Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn nâng cao chất lượng các tiết thực hành môn sinh học lớp 7_2...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng các tiết thực hành môn sinh học lớp 7_2

.DOC
22
135
101

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC TIẾT THỰC HÀNH MÔN SINH HỌC LỚP 7” 1 PHẦN I./ MỞ ĐẦU 1./ HOÀN CẢNH NẢY SINH KINH NGHIỆM: Tháng 10 năm 2007, tôi về nhận công tác tại trường THCS Vinh Thái. Tại đây, tôi được nhà trường phân công dạy môn Sinh học 7. Và tất nhiên với kinh nghiệm gần hai năm giảng dạy ở trường THCS Phú Đa, cùng với lòng đầy nhiệt huyết của giáo viên trẻ mới ra trường và với vốn kiến thức được trường Sư phạm vun đắp, tôi hăm hở làm quen với lớp, với học sinh. Để giúp các em học sinh hiểu bài, hứng thú trong học tập, tôi đã vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của tôi là học sinh còn khá lúng túng trong khâu thực hành. Những tiết thực hành đầu tiên, tôi có cảm giác như tổ ong vỡ: các em nói chuyện ồn ào, dụng cụ thực hành sử dụng tùy tiện, các nhóm được phân công chuẩn bị mẫu vật thì mang không đầy đủ. Các em không biết trong nhóm, mình sẽ phải làm gì? Hiệu quả của các tiết thực hành này khá thấp. Từ đó trong tôi nảy sinh rất nhiều câu hỏi: Tại sao đã học qua một năm lớp 6 ở trường THCS rồi mà kỹ năng thực hành của các em lại yếu như vậy? Mình phải làm gì để khắc phục tình trạng này đây? Phải làm gì để các em coi tiết thực hành như là một cơ hội để các em nghiên cứu, tìm tòi? Phải làm gì để nâng cao chất lượng của một tiết thực hành? Chính vì lẽ đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều để tìm ra phương pháp dạy học tối ưu nhất. Qua rất nhiều tiết thực hành trên lớp, tôi đã rút ra được những bài học nhỏ để từ đó giúp tôi viết nên kinh nghiệm này. 2./ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ GIẢI PHÁP: a./ Cơ sở lí luận: Sinh học nói chung và Động vật học nói riêng là bộ môn khoa học thực nghiệm, nghĩa là từ những điều mắt thấy tai nghe, học sinh sẽ rút ra những kết luận khoa học, từ đó phát triển thành khái niệm đặc thù của bộ môn. Muốn cho học sinh “ tâm phục, khẩu phục” những vấn đề các em được biết trong lý thuyết thì giáo viên phải tạo điều 2 kiện cho các em thực hành. Vậy khi dạy bài thực hành người giáo viên cần phải làm rõ các vấn đề nào? - Trước hết, thực hành phải góp phần hình thành và phát triển các khái niệm. Trong khi học sinh tiến hành thực hành, các em có thể phát hiện các đặc điểm về hình thái, giải phẫu, cũng như các chức năng. Sự phát hiện đó có ý nghĩa củng cố những dấu hiệu của khái niệm đã được nghiên cứu trong phần lý thuyết, có khi là những dấu hiệu mới chưa đề cập đến. - Thực hành là cơ hội để rèn luyện các kỹ năng của bộ môn, góp phần hình thành kỹ năng nghiên cứu khoa học. Qua thực hành, học sinh được rèn luyện để sử dụng thành thạo các phương tiện thí nghiệm như kính lúp, kính hiển vi, bộ đồ mổ…, biết mổ và quan sát cấu tạo của các động vật điển hình; tập tổ chức các thí nghiệm nghiên cứu hoạt động sống của động vật, biết vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống…, góp phần giáo dục kỹ thuật hướng nghiệp cho các em. - Thực hành còn có ý nghĩa phát huy vai trò chủ động trong học tập, rèn luyện trí thông minh, bồi dưỡng năng lực tư duy cho học sinh. Trong khi thực hành, học sinh được tự mình nghiên cứu khảo sát động vật, tự lực tổ chức và quan sát kết quả thí nghiệm, vì vậy có ý nghĩa tăng cường tính tự lực cho học sinh. Mặt khác, học sinh phải rèn luyện các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp… nên có tác dụng bồi dưỡng trí thông minh. - Thực hành còn có ý nghĩa gây hứng thú học tập bộ môn, tạo sự ham muốn nghiên cứu khoa học. - Ngoài ra nhiều sản phẩm thực hành sẽ được bổ sung cho phòng thí nghiệm góp phần làm phong phú thêm đồ dùng dạy học. b./ Giải pháp: Để dạy một bài thực hành hiệu quả, giáo viên cần thực hiện các bước sau: 3 - Giáo viên cần xác định rõ tiết thực hành mình dạy thuộc loại bài thực hành nào, từ đó phát huy ưu điểm và hạn chế khuyết điểm của từng loại bài thực hành này. - Để tiết thực hành thành công, thì khâu chuẩn bị đóng vai trò cực kì quan trọng, giáo viên cần cụ thể hóa nhiệm vụ của thầy và trò để chuẩn bị cho tốt, từ chuẩn bị mẫu vật đến chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm thực hành…. - Và cuối cùng là các bước tiến hành giờ thực hành phải theo một quy trình hợp lý, nghiêm túc, gồm các khâu: + Ổn định tổ chức lớp + Giáo viên giới thiệu mục tiêu, hướng dẫn thao tác thực hành + Học sinh tiến hành thực hành + Tổng kết, đánh giá tiết thực hành. 3./ PHẠM VI CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐƯA RA: 3.1. PHẠM VI CÁC YÊU CẦU: - Lớp học không quá đông, khoảng 24 học sinh. - Dụng cụ thực hành đầy đủ. - Cần chú ý đặc điểm hoạt động theo mùa của động vật để có kế hoạch chủ động chuẩn bị mẫu vật. - Để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng cho mọi học sinh, cần cố gắng thực hành theo nhóm nhỏ, cố định trong cả năm học để có thể quay vòng nhiệm vụ của các thành viên trong nhóm qua các tiết thực hành khác nhau. - Trong quá trình học sinh tiến hành thực hành, giáo viên nên yêu cầu các em cất gọn sách vở, đồ dùng học tập, tránh để bừa bãi lên bàn. - Cần chú ý phân phối thời gian cho các hoạt động thực hành hợp lí để đảm bảo học sinh làm hết nội dung thực hành. Muốn vậy, người giáo viên cần làm thử, định 4 được thời gian của từng hoạt động, trên cơ sở đó khi thực hành trên lớp, giáo viên theo dõi thời gian để nhắc nhở học sinh thực hiện. - Yêu cầu học sinh trong báo cáo tường trình kết qủa, nhất thiết phải vẽ hình và chú thích đầy đủ. Để giúp học sinh làm quen với hoạt động này, giáo viên nên vẽ mẫu trên bảng cho học sinh quan sát ở những bài đầu, đồng thời hướng dẫn những yêu cầu của hình vẽ như : + Hình vẽ phải trung thực, đúng với những quan sát trên mẫu vật thật. + Vẽ bằng bút chì đen, vót nhọn, cố gắng đảm bảo nét chì thanh gọn, không dùng bút màu. + Hình vẽ đúng với tỉ lệ các bộ phận, các cơ quan của mẫu vật. + Chú thích hình vẽ cũng bằng bút chì. Các đường ghi chú thích vào các bộ phận phải dùng thước kẻ song song nhau, không chồng chéo lên nhau, mũi tên chỉ vào các cơ quan. Nếu nhiều bộ phận cần chú thích, có thể đánh số 1, 2, 3...và ghi chú thích vào dưới hình vẽ sao cho ngay ngắn, đảm bảo hình vẽ sáng sủa, đẹp. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP ĐƯA RA: a) Xác định loại bài thực hành: Thông thường căn cứ vào nội dung, tính chất của các hoạt động thực hành, giáo viên có thể phân chia thành hai dạng bài thực hành như sau: a.1/ Bài thực hành quan sát: Là loại bài thực hành giúp học sinh phát hiện kiến thức mới. Nó được tiến hành đối với các nội dung mà học sinh chưa thấy, chưa biết. Loại bài thực hành này thường được thực hiện trong các giờ lên lớp các bài lý thuyết kiểu thực hành. Đối với loại bài thực hành này, giáo viên cần hướng dẫn từng bước các thao tác thực hành, hướng dẫn đến đâu học sinh làm theo đến đó và được thực hiện theo từng 5 nội dung riêng biệt, sau mỗi nội dung, hướng dẫn cho học sinh rút ra kết luận khoa học. Ví dụ: Tìm hiểu cấu tạo ngoài và di chuyển của tôm sông. a.2/ Bài thực hành củng cố, minh họa: Là loại bài thực hành được thực hiện khi học sinh đã có vốn kiến thức lí thuyết. Trong chương trình, các bài thực hành đều bố trí ở cuối chương. Như vậy, các tiết thực hành này đều nhằm giúp học sinh củng cố và kiểm chứng những kiến thức đã học. Dạng bài thực hành này không kích thích được tính ham muốn tìm tòi cho học sinh, tính chủ động, sáng tạo trong tiếp thu tri thức của học sinh bị hạn chế. Do đó, giáo viên cần thiết kế bài thực hành thật sinh động, khuyến khích học sinh ham muốn thực hành. Ví dụ: thực hành quan sát một số thân mềm b) Chuẩn bị: Việc chuẩn bị chu đáo cho giờ thực hành có ý nghĩa quyết định sự thành công của bài giảng. Trong khâu chuẩn bị cần phối hợp sự chuẩn bị của cả thầy và trò. Học sinh tham gia chuẩn bị thực hành có ý nghĩa giáo dục ý thức trách nhiệm đồng thời cũng giảm nhẹ công việc của giáo viên, nhất là chuẩn bị vật mẫu. Trong khi sưu tầm mẫu vật, học sinh có điều kiện tìm hiểu đời sống, sự hoạt động của động vật, sơ bộ quan sát đặc điểm hình thái của động vật nên khi bước vào thực hành ít bị bỡ ngỡ. b1. Những công việc chuẩn bị của học sinh bao gồm : - Chuẩn bị vật mẫu: Nêu cụ thể số lượng, quy cách vật mẫu cho từng nhóm hoặc từng cá nhân. 6 Ví dụ : để chuẩn bị cho bài thực hành : Quan sát một số thân mềm, giáo viên yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị mẫu vật là con trai sông sống, con ốc sên, mai mực....Giáo viên cũng yêu cầu các em chuẩn bị mẫu vật phải tươi sống, nguyên vẹn, đồng thời quan sát cấu tạo ngoài cũng như cách di chuyển của trai sông, ốc sên, mực (đối với học sinh ở vùng biển). - Chuẩn bị phương tiện thực hành : Một số dụng cụ phục vụ cho thực hành không đòi hỏi chuẩn bị ở mức cao và tương đối phổ biến, có thể giao cho học sinh chuẩn bị như chậu nuôi, bẹ chuối hoặc tấm xốp (để ghim mẫu), dao mỏng... Cũng cần quy định rõ số lượng cần chuẩn bị của từng nhóm, từng học sinh. Ví dụ ở tiết thực hành trên, giáo viên yêu cầu các em phải nuôi trai sông, ốc sên trong lọ thuỷ tinh lớn không đạy nắp thì mới có thể quan sát được hình thái, di chuyển của chúng, mỗi nhóm (4 học sinh) cần chuẩn bị 1 tấm xốp sạch, 1 con dao mỏng... - Một số nội dung có thể thực hiện trước ở nhà với vật mẫu như quan sát hình thái ngoài, tổ chức nghiên cứu các hoạt động sinh lí (như hoạt động đảo đất của giun đất, xác định vai trò của các loại vây cá, gây phản xạ có điều kiện...) cũng nên giao cho học sinh chuẩn bị để khi nên lớp có kết quả báo cáo trước lớp. b2. Về phía giáo viên cần chuẩn bị : - Giáo án : xác định rõ mục tiêu, các nội dung cần tiến hành trong giờ thực hành, cách hướng dẫn các thao tác thực hành khi thiết kế giáo án. - Vật mẫu: Tuy đã giao cho học sinh chuẩn bị, nhưng giáo viên cần chuẩn bị dự phòng trong trường hợp học sinh không chuẩn bị được. Tôi còn nhớ rất rõ tiết thực hành 21 : (Quan sát một số thân mềm) ở lớp 7/3 năm học 2008 – 2009, tôi đã phân công học sinh chuẩn bị rất cụ thể, rõ ràng, nhưng không hiểu lí do gì mà khi tôi mời các nhóm đặt mẫu vật lên bàn để giáo viên kiểm tra thì chỉ có một số em mang mấy con ốc sên, còn lại không chuẩn bị. Nếu như tiết đó, tôi cứ chủ quan, không mang các mẫu vật đầy đủ thì có lẽ tiết thực hành đó không thể tiến hành được. Ngoài ra, giáo 7 viên nên chuẩn bị các tiêu bản, mẫu mổ trước khi thực hành để học sinh có điều kiện đối chiếu, so sánh mẫu của mình với của thầy, ví dụ : giáo viên có thể mổ sẵn 6 con tôm lớn ngâm chìm trong nước trước ở nhà để phát cho 6 nhóm khi các nhóm hoàn thành xong khâu mổ ( bài thực hành : mổ và quan sát tôm sông ) .Các tranh vẽ liên quan tới bài thực hành cũng cần được bổ sung giúp học sinh dễ dàng xác định các bộ phận, các cơ quan quan sát được trên mẫu vật của các em. - Dụng cụ thực hành cho học sinh làm việc : như bộ đồ mổ, khay mổ, kính lúp, kính hiển vi, chậu nuôi...phải đầy đủ, hiệu quả. - Dự kiến chia nhóm học sinh: Mỗi nhóm khoảng 4 em, việc chia nhóm nên làm ngay từ bài thực hành đầu tiên và cố định trong suốt quá trình học để tạo điều kiện cho học sinh quay vòng trong các bài thực hành.( Giáo viên cần lưu ý chia nhóm càng nhỏ càng tốt để giúp tất cả học sinh có điều kiện thực hành như nhau, đồng thời tránh ồn ào, lộn xộn). Ở mỗi nhóm, cần xác định nhiệm vụ cụ thể của từng thành viên trong nhóm. Chẳng hạn, với nhóm có 4 học sinh, được phân công như sau : +Học sinh 1 : Sắp xếp dụng cụ ; lắp đặt thí nghiệm để cả nhóm tiến hành ; quan sát phân tích đặc điểm cấu tạo ngoài ; vẽ hình. + Học sinh 2 : Thực hiện mổ động vật ; hướng dẫn cả nhóm quan sát cấu tạo trong. + Học sinh 3 : Giúp đỡ học sinh 2 ; lau chùi, vệ sinh dụng cụ, vệ sinh nơi làm việc. + Học sinh 4 : Thư kí nhóm, ghi chép nội dung thực hành và những ý kiến trả lời của nhóm về những vấn đề do giáo viên đặt ra. Ở các bài thực hành tiếp theo nhiệm vụ của các học sinh được thay đổi học sinh 1 làm nhiệm vụ 4, học sinh 2 làm nhiệm vụ 1, học sinh 3 làm nhiệm vụ 2, học sinh 4 làm nhiệm vụ 3. Cứ thế xoay vòng sao cho kết thúc chương trình, học sinh nào cũng được tham gia đầy đủ các hoạt động của bài thực hành. c) Tiến hành giờ thực hành : 8 Giờ thực hành được thực hiện theo quy trình sau : 1. Ổn định tổ chức lớp : bố trí chỗ ngồi, phân phát dụng cụ và mẫu vật, kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh. Hoạt động này được khẩn trương trong vòng khoảng 2 – 3 phút. 2. Giáo viên giới thiệu mục tiêu của bài thực hành, hướng dẫn thao tác thực hành. Khi giới thiệu các thao tác cần ngắn gọn trong khoảng 5 – 7 phút, vì vậy cần chuẩn bị kỹ có thể ghi tóm tắt các bước tiến hành quan sát và mổ, sơ đồ giới thiệu phương pháp mổ ... trên bảng phụ hoặc giấy trong (dùng đèn chiếu) để không mất thời gian ghi bảng, đồng thời giúp học sinh dễ nắm bắt được trình tự các thao tác khi tiến hành thực hành. Việc hướng dẫn nội dung quan sát cũng cần suy nghĩ sắp xếp hoàn, chỉnh hợp lí để tiết kiệm mẫu, đồng thời xác định hệ thống câu hỏi hướng học sinh vào hoạt động quan sát kết hợp với suy nghĩ tìm lời giải thích hợp. Ví dụ : hoạt động mổ và quan sát cấu tạo trong của giun đất nên thực hiện quan sát lần lượt các cơ quan sau : + Hệ tiêu hóa : xác định hình dạng các phần của ống tiêu hóa. Đặc điểm của ruột ở giun thể hiện đặc điểm quan trọng nào của ngành Giun đốt ?(Phân đốt). + Hệ tuần hoàn : xác định các mạch máu lưng, mạch bụng, mạch trên ruột, tim bên. Tim bên có chức năng gì ? Sự vận động máu trong các mạch theo chiều nào ? Sau khi quan sát xong hai hệ cơ quan đó mới tiến hành quan sát hệ thần kinh và hệ sinh dục. 3. Học sinh tiến hành thực hành. Đây là hoạt động chủ yếu của giờ thực hành. Nếu bài thực hành quy định một tiết thì thời gian dành cho hoạt động này từ 25 đến 30 phút. Hoạt động thực hành có thể hai nội dung : + Học sinh báo cáo kết quả quan sát, thí nghiệm ở nhà. 9 + Học sinh thực hành mổ hoặc thí nghiệm quan sát cấu tạo trong. Vẽ hình, làm báo cáo tường trình. Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên thường xuyên theo dõi sự làm việc của các nhóm, nhắc nhở những em chưa cố gắng, động viên khích lệ những học sinh làm tốt uốn nắn sửa chữa những thao tác chưa chính xác. Cũng có thể đến từng nhóm lắng nghe sư trao đổi của học sinh về những vấn đề do giáo viên đặt ra hoặc trả lời những thắc mắc của học sinh nảy sinh trong quá trình thưc hành. Học sinh làm báo cáo tường trình gồm hình vẽ và trả lời câu hỏi. 4. Tổng kết đánh giá thực hành : thời gian khoảng 5-10 phút bao gồm các công việc : + Phân tích kết quả thí nghiệm, nhắc nhở rút kinh nghiệm về thao tác chưa chính xác, giải đáp thắc mắc nảy sinh trong thực hành. + Nhận xét biểu dương các cá nhân, nhóm làm tốt, có thể giáo viên cho điểm khuyến khích, nhắc nhở những học sinh chưa cố gắng trong chuẩn bị mẫu, trong thực hành. + Thu báo cáo tường trình. + Thu dọn dụng cụ, mẫu vật và vệ sinh phòng học. 10 PHẦN II. NỘI DUNG I. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP: Với kinh nghiệm dạy bài thực hành Sinh 7 trên, tôi đã áp dụng cho các tiết thực hành ở các lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy trong những năm học gần đây. Thực tế nhất là kinh nghiệm trên được thể hiện trong tiết thi Giáo viên dạy giỏi cấp huyện năm học 2008 – 2009, ở lớp 72, trường THCS XXX với nội dung bài dạy :‘Thực hành : Quan sát một số thân mềm’. Tiết học đó, tôi đã hướng dẫn học sinh tiến hành các bước như sau : 1. Ổn định tổ chức lớp : - Tôi chia lớp học 24 em ra thành 6 nhóm nhỏ, mỗi nhóm gồm 4 em quay mặt vào nhau, bố trí chỗ ngồi cho các nhóm. - Kiểm tra sự chuẩn bị của các nhóm : các nhóm trưởng báo cáo sự chuẩn bị của nhóm mình, giáo viên nhận xét sự chuẩn bị của cả lớp. - Giáo viên phát dụng cụ thực hành và mẫu vật cho các nhóm, lưu ý học sinh khi sử dụng dụng cụ thực hành phải hết sức cẩn thận, an toàn. 2. Giáo viên giới thiệu mục tiêu bài thực hành, hướng dẫn thao tác thực hành : - Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, xác định mục tiêu của bài thực hành. - Giáo viên treo bảng phụ ghi mục tiêu của bài thực hành, gọi 1 học sinh đứng dậy đọc to cho cả lớp cùng nắm vững. - Sau khi học sinh xác định được mục tiêu, giáo viên phát Phiếu báo cáo thực hành cho các nhóm. Phiếu báo cáo thực hành là các hình câm chưa chú thích, từ hình 20.1 đến hình 20.6 trong sách giáo khoa và bảng thu hoạch. 11 Giáo viên áp dụng công nghệ thông tin, có thể scan các hình này lên phiếu cho các nhóm chú thích trực tiếp lên các hình trên phiếu, nếu có điều kiện giáo viên in màu thì Phiếu báo cáo thực hành sẽ có hiệu quả cao hơn. PHIẾU BÁO CÁO THỰC HÀNH TRƯỜNG :.................................... LỚP :.............................................. THỰC HÀNH Quan sát một số động vật thân mềm TÊN HỌC SINH TRONG NHÓM : ......................................................... Điểm thực hành Lời phê của Giao viên 1. Quan sát các hình vẽ, đối chiếu với mẫu vật thật để nhận biết các bộ phận và ghi chú thích bằng số vào hình A. Cấu tạo vỏ 12 B. Cấu tạo ngoài C. Cấu tạo trong 13 2. Quan sát mẫu vật, đối chiếu với tài liệu sách giáo khoa, hoàn thành bảng sau : BẢNG THU HOẠCH STT Đặc điểm cần quan sát 1 Số lớp cấu tạo vỏ 2 Số chân ( hay tua ) 3 Số mắt 4 Có giác bám 5 Có lông trên tua miệng 6 Dạ dày, ruột, gan, túi Ốc Trai Mực mực 3.Học sinh tiến hành thực hành *Quan sát cấu tạo vỏ : - Giáo viên dán tranh phóng to H. 20.1. H. 20.2, H. 20.3 lên bảng. 14 - Yêu cầu các nhóm quan sát mẫu vật thật, đối chiếu với hình vẽ, nhận biết các bộ phận và ghi chú thích vào các hình trên trong phiếu thực hành. - Gọi đại diện nhóm 1 cầm phiếu thực hành lên điền chú thích các hình trên bảng  yêu cầu các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Mời đại diện nhóm 2 lên xác định các bộ phận cần chú thích trên mẫu vật thật  yêu cầu các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Giáo viên yêu cầu học sinh nêu sự khác nhau về cấu tạo giữa vỏ trai, vỏ ốc với mai mực ? vì sao ở mực, vỏ đá vôi tiêu giảm thành mai ? *Quan sát cấu tạo ngoài : - Giáo viên dán tranh phóng to hình 20.4, hình 20.5 lên bảng - Yêu cầu học sinh quan sát mẫu vật thật, đối chiếu với hình vẽ,nhận biết các bộ phận và ghi chú thích vào hình trên phiếu thực hành. - Yêu cầu đại diện nhóm 3 lên gắn các chú thích bằng số vào hình trên bảng  các nhóm khác nhận xét, bổ sung. 15 - Yêu cầu đại diện nhóm 4 lên xác định các bộ phận trên mẫu vật thật  các nhóm khác nhận xét, bổ sung. *Quan sát cấu tạo trong : - Để thực hiện tốt phần này, giáo viên phải chuẩn bị sẵn 6 mẫu mổ của mực, ngâm chìm trong nước cho học sinh quan sát. - Giáo viên yêu cầu các nhóm đặt khay nước có mẫu mực mổ sẵn lên bàn và xác định cấu tạo trong của mực. - Giáo viên dán tranh phóng to hình 20.6 lên bảng. 16 - Yêu cầu học sinh quan sát mẫu vật thật, đối chiếu với hình vẽ về cấu tạo trong của mực, nhận biết các bộ phận và ghi số vào các ô trống sao cho tương ứng với vị trí trên hình vẽ. - Gọi đại diện nhóm 5 lên điền số tương ứng trên tranh  các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Gọi đại diện nhóm 6 lên trình bày các bộ phận trên mẫu vật thật  các nhóm khác nhận xét, bổ sung. 4. Thu hoạch : - Giáo viên yêu cầu các nhóm hoàn chỉnh chú thích ở các hình 20.1, 2, 3, 4, 5, 6. - Các nhóm thảo luận hoàn thành bảng thu hoạch (trong phiếu thực hành). - Giáo viên thu phiếu báo cáo thực hành. 17 - Giáo viên treo bảng thu hoạch (được kẻ trên bảng phụ), yêu cầu các nhóm lên điền kết quả quan sát được vào bảng  yêu cầu cả lớp cùng nhận xét, bổ sung. - Giáo viên chốt đáp án đúng. 5. Tổng kết, đánh giá buổi thực hành : - Giáo viên đánh giá phiếu báo cáo thực hành của các nhóm. - Giáo viên nhận xét tinh thần, thái độ làm việc của các nhóm. Tuyên dương, cho điểm các nhóm, các cá nhân làm tốt ; nhắc nhở các nhóm, các cá nhân làm chưa nghiêm túc, chưa tốt. - Các nhóm tiến hành thu dọn mẫu vật, lau chùi dụng cụ, làm vệ sinh phòng học sạch sẽ. 6. Dặn dò : - Sưu tầm tài liệu nói về vai trò của thân mềm, các vật trang trí, trang sức làm từ vỏ ốc, vỏ sò. - Kẻ sẵn bảng 1, 2 trang 72 vào vở bài tập. * Các phương pháp sử dụng : Giao viên sử dụng kết hợp phương pháp thí nghiệm thực hành với phương pháp trực quan và phương pháp đàm thoại. * Các biện pháp xử lí : giáo viên cần dự kiến một số tình huống có thể xảy ra trong quá trình thực hành để có biện pháp xử lý kịp thời, phù hợp. - Tình huống 1 : học sinh không chuẩn bị mẫu vật đầy đủ. Giáo viên cần dự kiến số nhóm trong lớp để chuẩn bị mẫu vật dự trù, dự phòng trường hợp họ sinh không chuẩn bị kịp. - Tình huống 2 : Học sinh làm mất, làm hỏng dụng cụ thí nghiệm : 18 Khi chuẩn bị dụng cụ thực hành cho học sinh, giáo viên cần chuẩn bị dư ra một số bộ, phòng trường hợp học sinh làm hỏng, mất dụng cụ, thì giáo viên sẽ phát kịp thời. - Tình huống 3 : những nhóm có học sinh yếu kém, chưa thực hiện tốt các thao tác thực hành, giáo viên cần thường xuyên đi đến những nhóm này để hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời cho các em, để các em luôn có cảm giác không bị bỏ rơi, từ đó hứng thú thực hành hơn. III./ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA KINH NGHIỆM: Qua ba năm (2007 – 2008 ; 2008 – 2009 ; 2009 – 2010 ) và năm học này (2010 – 2011) áp dụng kinh nghiệm trên trong giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh có sự chuyển biến rõ rệt như sau : - Học sinh ngày càng hứng thú trong học tập, yêu thích bộ môn Sinh vật hơn. - Các em hiểu và nắm vững các khái niệm sinh học trong chương trình. - Biết sử dụng thành thạo các phương tiện thí nghiệm thực hành, tự tin, nghiêm túc, cẩn thận trong nghiên cứu động vật. - Tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng cao, tỉ lệ học sinh yếu kém giảm, tỉ lệ học sinh trên trung bình tăng hằng năm. Cụ thể như sau : 19 THỐNG KÊ KẾT QUẢ HỌC TẬP ĐẠT ĐƯỢC Ở HỌC SINH TRONG CÁC NĂM HỌC QUA Năm Số Học HS Giỏi S % Khá Yếu Kém Trên TB % SL % SL % SL % SL % 06- 169 24 14, 32 18, 50 29, 47 27, 16 9,5 106 62, 07 2 07- 171 27 15, 36 21, 08 8 08- 128 21 16, 31 24, 09 4 L 09- 89 10 L 82 11 9 60 50 34 39, 37 41, 20 30, 14 8,2 123 15, 10 11, 6 4,7 102 6,1 79, 7 2 2,2 77 2 5 71, 9 6 6 25 19, 7 8 1 0 8 35, 8 1 2 21 25, 31 37, 6 6 1 16 18, 24 27, 0 10- S TB 86, 5 0 5 0 77 93, 9 (HK 1) Ngoài ra, thông qua các buổi thao giảng chuyên đề hay dự giờ góp ý, một số giáo viên trong tổ Sinh cũng áp dụng phương pháp dạy trên và đạt hiệu quả rất cao, góp phần đưa chất lượng bộ môn của nhà trường từng bước đi lên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất