SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN
LỊCH SỬ THPT”
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nội dung các khóa trình Lịch sử ở trường Trung học phổ thông là cung cấp cho
học sinh những vốn hiểu biết phổ thông, cơ bản vững chắc về sự phát triển của xã hội
loài người và dân tộc, làm cơ sở để rút ra những kết luận khoa học về các quy luật vận
động, phát triển của xã hội; rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử bổ ích. Giúp cho
học sinh nhận thức đúng con đường loài người đã, đang và sẽ tiếp tục trải qua. Trên cơ
sở đó giúp học sinh dần hình thành thế giới quan khoa học, góp phần tích cực vào việc
giáo dục đạo đức, niềm tin, truyền thống của dân tộc.
Để dạy và học tốt môn Lịch sử ở hệ trung học phổ thông, giúp học sinh yêu thích
môn học thật sự là công việc rất khó khăn. Trong khi sách giáo khoa Lịch sử còn nhiều
chổ bất cập, kiến thức sai, diễn đạt dài dòng, nhiều sự sự kiện trong một tiết học. Học
sinh ngày càng không quan tâm đến môn học...
Theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo về việc dạy học khối THPT là tích
cực phát huy tính tự giác, khả năng sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp cận
kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đồng thời đối với trường chuyên phải
nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi. Hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu khoa
học, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ phù hợp với điều kiện của trường
và tâm sinh lý học sinh. Đây là một quá trình có thể nói là sự tương tác mang tính tích
cực giữa thầy và trò trong quá trình dạy và học.
Cho đến nay, trên khắp cả nước, việc dạy học ở trường THPT chuyên vẫn
mang nặng yếu tố truyền thống trong nền giáo dục Việt Nam. Học sinh vẫn bị động
trong quá trình tiếp cận kiến thức. Dạy học nhằm phát huy tính chủ động, tích cực lấy
“học sinh làm trung tâm” vẫn chưa được đẩy mạnh, hiệu quả thực hiện còn thấp. Dẫn
đến trình độ của giáo viên, chất lượng học sinh không được nâng cao.
Kết quả kỳ thi tốt nghiệp môn Lịch sử, kỳ thi tuyển sinh đại học, các kỳ thi học
sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia nhiều năm cho thấy chất lượng môn Lịch sử có
nhiều biểu hiện giảm sút. Học sinh chưa nhận thức đúng đắn về môn học. Hầu hết học
sinh đều quan niệm học lịch sử chỉ cần học thuộc lòng; chuẩn bị cho kỳ thi chỉ là nhồi
nhét kiến thức, học tủ, học vẹt ...
Từ năm học 1996-1997, Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định hàng năm đều tổ
chức cho học sinh THPT thi học sinh giỏi môn lịch sử. Nó thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước- Bộ Giáo dục về tác dụng của môn lịch sử trong việc bồi dưỡng, giáo dục thế
hệ trẻ. Vậy, bằng cách nào để học giỏi và trở thành học sinh giỏi môn lịch sử. Biện
pháp, phương pháp nào giúp các em đạt được điều mong ước đó?
Từ những căn cứ trên, thì việc dạy học- đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi, tài
năng môn Lịch sử đóng một vai trò hết sức quan trọng. Do đó việc tiếp tục tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác dạy học đặc thù này là hết sức cần
thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử khối
trung học phổ thông chuyên” làm sáng kiến kinh nghiệm năm 2011.
1. Lịch sử vấn đề
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu phương pháp dạy học Lịch sử
được chú trọng quan tâm. Tại Đại hội của các nhà sử học trên thế giới do Ủy ban
Quốc tế khoa học Lịch sử tổ chức đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả, chuyên gia
nghiên cứu, giảng dạy có uy tín trên nhiều nước.
Tại Đại hội lần thứ XV năm 1980, tiểu ban Giáo dục lịch sử đã thảo luận sôi nổi
vấn đề: “Ý nghĩa của việc dạy học lịch sử đối với việc hình thành con người thế kỷ
XX”. Hầu hết họ đều cho rằng, trong thời đại cách mạng khoa học- kĩ thuật, bộ môn
lịch sử ở trường phổ thông không những vẫn giữ nguyên, mà còn cần phải tăng thêm
vị trí cho nó. Trên quan điểm đó, nhà sử học Xô viết Pausutô khẳng định: “Muốn
đào tạo con người phù hợp với thời đại chúng ta, cần phải không ngừng cải tiến và
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật, sự hứng thú,
hấp dẫn ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm bớt sự chú ý của chúng ta
đối với việc dạy học lịch sử. Chính lịch sử là bằng chứng hiển nhiên về sự toàn thắng
của công cuộc xây dựng, sáng tạo đối với sự tàn phá, chiến thắng của hòa bình đối với
chiến tranh, sự gần gủi, hiểu biết của các dân tộc về văn học và các mặt khác, khắc
phục tình trạng biệt lập”. {7; 18}
Đồng thời, UNESCO cũng công bố nhiều tài liệu về Phương pháp dạy học lịch
sử như: Sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử, sử dụng các phương tiện kĩ thuật
hiện đại, đặc biệt là phương tiện nghe nhìn... đây là cơ hội để nhà nghiên cứu, nhà giáo
dục lịch sử có điều kiện học tập, trao đổi lẫn nhau.
Ở Việt Nam, phải từ sau năm 1975 thì việc nghiên cứu các phương pháp, biện
pháp dạy học lịch sử mới phát triển khá mạnh mẽ. Trên các tạp chí của ngành giáo dục:
Tạp chí nghiên cứu giáo dục, Tập san phổ thông cấp II, cấp III, Thông báo khoa học
của các trường Đại học Sư phạm đã công bố nhiều luận văn, bài viết có giá trị cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Nhà Xuất bản Giáo dục, các trường đại học sư phạm cũng phát hành
nhiều tài liệu đề cập một cách có hệ thống các vấn đề về biện pháp, phương pháp dạy
học, nâng cao chất lượng môn lịch sử: Vị trí của dạy học lịch sử ở trường phổ thông,
Gây hứng thú học tập lịch sử, Phương pháp học tập lịch sử, Sử dụng tài liệu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử, Công tác ngoại khóa, thực hành môn lịch sử ở
trường phổ thông, Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử...
Gần đây, tháng 2 năm 1997 Vụ Trung học phổ thông ban hành tài liệu Tập huấn
giảng dạy môn lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và giáo viên chuẩn bị cho học sinh
tham gia kỳ thi quốc gia. Giáo sư Phan Ngọc Liên đã có bài viết dài tới 23 trang:
“Một số vấn đề phương pháp bồi dưỡng học sinh học giỏi môn lịch sử ở trường
THPT” đầy bổ ích. Trong bài viết này, Giáo sư đã đề cập đến hai điểm: Cần nhận
thức đúng về học tập lịch sử; xác định phương pháp học tập giỏi môn lịch sử, với
các biện pháp, con đường, phương tiện có hiệu quả cao.
Năm 1999, Hội giáo dục lịch sử (thuộc Hội khoa học lịch sử Việt Nam)Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm hà Nội) đã cho ra mắt bạn đọc tác phẩm của tập
thể tác giả: Nguyễn Thị Côi, Trần Bá Đệ, Nguyễn Tiến Hỷ, Đặng Thanh Toán, Trịnh
Tùng: “Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn lịch sử” dày 428 trang. Cuốn sách giúp
học sinh học tập, ôn thi môn lịch sử đạt kết quả tốt nhất nhờ tính chủ động, sáng tạo
và những phương pháp học tập thích hợp.
Đến năm 2003, Hội giáo dục Lịch sử, Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm Hà
Nội tiếp tục cho tái bản lần thứ 3 quyển sách: “Hướng dẫn thi đại học- cao đẳng
môn lịch sử” dày 474 trang của tập thể tác giả do PGS. TS Trần Bá Đệ (chủ biên).
Trong lời nói đầu, các tác giả đã khẳng định: “xuất phát từ nhận thức đúng về bộ
môn, từ yêu cầu xác định những kiến thức cơ bản của các kháo trình lịch sử Việt Nam
và Lịch sử thế giới, lựa chọn phương pháp học tập, ôn và làm bài có hiệu quả, phù hợp
với yêu cầu học tập và ôn thi (tốt nghiệp, thi học sinh giỏi quốc gia, tuyển sinh các
trường Đại học Cao đẳng. Chúng tôi không đặt cho mình nhiệm vụ hướng dẫn học
sinh nắm chắc các đề thi cụ thể, mà trang bị cho các em những kiến thức và phương
pháp cơ bản có thể ứng phó với mọi “tình hướng có vấn đề” trong các kỳ thi”. {9 ;
tr3}.
2. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu
2.1. Nhiệm vụ
Trình bày một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.
Nêu, phân tích khả năng ứng dụng của từng biện pháp cho từng kiểu bài, đề tài
lên lớp, cũng như một số biện pháp nhằm nâng chất lượng giáo viên trực tiếp giảng
dạy.
2.2. Mục tiêu
Góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử khối
THPT chuyên.
Giúp cấp quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh nhận thức đúng đắn vai trò của
môn Lịch sử trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở đó có cách thức quản lý,
dạy - học sao cho hiệu quả nhất.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm là việc tìm ra, vận dụng một
số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong khối THPT chuyên.
Những biện pháp này sẽ được ứng dụng cho từng bài học, kiểu bài lên lớp và
bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cho khối THPT chuyên trên đất nước
Việt Nam hệ ba năm. Cơ sở để đưa ra giải pháp là thực trạng dạy - học, thi cử môn lịch
sử hiện nay, chương trình sách giáo khoa lịch sử cơ bản, sách giáo viên khối 10, 11,
12 và một số tài liệu tham khảo khác.
4. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm lần đầu tiên đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, tài năng.
- Đây là một trong những sáng kiến đầu tiên trong việc đưa ra các biện pháp giúp các
trường Trung học phổ thông chuyên trên khắp cả nước có kế hoạch xây dựng chương
trình bồi dưỡng, dạy học sinh giỏi sao cho có hiệu quả nhất.
- Sáng kiến kinh nghiệm nêu lên quan điểm cần mạnh dạn cho phép học sinh được
tham gia nghiên cứu các công trình khoa học với thầy cô giáo; cần dạy học sinh
phương pháp học tập tích cực trước khi cung cấp kiến thức, giáo viên cần đưa ra
những quan điểm mới, nội dung khó mà từ trước tới nay giới sử học trong và ngoài
nước còn đang tranh luận để các em nhận định, đánh giá; quá trình dạy học chính
là quá trình rèn luyện về năng lực tư duy, phẩm chất đạo đức, chính trị cho học
sinh. Tránh những quan điểm của một số trường Trung học phổ thông chuyên bồi
dưỡng học sinh giỏi cốt chỉ đi thi giành giải cao.
- Ngoài ra, đây còn có thể là tài liệu cho các trường THPT chuyên và giáo viên mới ra
trường ít có kinh nghiệm giảng dạy, nhất là khi lại được giao đảm nhiệm việc bồi
dươngc học sinh giỏi, tài năng.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ
1.1. Chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên khối 10, 11, 12
1.1.1 Chương trình sách giáo khoa lớp 10
* Về hệ thống kiến thức khối 10
Trong phần giới thiệu "mục tiêu chương trình giảng dạy lịch sử lớp 10" các tác
giả viết: Lịch sử thế giới được đưa vào giảng dạy ở lớp 10 với yêu cầu chung là cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và tương đối hệ thống là ba thời kỳ lịch sử
thế giới: Thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung đại và để thuận tiện
cho việc xắp xếp chương trình lịch sử toàn cấp, lịch sử lớp 10 cßn có thêm" giai
đoạn đầu của thời Cận đại" ( điều này không khớp với nội dung chương trình SGK
lịch sử lớp 10). ở đây các tác giả không chỉ trình bày "Thời kỳ cách mạng tư sản và
bước phát triển của chủ nghĩa tư bản" mà cßn giới thiệu quá trình các nước tư bản chủ
nghĩa chuyển sang giai đoạn đế quốc, cũng như "Phong trào công nhân thế giới cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XIX". Như vậy, các tác giả đã trình bày gần như hầu hết phần
lịch sử thế giới Cận đại. Thế mà ở mục "về kiến thức" tiếp đó lại viết: "Giúp cho học
sinh có hiểu biết ... về 3/4 thời kỳ lịch sử căn bản của loài người ...! Nếu tách xã hội
nguyên thuỷ thành một thời kỳ lịch sử, thì loài người trải qua 5 thời kỳ lịch sử căn
bản: Thời kỳ nguyên thuỷ, thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung đại, thời kỳ cận đại và thời
kỳ hiện đại. Trong thực tế SGK đã giới thiệu bao gồm 4/5 thời kỳ lịch sử, vì vậy yêu
cầu về mặt sư phạm đã bị phá vỡ trong việc phân bổ chương trình.
Chính vì sai lầm đó, nên dù cố gắng biên soạn lại, SGK Lịch sử lớp 10 vẫn
không tránh khỏi sự ôm đồm không cần thiết. Thậm chí cßn gây mâu thuẫn trong việc
dạy và học của giáo viên và học sinh: Học sinh chỉ được học 1 tiết/ tuần (học kỳ I) và
2 tiết/ tuần (học kỳ II) nhưng phải gánh một khối lượng kiến thức lớn.
* Về nội dung kiến thức
Mặc dù đã cố gắng sửa chữa, nhưng nội dung kiến thức SGK vẫn cßn thiên về
kể lể các sự kiện, thậm chí quá rườm rà, hành văn không hấp dẫn. Một bài học sinh
phải nhớ đến 10 hoặc có bài phải nhớ tới 20 sự kiện không cần thiết. Gây tâm lý nhàm
chán, cho học sinh ( ví dụ Bài 19 tr. 96 SGK cơ bản lớp 10).
Một số bài về kiến thức cßn sai lầm nghiêm trọng: Thể hiện ở các bài 29 SGV
đáng lẽ phải viết "...sự phát triển của ngành dệt len..." thì lại viết là "... sự phát triển
ào ạt của ngành dệt lụa sinh ra nhu cầu lớn của thị trường đối với lông cừu..."( tr149)
dệt lụa chắc chắn không dùng lông cừu!
Bài 30 về "Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ" trong
sách giáo khoa lịch sử lớp 10 các tác giả viết: "... Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện
có ý nghĩa lịch sử trọng đại ... Nhưng Tuyên ngôn không xoá bỏ chế độ nô lệ cùng việc
bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động..." (tr.149). ở đây các tác giả đã
nhầm lẫn giữa bản chất của cuộc cách mạng Tư sản với bản chất của cuộc cách
mạng Vô sản. C. Mác từng nói "Bản chất của cuộc cách mạng tư sản là chỉ thay một
hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác mà thôi!". Do đó làm gì có
chuyện giai cấp tư sản ở 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ tuyên bố xoá bỏ việc bóc lột giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Mặt khác bóc lột lao động của các nô lệ ở các
bang thuộc địa miền Nam lúc bấy giờ là một trong những "đặc điểm của quá trình
tích luỹ nguyên thuỷ TBCN". Quá trình khách quan này dĩ nhiên là tàn bạo, nhưng
là tiền đề không thể thiếu đối với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Tuyên ngôn độc lập
của 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ không thể có chuyện hạn chế được! Lưu ý, đây là tuyên
ngôn của cuộc cách mạng Tư sản chứ không phải là tuyên ngôn của cuộc cách mạng
vô sản. Do đó khi dạy học đến phần này giáo viên không nên buộc học sinh phải chỉ ra
những điểm hạn chế của Tuyên ngôn.
Về "Cách mạng tư sản Pháp": Về mốc kết thúc, vẫn có hai quan điểm, thể hiện
trong giáo trình đại học và cao đẳng. Quan điểm thứ nhất, lấy cuộc đảo chính tháng
Nóng (27/7/1794) làm mốc cuối và quan điểm thứ hai lấy cuộc chính biến ngày 18
tháng Sương mù (9/11/1799) làm mốc kết thúc. Sự tồn tại của hai quan điểm này ở
bậc đại học và cao đẳng cßn có thể chấp nhận được, nhưng ở bậc phổ thông thì thật là
khó hiểu. Vậy mà SGK lịch sử lớp 8 các tác gải lấy mốc 27/7/1974 (tr.17) và trong
SGK lớp 10 lại lấy 9/11/ 1799 làm mốc kết thúc cuộc cách mạng tư sản Pháp (mặc
dù cùng một chủ biên). Chính vì vậy đã gây sự hồ nghi cho HS, cũng như nguyên
tắc "Theo chương trình đổi mới, bộ môn lịch sử ở THPT nhằm giúp HS cũng cố và
nâng cao kiến thức cơ bản nhất đã học ở bậc THCS" đã bị phá vỡ (SGV lịch sử lớp
10 tr.3).
SGV lịch sử lớp 10 viết "....Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ
Đốc Chính kết thúc vai trß (1799)..." trong khi SGK trình bày làm cho người ta
tưởng là cách mạng mãi đến khi "... chế độ quân chủ phục hồi" mới kết thúc
(tr.158).
SGV Lịch sử lớp 10 "...Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ Đốc
chính kết thúc vai trß (1799), mọi thành quả cách mạng bị bãi bỏ thế lực phản động
trở lại cầm quyền ở Pháp..." (tr.161). Nếu thực sự là như vậy thì làm sao có thể gọi
Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tương đối triệt để là Đại cách mạng được.
Bằng chứng, khi theo lưỡi gươm của quân Liên minh trở về cầm quyền ở Pháp, Lui
XVIII buộc phải công bố một bản Hiến chương lập hiến (một bản hiến Pháp do nhà vua
ban) thừa nhận những thành quả cơ bản của cách mạng như: Xoá bỏ chế độ đẳng cấp,
công nhận quyền sở hữu ruộng đất đã được xác lập trong quá trình cách mạng. Đây là
một sai lầm đáng tiếc, mà nếu giáo viên không nắm chắc kiến thức thì dễ thể nhầm lẫn.
1.1.2. Chương trình lịch sử lớp 11
Ở chương trình Lịch sử khối 11ban cơ bản: 1 tiết x 35 tuần = 35 tiết. Trong
đó:
- Lịch sử thế giới cận đại (phần tiếp theo chương trình lịch sử lớp 10): 8 tiết;
- Lịch sử thế giới hiện đại (phần 1917- 1945): 11 tiết;
- Lịch sử Việt Nam từ 1858- 1918: 11 tiết;
- Lịch sử địa phương: 1 tiết;
- Củng cố kiểm tra 4 tiết.
Qua việc xây dựng chương trình lớp 11 cơ bản, chúng ta nhận thấy những ưu
điểm như: về cấu tạo và phân kỳ lịch sử đều đảm bảo nguyên tắc phân kỳ theo học
thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin; đảm bảo tính toàn diện của
việc học tập lịch sử. Chương trình đề cập đến những vấn đề về đời sống xã hội, văn
hóa, khoa học và được xem xét như một sự kiện lịch sử chứ không phải nội dung của
khoa học chuyên ngành. Chương trình mặc dù gồm hai khóa trình: lịch sử thế giới và
lịch sử dân tộc, song vẫn đảm bảo tính hệ thống, mối quan hệ lô gíc giữa lịch sử Việt
Nam với lịch sử thế giới… Chương trình đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, phù hợp với quan điểm, mục tiêu giáo
dục. Tuy nhiên lịch sử 11 còn nhiều hạn chế, ví dụ: Bài 18 Ôn tập lịch sử thế giới
hiện đại (phần từ năm 1917-1945). Phần I. Những kiến thức cơ bản về thế giới hiện
đại (1917-1945). Sau lời dẫn của tập thể tác giả SGK: “Trong gần 30 năm (19171945), nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra trên toàn thế giới... Chúng ta cùng nhau ôn
tập các sự kiện lịch sử cơ bản theo hệ thống kiến thức dưới đây”: Thời gian, sự kiện,
diễn biến chính, kết quả, ý nghĩa. Điều đáng ngạc nhiên là Giáo sư Phan Ngọc Liên
(Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) đã đưa sự kiện cách mạng Dân chủ tư sản tháng 2
-1917 (diễn biến chính): Tổng bãi công chính trị ở Pê- tơ- rô- grát, Khởi nghĩa vũ
trang, Nga Hoàng bị lật đổ vào phần Lịch sử thế giới hiện đại. Không hiểu tác giả
lấy căn cứ nào? Nếu theo cách thức phân kỳ Lịch sử thế giới hiện đại được đông đảo
giới sử học trong và ngoài nước chấp nhận nhất thì mốc khởi đầu cho Lịch sử thế
giới hiện đại bắt đầu khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô viết
đầu tiên trên thế giới xuất hiện. hoặc ít ra là Đại chiến thế giới thứ nhất (1914-1918)
kết thúc. Đó là chư kể đến sự nhầm lẫn cả về nội dung lẫn phương pháp. Ví dụ: Khởi
nghĩa vũ trang, đây là hình thức, không phải là diễn biến; Nga Hoàng bị lật đổ là
kết quả của cách mạng chứ không phải là diễn biễn...
1.1.2. Chương trình lịch sử khối 12
Chương trình Lịch sử cơ bản lớp 12, mặc dù được đánh giá cao trong khi thay
sách. Song, sách chứa một khối lượng kiến thức quá tải đối với học sinh, nếu dạy theo
phân phối chương trình của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Theo đó Chương trình nội dung Lịch sử 12 nghiên cứu khoảng thời gian
ngắn nhất nhưng số tiết dạy nhiều nhất. Lịch sử 10 nghiên cứu hàng triệu năm với 1,5
tiết/1 tuần, Lịch sử 11 - 455 năm với 1 tiết/1 tuần, Lịch sử 12 chỉ nghiên cứu 55 năm
nhưng lại học tới 2 tiết/1 tuần (từ 1945 đến 2000) (Học kỳ I).
Chương trình nội dung Lịch sử 12 có sự gắn kết chặt chẽ giữa Lịch sử Thế giới
và Lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử dân tộc, nên các sự kiện
của lịch sử dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong nước mà cßn có ý nghĩa Quốc tế.
Bên cạnh đó Chương trình gắn liền với chính trị, nhiều sự kiện chịu ảnh hưởng
chi phối nhiều yếu tố chính trị. Điều đó tác động đến bài giảng, thi cử. Vì vậy, dạy
lịch sử 12 giáo viên phải chịu áp lực lớn hơn so với dạy sử khối 10 và 11, nhưng yêu
cầu về nhận thức đßi hỏi cao hơn khối 10, khối 11.
Theo Tiến sĩ Hà Thị Minh Thuỷ trường Đại học sư phạm Thái Nguyên thì:
“Phần Lịch sử Việt Nam trong SGK Lịch sử 12 (mới) là phần Lịch sử Việt Nam từ
1919 đến nay. Đây là giai đoạn lịch sử rất gần với chúng ta, có nhiều sự kiện đang tiếp
diễn. Thực tế học sinh đã học giai đoạn này ở lớp 9, đến lớp 12 học sinh tiếp tục
được bổ sung một số kiến thức cần thiết và nâng cao hơn sự nhận thức về sự kiện,
nhân vật lịch sử.
So với chương trình và SGK Lịch sử lớp 12 cũ (sách viết cách đây 16 năm do GS
Đinh Xuân Lâm chủ biên), phần Lịch sử Việt Nam có nội dung kéo dài thêm 10 năm
(SGK cũ chỉ viết đến năm 1991, SGK mới viết đến năm 2000), nhưng với số tiết học
giảm 1 tiết đối với chương trình nâng cao (39/40 tiết), giảm 8 tiết đối với chương
trình chuẩn (32/40 tiết). Sách giáo khoa mới viết cô đọng hơn SGK cũ (trước đây 1 tiết
dạy được viết từ 5-8 trang, nay khoảng 3-5 trang) nhưng vẫn bảo đảm tính hệ thống,
toàn diện, hiện đại, cập nhật và đổi mới. Một số sự kiện, niên đại, nhận định đánh giá
có sự điều chỉnh bổ sung bảo đảm tính khách quan lịch sử”.
Một điều dễ nhận thấy chương trình sách giáo khoa lịch sử 10, 11, 12 đều
không có tiết bài tập, thực hành (SGK) để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh
(chỉ có một vài tiết bài tập). Nhất là tiết ôn tập đó lại nhằm mô tả lại một trận đánh,
một chiến dịch trên sơ đồ - lược đồ mà giáo viên hướng dẫn các em chuẩn bị trước ở
nhà. Đó là chưa kể đến chất lượng in còn thấp, màu sắc đơn điệu, tranh ảnh hầu hết
là màu đen trắng, do đó không thể diễn tả được giá trị nội dung, nghệ thuật, những
thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hoá: ( Bài 5, Bài 6, Bài 7, Bài 8 Bài 9, SGK lớp
10 cơ bản, hình 2, Bài 1 Nhật Bản, hình 24, Bài 9, trang 49, hình
54, Bài 20 , hình 73, Bài 23 SGK Lịch sử 11 ban cơ bản …).
Như vậy, ta thấy rõ ràng sách giáo khoa, sách giáo viên không thể làm chổ dựa
cho học sinh học tốt môn Lịch sử, càng không thể giúp giáo viên nâng cao trình độ
và phương pháp dạy học.
1.2. Thực trạng dạy và học hiện nay
Theo GS Đinh Xuân Lâm đăng trên dantri.com.vn: “Lịch sử là môn khoa học
góp phần đạo tạo nhân cách con người. Đối với học sinh càng nhỏ càng tiếp cận lịch
sử càng có ấn tượng sâu sắc. Cùng với tuổi lớn lên của các em thì kiến thức đó ngày
càng sâu rộng nên tôi cho rằng học lịch sử rất quan trọng… Nhưng hiện nay, vấn đề
học lịch sử ở trường phổ thông chưa được coi trọng”.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, một phần là do cấp quản lý, giáo viên, phụ
huynh và học sinh chưa nhận thức được vai trò, vị trí của môn học trong Chương
trình giáo dục phổ thông. Hay nói cách khác là xu hướng hiện nay đang thiên về học
các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nhằm tìm kiếm những cơ hội cao hơn, tốt
hơn, dễ hơn sau khi tốt nghiệp THPT, vào thi đại học. Những hạn chế của sách giáo
khoa, những yếu kém về trình độ, phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng là một
trong những tác nhân dẫn đến sự sa sút này… thậm chí nhiều trường THPT vì thiếu
hoặc không có giáo viên dạy sử cấp quản lý đã điều động cả giáo viên chưa bao giờ
được đào tạo Lịch sử vào đảm nhiệm.
Thực tế, ở các trường THPT, thậm chí là các trường chuyên có lớp chuyên Sử
thì số lượng học sinh thi vào chuyên sử cũng rất ít, mặc dù đây cũng là một trong
những môn được Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa vào kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 12.
Theo kết quả kỳ thi đại học năm 2006-2007, tỷ lệ thí sinh có điểm thi dưới
trung bình chiếm hơn 80 %, trong đó, hơn 60 % có điểm thi dưới 1 (1/10). Qua đó cho
thấy, thực trạng dạy học môn Lịch sử bậc trung học phổ thông đáng báo động.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra một số biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng dạy học môn lịch sử, nhất là trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tài
năng.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
2.1. Xây dựng và thống nhất chương trình bồi dưỡng
2.1.1. Đối với Ban biên soạn sách giáo khoa
Về hệ thống kiến thức trong Chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11, 12
hệ cơ bản nên xắp xếp lại để tiện cho việc giảng dạy và học tập của học sinh, tránh
sự ôm đồm không cần thiết.
Về nội dung các bài viết cần nên lược bớt phần diễn biến. Tốt nhất các bài
nên tập trung vào những vấn đề mấu chốt, làm rõ trọng tâm.
Đối với việc dạy về thời kỳ lịch sử Trung đại, nhất là về các triều đại nên cho
các em thấy những ưu điểm và hạn chế của triều đại đó. Tức cho các em thấy
được những chính sách đúng đắn,và sai lầm của triều đại dẫn đến sự hưng khởi, diệt
vong. Đồng thời cần phải chỉ ra lực lượng nào trong xã hội làm nên lịch sử.
Tốt nhất để hệ thống lại kiến thức SGK không chỉ có nhiệm vụ tóm tắt lại
những gì đã học (Theo kiểu ôn tập chương) mà cần đưa ra những so sánh, nhận xét lịch
sử giữa các khu vực, các nước với nhau, đặc biệt giữa phương Đông với phương Tây.
Từ đó giúp HS hiểu được tại sao phương Đông mặc dù ra đời sớm, nhưng không
thể phát triển mạnh như phương Tây. Nhất là trong giai đoạn cuối thời kỳ Trung đại.
Về công tác in ấn và bổ trợ kiến thức: Nên in một tập bản đồ, biểu đồ theo từng
bài ( giống quyển átlát của môn địa lý) với hình thức đẹp ( in mầu), nội dung trùng
khớp với các bản đồ, biểu đồ lớn mà giáo viên treo trên bảng, tạo điều kiện cho học
sinh xem trước ở nhà, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo.
Chúng ta nên biết rằng, việc dạy và học lịch sử dù có nhiều mục đích, song
quan trọng nhất là giúp các em nhận thức được những bước đi của lịch sử loài
người. Giúp các em nhận thức được những bài học lịch sử, từ đó có
thể ứng dụng vào cuộc sống hiện tại, và nhận biết, đoán định sự tiến
triển của thế giới loài người trong tương lai.
2.1.2. Xây dựng, thống nhất chương trình bồi dưỡng
Chúng tôi cho rằng việc dạy học sinh giỏi phải luôn thực hiện
được mục tiêu giáo dục. Đó là mục tiêu về kiến thức, về kĩ năng, về
tư tưởng tình cảm. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi chúng ta
đang chú trọng vào việc nâng cao kiến thức, và kĩ năng cho học sinh.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, chúng ta gặp phải một khó
khăn rất lớn, đó là việc Bộ Giáo dục và Đạo tạo chưa thể xây dựng
một chương trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng
ở tất cả các môn học, trong đó có môn Lịch sử. Vụ Trung học phổ
thông chỉ dừng lại ở việc ban hành Tài liệu Hội nghị tập huấn giảng
dạy môn Lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và giáo viên chuẩn bị cho
học sinh tham gia kỳ thi Quốc gia. Thành thử, để bồi dưỡng học sinh
giỏi, học sinh tài năng, các trường THPT nói chung, trường chuyên
nói riêng phải xây dựng chương trình bồi dưỡng riêng, nên khó cho
công tác bồi dưỡng và khi tiến hành kiểm tra đánh giá để chọn học
sinh giỏi sẽ khó có một tiêu chí chung, thống nhất.
Vậy, Bộ Giáo dục và Đạo tạo cần tiến hành xây dựng chương
trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng. Chương
trình này phải được xây dựng theo quan điểm phát triển, cần được
bổ sung, điều chỉnh theo sự phát triển của khoa học và phù hợp với
nhu cầu phát triển của đất nước.
Chương trình này được phép đưa vào những vấn đề lịch sử
đang tranh luận, vấn đề khó, quan điểm mới mà từ trước đến nay
chúng ta cho rằng nó không phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh phổ thông. Tất nhiên những quan điểm mới đó không thể
trái với quan điểm của Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng mà
dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Xây dựng Chương trình phải có sự tham gia của các chuyên gia
đầu ngành và những giáo viên đã và đang đào tạo học sinh giỏi cấp
quốc gia, quốc tế ở trường THPT trên khắp cả nước..
2. 2. Tăng cường nghiên cứu khoa học
Một thực tế dễ nhận thấy trong hệ thống các trường THPT
chuyên hiện nay là việc rèn luyện, nâng cao năng lực nghiên cứu
khoa học của giáo viên, học sinh rất thấp. Nghiên cứu khoa học là
một trong những năng lực không thể thiếu của một giáo viên. Bởi,
dạy học là một khoa học, nhưng đồng thời cũng là một nghệ thuật.
Đối với việc dạy học Lịch sử, nhất là việc đáp ứng nhu cầu học tập
của học sinh giỏi, tài năng, thì giáo viên hơn ai hết cũng cần phải có,
và phải được trang bị năng lực nghiên cứu khoa học thực sự. Công
việc nghiên cứu này phải được tiến hành nghiêm túc, cẩn thận và
thường xuyên.. Năng lực nghiên cứu là cơ sở giúp giúp giáo viên,
học sinh giỏi nâng cao được năng lực nhận thức, năng lực dạy và
khả năng tự học một cách sáng tạo, có hiệu quả. Tránh quan niệm từ
trước đến nay cho rằng Lịch sử chỉ là môn học thuộc, chỉ cần nhớ và
hiểu các sự kiện là đủ.
Muốn được như vậy, trường chuyên phải tiến hành quan hệ
hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài
nước.Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, tài liệu, chương trình
giảng dạy học sinh giỏi và tổ chức hội thảo khoa học. Trên cơ sở
đó trường chuyên sẽ thành lập Hội đồng khoa học. Hội đồng này
được phép phối hợp với các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi
về kinh phí, thời gian và những chế độ ưu đãi khác dành cho giáo
viên và học sinh tham gia nghiên cứu. Đồng thời, Hội đồng khoa
học sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá và khen thưởng một cách nghiêm
túc kết quả đạt được của các tập thể, cá nhân đã có thành tích xuất
sắc trong nghiên cứu khoa học cũng như công bố kết quả nghiên
cứu khoa học trên các tạp chí, đặc san khoa học của trường, của
tỉnh, và các tạp chí Trung ương khác.
Học sinh giỏi cần phải được giáo viên hướng dẫn nghiên cứu
những chuyên đề nằm trong chương trình học và thi học sinh giỏi.
Đến lượt mình, giáo viên cần được hướng dẫn, được bồi dưỡng và tự
bồi dưỡng chuyên môn, năng lực, phương pháp nghiên cứu khoa học
một cách bài bản, thực chất bởi chuyên gia đầu ngành với những khóa
học ngắn ngày hoặc dài ngày.
Kiến thức, kĩ năng học sinh được trang bị đi thi, đó không chỉ
là kiến thức, kĩ năng, mà giáo viên nhận thức được từ sách giáo
khoa, những công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước…, rồi đem dạy lại cho học sinh, mà đó còn là kết quả của cả
một quá trình nghiên cứu khoa học thực sự nghiêm túc của giáo
- Xem thêm -