Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn nâng cao năng lực cảm thụ văn ở học sinh lớp 6...

Tài liệu Skkn nâng cao năng lực cảm thụ văn ở học sinh lớp 6

.PDF
15
728
75

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN Ở HỌC SINH LỚP 6 I. Phần mở đầu I.1. Lý do chọn đề tài Cùng với sự đi lên đổi mới và hội nhập của cả nước trong lĩnh vực giáo dục đổi mới phương pháp dạy và học đối với học sinh là một vấn đề được đề cập từ nhiều năm nay và được bàn luận rất sôi nổi. Đặc biệt theo tinh thần của Nghị quyết 40 của Quốc hội từ năm học 2002-2003 chương trình SGK mới được đưa vào sử dụng đại trà trên phạm vi toàn quốc từ lớp 6. Trên cơ sở kiến thức truyền thống đổi mới tích hợp và tích cực hoá hoạt động dạy học. Trong đó việc học tập tích cực của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên, học sinh phải tự giác tìm tòi, phát hiện giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt sáng tạo các kiến thức kỹ năng đã thu nhận được. Nhưng những định hướng này mới chỉ đến với giáo viên qua các kỳ BDTX - tập huấn, hội thảo - chuyên đề ... và hơn thế mà mang nặng tính lý thuyết còn nghèo tính thực tế thực hành. Vì vậy khi áp dụng vào dạy học cho học sinh nói chung và học sinh lớp 6 nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Thứ hai: là người giáo viên chúng ta cần phải hiểu rằng hoạt động tiếp thu tri thức thực chất là hoạt động ghái, đáp diễn ra liên tục thông qua nhận thức của người học. Và muốn làm được điều đó người thầy phải lựa chọn phương pháp truyền thụ một cách hợp lý nhất để đạt được mục tiêu môn học - đối tượng học sinh. Thứ ba: Học sinh lớp 6 là học sinh đầu cấp THCS thoát ly gần như tuyệt đối chương trình cách học và chương trình ở bậc tiểu học. Từ tập đọc ở tiểu học các em phải đọc hiểu văn bản, học lý thuyết phải vận dụng thực hành, học tiếng Việt phải sử dụng khi nói - viết và câu hỏi là phải biết cảm thụ các tác phẩm văn học, cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái giá trị chân thực của tác phẩm văn học, mà điều này. Mà điều này là học sinh lớp 6 là vấn đề vô cùng khó khăn. I.2. Mục đích nghiên cứu Từ cơ sở lý luận và thực tế việc dạy học ngữ văn đối với học sinh lớp 6 tôi nhận thấy cần phải thư nghiệm - đúc rút kinh nghiệm dù ít ỏi trong việc nâng cao năng lực cảm thụ Văn học cho học sinh lớp 6. I.3. Thời gian - địa điểm - Năm học 2008-2009 - Địa điểm: Học sinh lớp 6AB trường THCS Đức Chính. I.4 Đóng góp về mặt lÝ luận và thực tiễn I.4.1. Về mặt lí luận - Học sinh lớp 6 là học sinh đầu cấp THCS, mọi đơn vị kiến thức và các en hoàn toàn mới lạ nên ngay từ những giờ đầu của chương trình giáo viên phải xây dựng ngay cho mình một kế hoạch dạy học bộ môn sát với đối tượng học sinh. Giáo viên dạy văn 6 phải xác định mục tiêu bộ môn và mục tiêu bậc học, bởi môn Văn là một môn học thuộc nhãn KHXH - điều này cho thấy tầm quan trọng của môn học trong việc giáo dục, quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Bên cạnh đó môn Ngữ văn còn là môn học công vụ có tác dụng kết nối cách diễn đạt ở các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác dụng kết nối cách diễn đạt, tác động đến kết quả học tập các môn học khác và ngược lại. - Môn Ngữ văn vai trò góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn PTCS, những con người có ý thức du dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu CNXH, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện, có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, có năng lực cảm thụ các giá trị chân - thiện - mĩ - có năng lực thực hành và sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.... I.4.2 Về mặt thực tiễn Môn Ngữ văn ở lớp 6 giúp các em có được những kiến thức cơ bản nòng cốt của bậc THCS. Chẳng hạn: - Hiểu đúng nghĩa của từ - Hiểu nghĩa gốc, nghĩa chuyển - Phân biệt từ tiếng Việt - từ mượn - Từ đơn - từ ghép, cụm từ - Nắm được kiểu văn bản thường dùng: tự sự miêu tả thuyết minh.... - Phải nắm được một số thao tác phân tích tác phẩm văn học - Hiểu đượcsơ giản nhất về thi pháp - LSVH VN... - Kĩ năng nghe - nói - đọc - viết tiếng Việt thành thạo đúng ngữ pháp. - Biết phát hiện lỗi sai khi dùng từ - Vận dụng nói - viết đúng ngữ pháp, đúng văn cảnh trong các bài làm văn. Qua một văn bản văn học, học sinh phải cảm nhận được cái sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm: VD1: Học truyện "Thạch Sanh"( tiết 21-22 ) => học sinh biết yêu quý những con người lao động hiền hành, biết căm thù kẻ ác - x©ó (Lý Thông). VD2: "Em bé thông minh" ( tiết25-26) => hiểu được cái dí dỏm qua lời giải đố của em bé thông minh ,từ đó kích thích tư duy trí tuệ, khả năng ứng xử linh hoạt của học sinh. trong học tập cũng như trong giao tiếp cuộc sống. VD3 Với văn bản :" Bài học đường đời đầu tiên" tiết 73-74 . Học xong văn bản này học sinh tự kiểm tra bản thân => mạnh dạn chỉ ra cái còn thiếu sót ,tự vạch ra tåm tại của chính mình và có hướng sửa chữa , vươn lên, từ đó giúp các em mạnh dạn học tập, phê và tự phê.trong hoạt động tập thể. II. Nội dung II.1. Chương 1: Tổng quan Nói chung việc dạy học môn Ngữ văn ở học sinh lớp 6 là cả một quá trình công phu, vừa có vai trò đặt nền móng cho môn học của cả cấp học - vừa phải thực hiện được mục tiêu môn học ở cả cấp học- mà sau này còn chi phối cách học tập của học sinh cả cấp học THCS thậm chí cấp THPT. - Đào tạo kỹ năng ở lớp 6 là: nghe - nói - đọc - viết tiếng Việt thành thạo, từ đó bưíc đầu có năng lực cảm nhận và bình giá tác phẩm văn học ở mức đơn giản Ngoài ra Ngữ văn lớp 6 còn có nhiệm vô giáo dục học sinh nâng cao ý thức gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt - yêu quý các thành tựu văn học dân tộc - VH thế giới. Từ đó hướng cho các em bộc lộ năng lực hiểu , cảm thụ trân trọng tinh hoa văn học dân tộc, có ý thức kế thừa, phát huy sáng tạo các sản phẩm văn hoá tinh thần của dân tộc . II.2. Chương 2: Nội dung của vấn đề nghiên cứu II.2.1. Nghiên cứu lý luận chung của vấn đề nghiên cứu - Nghiên cứu cách xác định hệ thống chương trình. - Kế hoạch cho từng thể loại có trong chương trình - Phân loại học sinh - phân loại kiểu bài , dạng bài .... - Lựa chọn phương pháp dạy học và từng kiểu loại bài. cho phù hợp - Cách hướng dẫn học sinh học và soạn bài ở nhà. - Cách đọc - lựa chọn đơn vị kiến thức phục vụ nội dung bài học - Cách trả lời câu hỏi, các bước soạn bài. II.2.2 Thực trạng Bé môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn lớp 6 nói riêng có vị trí và vai trò rất quan trọng, nhưng thực tế để cho học sinh thực sự có năng lực cảm thụ bộ môn là điều không dễ làm. Cụ thể: - ở bậc Tiểu học các em học văn chỉ dùng ở mục trả lời các câu hỏi theo kiểu phát hiện, chọn điền từ... - Lực học của nhiều học sinh và năng lực cảm thụ của các em không đồng đều, một lớp 30 học sinh chỉ có khoảng 5-10 em là thực sự hiểu cách học văn hiểu yêu cầu bộ môn và diễn ®¹y tương đối mạch lạc Số còn lại tiếp thu chậm, hạn chế năng lực cảm thụ ..... - Thậm chí nhiều học sinh lớp 6 đọc chưa lưu loát ,ấp úng, sai chính tả ,....làm sao có thể nói tới việc cảm thụ - Có một số em không biết xác định yêu cầu câu hỏi, cách lựa chọn kiến thức có trong bài để trả lời câu hỏi. Thậm chí có những học sinh viết họ tên của chính mình trên giấy kiểm tra còn chưa chuẩn nói gì đến việc cảm nhận cái hay ,cái đẹp của tác phẩm văn học ... II-2-3 : Giải pháp Từ thực trạng của việc học văn trên khi tiếp nhận học sinh lớp 6 đầu cấp tôi đã tiến hành một số công việc cho là cần thiết trước khi lựa chọn phương pháp dạy học 1. Lập danh sách học sinh đưa từ tiểu học lên với học lực bộ môn cụ thể 2 .Trực tiếp gặp gỡ giáo viên dạy ở tiểu học để xác minh đánh giá học lực của từng em. 3 .Tiến hành khảo sát chất lượng ngay từ tuần học đầu năm để phân loại học sinh vê ưu điểm, tồn tại đại trà, đặc biệt có danh sách kèm theovµ nhận xét đánh giá ban đầu. 4 . Tiến hành kiểm tra sách giáo khoa, sách bài tập , các loại vở ghi,vở soạn của học sinh đúng với yêu cầu môn học 5 . Sau đó giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học với từng loại văn bản có trong phân phối chương trình. Ví dụ : Truyện truyền thuyết,truyện cổ tích ,truyện cười ,truyện trung đại ,truyện hiện đại, tác phẩm thơ ..... 6. Ngay từ đầu năm học mỗi giờ chấp nhận bỏ ra từ 5 đến 7 phút hướng dẫn học sinh cách soạn bài từ cách đọc văn bản, cách xác định câu hỏi, xác định nội dung cần trả lời (kiên quyết yêu cầu học sinh đọc văn bản từ 10-15 lần trước khi soạn bài). 7. Sau khi học sinh đã tiếp cận văn bản ở dạng sơ lược là đọc, giáo viên giúp học sinh xác định các yêu cầu cao hơn sau mỗi bài học. Cần thiết (tuỳ bài) giáo viên lập sẵn hệ thống câu hỏi soạn đã được chia nhỏ để học sinh không bị choáng ngợp trước những kiến thức lớn, dài (là học sinh lớp 6). 8. Hướng dẫn các em trả lời câu hỏi. Những tiết đầu năm giáo viên trả lời mẫu cho học sinh trả lời lại, giáo viên sửa chữa cho đến lúc đạt yêu cầu phục vụ bài học. 9. Tận dụng lớp học buổi 2 để củng cố việc chuẩn bị bài của học sinh: khoảng 1,5 - 2 tháng đầu năm, giáo viên chấp nhận tự hỏi, tự trả lời để học sinh làm quen cách học và đảm bảo yêu cầu tiết học diễn ra đúng ý đồ của giáo án. 10. Giáo viên bộ môn hợp tác cùng giáo viên chủ nhiệm, cán bộ lớp, cán sự môn, tổ trưởng và các đôi bạn học để kiểm tra học sinh trước giờ học (có thể là 15 phút truy bài đầu giờ), có ghi chép, nhận xét cách soạn, chuẩn bị bài của học sinh để có kế hoạch bổ sung cho những học sinh khá, giúp học sinh trung bình, yếu theo kịp các bạn. Tuy nhiên, việc dạy học văn ở học sinh lớp 6 có nhiều điểm khác với học sinh 6, 7, 8 trong cùng bậc học, bởi lẽ: với học sinh lớp 6 cảm thụ chỉ ở mức thấp, đơn giản, không phải là những cái quá ý vị sâu xa, hay phải nâng lên thành quan điểm triết lý như ở: văn bản "Bến quê" Nguyễn Minh Châu; "Làng" - Kim Lân; "Lặng lẽ Sa Pa" - Nguyễn Thành Long; hay "ánh trăng" - Nguyễn Duy, ở chương trình lớp 9. Cảm thụ với học sinh lớp 6, tôi thiết nghĩ phải là cái gì cụ thể, rõ ràng, gần gũi gắn với nội dung bài học, là những điều các em tự rót ra sau bài học rất mộc mạc giản đơn, nhưng vẫn hàm chứa bài học giáo dục nhân văn. Cụ thể: ở một số tiết học thực hiện như sau: VD 1: Văn bản "Con rồng cháu tiên" - tiết 1-2 Cả văn bản chỉ có 4 câu hỏi và là dạng câu hỏi dài: "Em hãy tìm các chi tiết trong truyện thể hiện tính chất kỳ lạ, cao quý về nguồn gốc và hình dạng của Lạc Long Quân và Âu Cơ"? Với câu hỏi này, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài tôi thay bằng 3 câu hỏi nhỏ: ? Lạc Long Quân và Âu Cơ có nguồn gốc từ đâu? Hình dạng của họ có gì khác lạ so với người bình thường? ? Người bình thường sinh nở có thời hạn là bao lâu? ở đây Âu Cơ sinh nở có gì khác lạ? ? Những đứa con của Âu Cơ có gì khác những đứa trẻ bình thường? Đấy là dạng câu hỏi "tìm" . Từ đó nâng lên câu hỏi cảm thụ: ? Những chi tiết vừa tìm được có đúng với cuộc sống thực tế không? Vì sao?. ? Vậy các chi tiết đó có vai trò như thế nào trong truyện? Học sinh trả lời: - Tăng tính ly kỳ, hấp dẫn cho truyện; - Khắc hoạ được tính chất kỳ lạ đẹp đẽ của các nhân vật. Yêu cầu cao hơn: - Đề cao sự thiêng liêng hoá nguồn gốc giống nòi, khẳng định dòng dõi cao quý của dân tộc Việt Nam. Từ đó tự hào tôn kính tổ tiên. GV hỏi tiếp ? Chi tiết 100 trứng trong cùng một bọc có ý nghĩa gì? HS trả lời: thể hiện tinh thần đoàn kết thống nhất của nhân dân khắp mọi miền đất nước. GV bình và nâng lên thành bài học giáo dục cho học sinh về tinh thần đoàn kết các cộng đồng dân tộc Việt Nam. VD2: Tiết 9: "Sơn tinh - Thủ Tinh" Văn bản này (SGK) nội dung câu hỏi quá lớn, dễ làm, học sinh thấy khó khăn hoang mang khi chuẩn bị bài: ? Từ truyện "Sơn tinh - Thủ Tinh" em nghĩ gì về chủ trương xây dựng củng cố đê điều, nghiêm cấm nạn phá rừng, đồng thời trồng thêm rừng của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây thực chất là câu hỏi thực hành - Tuy nhiên, với học sinh lớp 6 để trả lời câu hỏi này không hẳn là khó, nhưng cách cảm nhận như thế nào mới là hiệu quả. Từ đó giáo viên có các câu hỏi phụ: ? Theo em trồng và bảo vệ rừng có tác dụng như thế nào? ? Hàng năm nhân dân ta vẫn đắp đê ngăn lò - việc làm này có cần thiết thường xuyên không? Tại sao? ? Gia đình em đã làm được gì để góp phần ngăn chặn lò lôt, sạt lở đê điều và bảo vệ rừng? ? Nếu trên đường đi học vỊ gặp một nhóm người đang chặt phá khu rừng đầu nguồn em sẽ xử lý như thế nào? Đó là những dạng câu hỏi mang tính thực hành cảm hoá tự động để các em mạnh dạn bộc lộ nhận thức của mình. VD3: Với nhóm truyện ngụ ngôn tiết 39, 40, 45, 51 trong hệ thống truyện dân gian có trong chương trình . Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản cần có những câu hỏi liên hệ để đảm bảo yêu cầu giáo dục của tiết học Ví dụ : ? Theo em liệu Ịch có tránh được cái chết không ? Tránh bằng cách nào ? ? Đây có đơn thuần là câu truyện về con Ịch hay còn mang hàm ý nào khác ? Em hãy chỉ ra ? ( Văn bản Ịch ngồi đáy giiÕng ) ? Tai sao trong truyện " Thầy bói xem voi " dân gian không lÂy người bình thường để xây dựng cốt truyện mà lại là các ông thầy bói mê ? ( Người sáng mắt có học mà cách nhìn không đúng ,sai lệch hậu quả cũng không kém ) ? Trong truyện " Thầy bói xem voi " quan hệ giữa các nhân vật có ý nghĩa gì?. Giáo viên bình: Đó chính là quan hệ nương tựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau của những cá nhân trong một tổ chức, một cộng đồng mà ở đây dân gian đã thu lại trong phạm vi mÂy cơ quan trên một cơ thể con người. Từ đó chúng ta cần phải lưu ý trong quan hệ sống với tập thể (cụ thể là với gia đình, lớp, trường). VD4: Văn bản "Bức tranh của em gái tôi". Tiết 81, 82 Đây là một văn bản mang tính nhân văn cao, cốt truyện lại thực tế gần gũi với các em, giá trị của văn bản và cái cần học sinh cảm thụ nằm ở câu nói mà người anh thầm nói với mẹ về em gái mình: "Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn mà lòng nhân hậu của em con đấy". Sau khi đã phân tích tìm hiểu nội dung văn bản, học sinh đã nắm được kiến thức cơ bản của câu truyện, giáo viên đưa câu hỏi trên để học sinh thảo luận. Đây là câu hỏi cảm thụ ở dạng khá cao so với học sinh lớp 6. Nếu để nguyên câu hỏi, học sinh lớp 6 sẽ khó khăn bởi câu hỏi mang tính triết lý. Vì vậy, tôi thay đổi câu hỏi như sau: ? Suy nghĩ lúc này của người anh có gì khác so với suy nghĩ ban đầu về em gái mình? ? Điều gì đã làm cho người anh thay đổi suy nghĩ? ? Câu nói thầm của người anh với mẹ chứng tỏ điều gì? Vậy, "bức tranh" lúc này có còn là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần nữa không? Nếu không thì "bức tranh" lúc này có ý nghĩa nào khác? Giáo viên bình: Bức tranh không còn là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà nó đã trở thành nghệ thuật cảm hoá. Nghệ thuật đã làm nên cái đẹp, làm đẹp con người cả về tính cách, suy nghĩ. Nghệ thuật đã có tác dụng hoàn thiện vẻ đẹp của con người, xây dựng tình cảm trong sáng, cảm hoá những lỗi lầm. Lòng nhân hậu bao giờ cũng chiến thắng và cao đẹp hơn bất cứ thứ gì trên đời. Qua lời bình, giáo viên cần nhằm nhấn mạnh cho học sinh sự tự nhận thức vÌ mình, khẳng định lại mình và tiếp tục hoàn thiện mình để sống tốt hơn cho bản thân, cho cuộc đời. VD5: Văn bản "Lao Xao" - Duy Khán. Tiết 113, 114 Cuối bài có một câu hỏi: ? Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh của các loài chim? Đây là dạng câu hỏi cảm thụ trực tiếp. Muốn học sinh trả lời được câu hỏi này ở phần trên giáo viên phải làm tốt việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu thế giới loài chim có trong văn bản, với những nét nổi bật đáng chú ý: tiếng kêu, hình dáng, màu sắc, tập tính. Kết hợp với bài hát đồng dao để học sinh hứng thú hơn khi cảm nhận nét mới về làng quê qua văn bản. Đó là một làng quê bình dị như bao làng quê Việt Nam: Một góc vườn nhỏ, lao xao b­ím và chim. Đó là quê hương, là nơi ta phải sống, học tập để xây dựng giàu đẹp hơn, đồng thời phải biết bảo tồn thiên nhiên giữ mãi những khoảng khắc lao xao của tuổi thơ. VD6: Trong phân môn tiếng Việt - tiết 91 bài "Nhân hoá" ở tiết này nâng cao cảm thụ cho học sinh ở chỗ tìm và chỉ ra được cái hay, cái đẹp của việc dùng các biện pháp nhân hoá trong nói, viết. Ví dụ: Khi tìm hiểu bài sách giáo khoa chỉ có một câu hỏi. ? Tìm phép nhân hoá trong khổ thơ? Lúc này, học sinh chưa học nhân hoá nên việc tìm phép nhân hoá đột ngột như vậy là không hợp lý. Giáo viên xây dựng lại hệ thống câu hỏi để học sinh cảm thụ từng bước: ? Yêu cầu học sinh đọc, nghiên cứu ví dụ? ? Chỉ ra các sự vật, con vật, đồ vật được nói tới trong khổ thơ? - Ông trời, cây mía, kiến. ? Những sự vật, con vật, đồ vật ấy được miêu tả có những hoạt động, hành động gì? - Mặc áo, múa gươm, hành quân. Từ đó giáo viên đặt câu hỏi: ? Mặc áo, múa gươm, hành quân là những từ dùng để chỉ hoạt động của ai? (chỉ người). ? So sánh với cách diễn đạt thứ hai ta thấy cách một có gì hay? - Bầu trời đầy mây đen. - Muôn nghìn cây mía ngả nghiêng. - Kiến bò đầy đường. Học sinh sẽ nhận ra cách 1 làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật gần gũi với con người và biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người. Giáo viên nhấn mạnh tác dụng của phép nhân hoá và cho học sinh tìm phát hiện phép nhân hoá ở các văn bản đã học. II.3. Phương pháp nghiên cứu - kết quả II.3.1. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Cần nghiên cứu chương trình SGK, SGV, tài liệu tham khảo, kế hoạch dạy học, đối tượng học sinh... 2. Phương pháp vấn đáp trò chuyện Dùng các hệ thống câu hỏi trong bài soạn giảng để vấn đáp trò chuyện cùng học sinh, tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ những cảm thụ, cảm nhận qua các tác phẩm văn học. 3. Phương pháp thực nghiệm - áp dụng và đề xuất từ đầu năm kế hoạch tiến hành - Sau 4 tuần làm bài khảo sát, đánh giá tình hình và điều chỉnh, lên kế hoạch tiếp tục tiến hành. II.3.2 Kết quả nghiên cứu Sau thử nghiệm, tôi nhận thấy học sinh lớp 6 dần làm quen với cách học, không còn lúng túng khi soạn bài, trả lời câu hỏi. Cách diễn đạt của các em lưu loát hơn, đặc biệt là những câu hỏi cảm nhận có nhiều em (so với đầu năm) đã mạnh dạn trình bày suy nghĩ. Bài làm (nói - viết) của các em đã mang màu sắc "Văn" hơn là cách trả lời thông thường vụn vặt. Các kỹ năng nghe - nói- đọc - viết được nâng lên rõ rệt. Các câu sai ngữ pháp chỉ còn là số ít. Các em biết lựa chọn đơn vị kiến thức phù hợp với câu trả lời. Năng lực phán đoán ngôn ngữ cũng nhanh nhạy hơn, đọc hiểu nhanh hơn. Đa số học sinh hiểu mục đích đối thoại khi vấn đáp, biết chọn lọc thông tin khi trả lời, định hướng trả lời chính xác hơn, bộc lộ cảm xúc rõ nét hơn, có thái độ học tập nghiêm túc so với đầu năm. Trong các bài viết, các em đã biết vận dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả, kĨ, biết lồng ghép cảm xúc chân thành tự nhiên. iii. kết luận - kiến nghị III.1. Kết luận Tóm lại: Dạy học Văn nói chung và dạy học văn ở học sinh lớp 6 là một việc làm đa dạng, đòi hỏi nhiều thao tác đồng thời, giáo viên phải dày công xây dựng kế hoạch bám sát thực tế học sinh, nghiên cứu kỹ chương trình môn học, có kế hoạch hướng dẫn từ đầu năm. Bên cạnh đó phải kiên trì hướng dẫn các đối tượng học sinh từ trung bình, yếu trở xuống. Khi soạn bài phải dự kiến 2-3 tình huống câu hỏi, cách trả lời. Thường xuyên khảo sát (3-5 phút) để kiểm tra quá trình vận dụng việc thử nghiệm. Với những học sinh có năng khiếu phải kịp thời bồi dưỡng cho đề bài riêng về nhà làm, có câu hỏi cao hơn khi trên lớp, chÂm chữa bài tay đôi để học sinh bộc léc năng khiếu cảm thụ văn học. Giáo viên phải nghiên cứu sưu tầm tài liệu có liên quan, tinh giản các câu hỏi SGK (nhưng không làm mất đi yêu cầu bài học). Thấy cần thiết những ngày đầu năm học phải có hệ thống soạn bài cụ thể với mỗi bài, giao học sinh về nhà soạn, giáo viên kiểm tra, nhận xét, bổ sung tuyên dương, nhắc nhở để các em tự tin, mạnh dạn học tập. Đồng thời giáo viên phải bám sát mục tiêu môn học, cấp học để từng bước đạt được kết quả ở các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết. Phát huy tính s¸g tạo của học sinh. Và cuối cùng là hoàn thành mục tiêu môn học, chuẩn bị cho các em tiếp tục học lên ở các lớp 7, 8, 9 với những yêu cầu cảm thụ cao hơn. Học sinh: - Phải làm theo hướng dẫn của giáo viên bộ môn - Có đủ SGK, vở ghi chép. - Tích cực học tập. - Mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ trong khi học cũng như khi kiểm tra. III.2. Kiến nghị - Tổ chức thường kỳ những hội thảo về phương pháp dạy môn Ngữ văn THCS theo thể loại văn bản để giáo viên có thể định hình phương pháp dạy hiệu quả cao hơn. Đức Chính, ngày 15 tháng 5 năm 2009 Người thực hiện Phạm Thị Phúc iv. tài liệu tham khảo 1. Phân phối chương trình ngữ văn THCS - BGD 2. SGK Ngữ văn lớp 6 tập 1-2 - BGD 3. Một số vấn đề về phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS BGD. 4. Hỏi đáp kiến thức Ngữ văn 6 - NXBGD 2006 5. Một số kiến thức kĩ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 6 của NXBGD 2005. 6. Phân tích - bình giảng tác phẩm Văn học dân gian của NXBGD2003 7. Những bài tập tiếng Việt lý thú - NXBGD 1995. 8. Ôn tập Ngữ văn 6 - NXBGD 2006.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất