, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là chuẩn bị cho năm học 2008-2009 là “Năm học Công nghệ thông tin”, cũng như triển khai Chỉ thị 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ kí ngày 29/11/2007 về Chấn chỉnh việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nƣớc, Bộ GD&ĐT hướng dẫn và yêu cầu các Sở GD&ĐT triển khai thực hiện ngay một số hoạt động sau: 1. Tổ chức triển khai việc cung cấp e mail với tên miền @moet.edu.vn cho tất cả các trường phổ thông, các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm ngoại ngữ tin học, các trường trung cấp chuyên nghiệp... Bộ GD&ĐT hoan nghênh các Sở, các trường ĐH, CĐ đã tích cực tham gia để hệ thống hoạt động thường xuyên, hiệu quả phục vụ trực tiếp cho công tác thông tin, liên lạc, báo cáo, chỉ đạo, điều hành của Bộ, của ngành. Đề nghị các Sở tiếp tục gửi danh sách để lập địa chỉ e mail với tên miền @moet.edu.vn cho tất cả các trường tiểu học, THCS, THPT về Bộ theo mẫu đã hướng dẫn của Cục Công nghệ thông tin tại CV 11224/BGDĐT-CNTT. Kế hoạch này cần hoàn thành trước ngày 15/01/2008. 2. Triển khai việc cung cấp e mail cho mỗi học sinh, mỗi giáo viên của các trƣờng với tên miền của Sở. Các Sở GD&ĐT cần đăng ký tên miền riêng, ví dụ như Sở GD&ĐT tỉnh Hòa Bình đăng kí tên miền là @hoabinh.edu.vn. Thống nhất sử dụng kí hiệu C1, C2, C3 trong tên e mail để chỉ các bậc học tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông tương ứng; C12 và C23 cho trường hỗn hợp; C0 để chỉ bậc mẫu giáo. - 19 - Trước hết, ngay trong năm học 2007-2008 này, đề nghị các Sở ưu tiên tạo ngay e mail của Sở cho học sinh THPT, đặc biệt cho học sinh lớp 12 để phục vụ cho việc nhận thông tin đăng kí thi tuyển sinh, hướng nghiệp năm 2008. 3. Triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục: Các Sở cần triển khai thống nhất hệ thống phần mềm quản lý trường học do Cục CNTT cung cấp miễn phí. Trên cơ sở phần mềm quản lí trường học này, Cục CNTT sẽ cung cấp các công cụ quản lý các cấp (Bộ, Sở, Phòng) để thống nhất cơ sở dữ liệu về giáo dục phổ thông gồm giáo viên, học sinh, cơ sở vật chất, thi... Bộ GD&ĐT thống nhất quản lý nhà nước về cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin quản lí giáo dục về một đầu mối là Cục CNTT để tránh chồng chéo gây lãng phí và đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn hệ thống thông tin giáo dục. Xin báo để các Sở biết chức năng nhiệm vụ của Cục CNTT và bản kết luận của Phó Thủ tướng -Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân tại buổi làm việc với Cục CNTT (Gửi kèm theo). Hàng năm, Cục CNTT có trách nhiệm cập nhật phần mềm theo yêu cầu mới, thu thập và xử lý dữ liệu, cung cấp lại các thông tin cần thiết và hữu ích phục vụ cho công tác quản lý của các cấp quản lý giáo dục (Bộ, Sở, Phòng). Cục CNTT đã gửi đĩa CD chứa đầy đủ thông tin dữ liệu phân tích hai kì thi tốt nghiệp THPT và kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng của từng trường, từng hội đồng thi để các Sở tham khảo và phổ biến đến các trường, các lớp để cùng nghiên cứu rút kinh nghiệm, phục vụ cho cuộc vận động hai không. 4. Khai thác và sử dụng mã nguồn mở trong quản lý và giảng dạy Khai thác và sử dụng phần mềm mã nguồn mở trong các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước là một chủ trương lớn của Nhà nước. Vì vậy các đơn vị, cơ sở giáo dục cần triển khai ngay các phần mềm mã nguồn mở trong công tác dạy học chính thức trong trường phổ thông và trong công tác quản lý: a) Bộ phần mềm văn phòng OpenOffice.Org, (gọi tắt là Open Office) có thể tải về miễn phí tại địa chỉ www.OpenOffice.Org Trong đó có các modun Soạn thảo văn bản (Writer), Bảng tính điện tử (Calc), Đồ họa (Draw), Trình chiếu (Impress) và Cơ sở dữ liệu (Base). Các modun này hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu sử dụng trong công tác quản lý và giảng dạy, tương đương với Microsoft Office. Các đơn vị có thể dùng bản Star Office, có thể tải về miễn phí tại địa chỉ của Google http://www.google.com/intl/en/options/ Hiện nay toàn bộ các máy tính của các cơ quan Đảng đã được chuyển sang dùng bộ phần mềm văn phòng Open Office. Bộ Thông tin và Truyền thông đã thành lập - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan