Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một vài suy nghĩ về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả...

Tài liệu Skkn một vài suy nghĩ về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả

.DOC
26
206
68

Mô tả:

SÔÛ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO ÑOÀNG NAI Ñôn vò : Tröôøng THPT Phuù Ngoïc Maõ soá : …….. MOÄT VAØI SUY NGHÓ VEÀ KINH NGHIEÄM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI COÙ HIEÄU QUAÛ Ngöôøi thöïc hieän : Phaïm Quang Ñöùc Lónh vöïc nghieân cöùu : Quaûn lyù giaùo duïc : Phöông phaùp daïy hoïc boä moân : Phöông phaùp giaùo duïc : Lónh vöïc khaùc :………………… Coù ñính keøm : Moâ hình Phaàn meàm Phim aûnh Naêm hoïc : 2008 – 2009 Trang - 1 - Hieän vaät khaùc SÔ LÖÔÏC LYÙ LÒCH KHOA HOÏC I.THOÂNG TIN CHUNG VEÀ CAÙ NHAÂN : 1. Hoï vaø teân : PHAÏM QUANG ÑÖÙC 2. Ngaøy thaùng naêm sinh : 26/6/1968 3. Nam, nöõ : Nam 4. Ñòa chæ : Tröôøng THPT Phuù Ngoïc, Ñònh Quaùn, Ñoàng Nai . 5. Ñieän thoaïi : ( CQ ) : 0613853361 ( NR ) : 0613632649 6. Fax : Email : 7. Chöùc vuï : Toå tröôûng 8. Ñôn vò coâng taùc : Tröôøng THPT Phuù Ngoïc II.TRÌNH ÑOÄ ÑAØO TAÏO : - Hoïc vò ( hoaëc trình ñoä chuyeân moân, nghieäp vuï ) cao nhaát : Cöû nhaân . - Naêm nhaän baèng : 1991 - Chuyeân ngaønh ñaøo taïo : Ñaïi hoïc sö phaïm Vaên III. KINH NGHIEÄM KHOA HOÏC : - Lónh vöïc chuyeân moân coù kinh nghieäm : Giaûng daïy - Soá naêm kinh nghieäm : 11 - Caùc saùng kieán kinh nghieäm ñaõ coù trong 05 naêm gaàn ñaây : + Phöông phaùp khaéc saâu kieán thöùc cho hoïc sinh trong baøi oân taäp vaên hoïc Vieät Nam giai ñoaïn 1945 – 1975. + Moät vaøi suy nghó veà kinh nghieäm taïo höùng thuù vaø söùc thuyeát phuïc hoïc sinh trong giôø daïy giaûng vaên – ñoïc vaên . + Một vài suy nghĩ về kinh nghiệm khai thác có hiệu quả tác phẩm văn học trong giờ dạy giảng văn – đọc văn. Trang - 2 - I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nghề dạy học là một nghề cao quý. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những mầm mống tương lai của đất nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có được học sinh giỏi thì ngòai năng lực, tố chất của học sinh còn cần có công lao bồi dưỡng của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Là một giáo viên văn đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi môn học trong nhà trường việc học và dạy đều có đặc thù riêng của nó. Môn văn cũng không nằm ngòai lệ đó. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay. Học như thế nào cho tốt? dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều băn khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt được và mang lại hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều . Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất trong khỏang thời gian hơn 2 tháng ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy hết năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong mấy giờ ấn định ? Làm thế nàơ để công lao vất vả của thầy và trò không bị uổng phí ? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ? Mối băn khoăn đó luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua. Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục cùng với Trang - 3 - việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến, suy nghĩ của mình. Bởi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất nặng trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã lắng nghe ,suy gẫm và trao đổi với một số thầy cô về công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống với ý kiến của một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan trọng nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày ý kiến về chuyên đề của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn đề nghị sáng kiến kinh nghiệm: Một vài suy nghĩ về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả. Trang - 4 - II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHUYÊN ĐỀ: 1. Thuận lợi: - Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài: + Là tổ trưởng và giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy gẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. + Bản thân chịu khó tìm tòi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn học, các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với các đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các tỉnh khác.v.v... có ghi chép, tích lũy,cập nhật thường xuyên. + Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngòai trường để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi dưỡng. - Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài: + Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 2. Khó khăn: - Trường ở địa bàn miền núi xa xôi, tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng. - Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác. Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý thức coi nhẹ môn văn, có học sinh không được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn anh văn mới chịu vào đội tuyển văn. 3. Số liệu thống kê: Trang - 5 - Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học như sau: Từ 1999 – 2000 đội tuyển là 5 em nhưng không đạt một giải nào. Từ 2000 – 2001 đội tuyển 6 em thì có một em đạt giải khuyến khích. Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi từ 2002 đến nay thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào đội tuyển ,học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Chủ động tích cực trong việc học tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên bồi dưỡng. Hàng năm có từ 5 – 6 em tham gia vào đội tuyển đều đạt kết quả rất khả quan. Số lượng học sinh giỏi tỉnh tăng rất nhiều so với trước đây. Liên tiếp trong nhiều năm đều có 4- 5 em đạt giải và đặc biệt có rất nhiều giải ba ở một ngôi trường còn non trẻ và chất lượng đầu vào lớp 10 còn rất thấp. Đó là một điều đáng phấn khởi và khích lệ. Trang - 6 - III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lý luận: Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao, khó khăn nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết. Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp ,thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh ,làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu ,lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng.Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trao dồi rất nhiều cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc.Bỡi vì đặc thù của học sinh giỏi là có những điểm rất khác so với một học sinh bình thường từ kiến thức, tư duy cho đến việc cảm nhận tác phẩm,kĩ năng viết v.v...Nghĩa là yêu cầu rất cao và khó khi thực hiện nhiệm vụ này để làm sao đạt kết quả tốt .Với bề dày thời gian công tác giảng dạy và qua một số năm bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 tôi nhận thấy có một vài suy nghĩ về kinh nghiệm là làm sao trong vài tháng ít ỏi mà có thể có được những thành công nhất định. Từ các đồng nghiệp và qua trao đổi một số trường, tôi cũng lắng nghe được ý kiến này, ý kiến khác song chưa thấy có chuyên đề cụ thể nào trình bày về công tác bồi dưõng học sinh giỏi, hoặc có trình bày ở những chuyên đề có sự liên quan nhưng chưa được phân tích đúng mức. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia xẻ học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm . 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của chuyên đề: Biết rằng kiến thức, phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô cùng phong phú , khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn Trang - 7 - học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ chuyên đề này người viết chỉ đưa ra một số nội dung vấn đề mình tự nhận thấy và rút ra được qua thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi. Nội dung của chuyên đề cụ thể như sau: - Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác. - Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng. Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học sinh. - Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn vở riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. - Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng. - Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tòan quốc qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu đề ra, định hướng ,lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. - Ra đề và làm trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định. Giáo viên chấm, phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học sinh. Chữa lỗi bài làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát huy những mặt tốt và khắc phục được những điểm còn hạn chế. a. Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác. Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn hơn 2 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội tuyển lớp 12 từ cuối năm 11, từ khi nghỉ hè thì giáo viên sẽ hướng dẫn cho học sinh các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh muợn đọc một số sách cần thiết Trang - 8 - mà giáo viên có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp. Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú và sâu rộng thì các em mới chủ động ,mạnh dạn và phóng túng trong làm bài. Kiến thức mỏng và nghèo nàn thì không thể tránh khỏi những lúng túng,ngập ngượng trong bài viết. Các sách này có thể là các tác phẩm văn học của các tác giả lớn mà các em đã được học chính khóa nhưng cần phải đọc nhiều ,biết rộng hơn rất nhiều so với nộ dung học ở sách giáo khoa. Chẳng hạn như khi học Nam Cao, một học sinh giỏi văn không chỉ biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc mà cần phải đọc rộng và am hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám và cả sau cách mạng tháng tám. Ngòai việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học học sinh còn cần phải đọc các sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Ví dụ khi học thơ mới với các bài thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mạc Tử giáo viên không thể không hướng dẫn học sinh đọc thêm các tập thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận,các tập thơ của Hàn Mặc Tử và cần đọc kỹ cuốn Thi nhân Việt Nam của Hòai Thanh – Hòai Chân để học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc đáo, súc tích. Và còn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các tác giả nổi tiếng khác về văn học rất giá trị mà học sinh cần phải đọc. Nói tóm lại không đọc hay đọc ít là một hạn chế rất lớn không tránh khỏi đối với một học sinh giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực nhất là ở những học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương . Thao tác đọc tác phẩm văn học và các tài liệu nghiên cứu phê bình văn học là một họat động cực kỳ quan trọng trong yêu cầu của công tác bồi dưỡng. Giáo viên đặc biệt phải hết sức quan tâm đối với học sinh và phải có cách đôn đốc nhắc nhở, kiểm tra học sinh để các em có được những kiến thức cần thiết trong quá trình làm bài. Nếu học sinh chưa có ý thức đọc theo hướng dẫn thì giáo viên bồi dưỡng phải kiên quyết yêu cầu học sinh đọc.Và giáo viên phải có cách kiểm tra để bắt buộc học Trang - 9 - sinh đọc và thấy được ích lợi của việc đọc . Vì kiến thức văn học phong phú, vững vàng là cơ sở và nền tảng đầu tiên để học sinh viết một bài văn tốt. b. Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng. Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học sinh. Tự ôn và nắm vững lại kiến thức đã học, đã đọc ở các lớp dưới, đặc biệt là học sinh giỏi 12 phải nắm vững kiến thức về văn học hiện đại ,trung đại ở khối 11 và kể cả khối 10 .Những kiến thức lớp dưới quan trọng như thơ mới, các tác giả như là Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Kiến thức cơ bản là cái gốc cần thiết tối thiểu cho học sinh giỏi trước khi muốn học và nghiên cứu những kiến thức có bề rộng và chiều sâu. Vì thời lượng bồi dưỡng rất hạn chế, giáo viên bồi dưỡng không thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại những kiến thức căn bản đã học những năm trước thì yêu cầu học sinh phải tự thực hiện. Điều này không khó đối với một học sinh giỏi. Khi giáo viên yêu cầu học sinh tự ôn tập, làm việc ở nhà thì giáo viên phải có sự kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có ý thức học tập tốt chưa ? đã thực hiện và nắm các yêu cầu về kiến thức mà mình dặn dò chưa ? nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, còn có những lỗ hổng kiến thức thì giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm việc. c. Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Trong quá trình giảng dạy giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ trong sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc của những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn học, hay những câu thơ, đọan thơ, đọan văn hay của nhiều tác giả được góp nhặt, sưu tầm gắn với các Trang - 10 - chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Nội dung này giáo viên có thể yêu cầu học sinh ghi vào một cuổn tập riêng để các em đọc lại nhiều lần vàghi nhớ. Những tư liệu này thật quý giá đối với học sinh. Đôi khi các em có những ý tưởng, suy nghĩ nhưng chưa biết cách diễn đạt nó một cách sắc nét, khúc chiết để tạo ấn tượng cho người đọc. Vì vậy trích dẫn những tư liệu văn học như những câu thơ hay phù hợp với nội dung vấn đề, những lời nhận định đánh giá hợp lý, đúng chỗ này sẽ góp phần làm cho bài viết thêm khởi sắc và giàu sức thuyết phục. Ví dụ như khi dạy chuyên đề về lý luận văn học, cụ thể là về vai trò của văn học đối với cuộc sống, mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống, vai trò của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương, giáo viên bồi dưỡng yêu cầu học sinh sưu tầm và chọn lọc những lời nhận định liên quan đến vấn đề này và tìm được những lời nhận định có ý nghĩa và giá trị nhất. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số lời nhận định sau: - “ Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy” (Tố Hữu) - “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là đích đến của văn học” ( Tố Hữu) - “ Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi” ( PusKin) - “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” ( Biêlinxki) Và các tuyên ngôn nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc trong các tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng tháng tám và của các tác giả khác. Ví dụ như: - “ Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thóat ra từ những kiếp sống lầm than vang dội lên mạnh mẽ” ( Trăng sáng - Nam Cao) Trang - 11 - - “ Các ông muốn tiểu thuyết cứ thật là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng với tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thật ở đời” ( Vũ Trọng Phụng) - “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của chặng đời sống con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hòan thiện” ( Nguyễn Minh Châu) - “ Nghệ sĩ là con người biết khai thác ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy trong những ấn tượng đó cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có được hình thức riêng” ( Mácximgorki) Và những câu thơ chứa đựng ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: - “ Nhà thơ như con ong kết trăm hoa thành một mật Một mật ngọt thành, vạn chuyến ong bay” ( Chế Lan Viên) - “ Bài thơ anh, anh làm một nửa Còn một nửa để mùa thu tự làm lấy” ( Chế Lan Viên) “Khi tình cảm tự tìm cho nó hình thức thể hiện ra bên ngòai chúng ta có thơ”. (RabinthatTago) Và rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị khác về văn học, giáo viên giúp học sinh sưu tầm, ghi chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý thơ nào học sinh cũng đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ những nội dung ý nghĩa của vấn đề. Những bài làm của học sinh giỏi muốn đạt giải cao thì bài viết phải có nhiều yêu cầu khác nhau nhưng nhìn chung phải có phong cách, nét độc đáo và tạo được ấn tượng riêng, thể hiện được những điều mà học sinh bình thường không thể có được. Trang - 12 - Vì vậy những lời nhận định đánh giá hay những câu thơ, đọan thơ hay sẽ là những dẫn chứng lý lẽ thuyết phục như một nốt nhấn, cũng có thể nó là một lời chốt lại vấn đề hoặc đó là lời dẫn nhập giới thiệu vấn đề tạo không khí sinh động hấp dẫn hơn là cách giới thiệu hay một lời kết bình thường không ấn tượng gì mà thường thấy ở học sinh trung bình và yếu. Ví dụ trong chương trình trước đây khi bồi dưỡng học sinh giỏi 12 về chuyên đề “ Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh học sinh sẽ được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong tù nào là một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v... qua một số bài thơ đã học ở sách giáo khoa và một số bài thơ khác trong tuyển tập được giáo viên chọn lọc giới thiệu để học sinh tiếp cận. Nhưng những câu thơ có ý nghĩa khái quát, giàu hình ảnh và ý nghĩa tư tưởng mà giáo viên có thể cung cấp, giảng bình để học sinh cảm nhận sâu sắc thêm về Bác - người tù vĩ đại qua tập thơ để có thể vận dụng vào bài làm. Chẳng hạn những câu thơ sau: - “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh Vần thơ Bác viết, vần thơ thép Mà vẫn mêng mông bát ngát tình” ( Hòang Trung Thông) - “ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc Mà thơ bay cánh hạc ung dung” ( Tố Hữu) Những nốt nhấn của những ý thơ như vậy là rất cần thiết cho phong cách trong bài làm của học sinh giỏi. Thiếu nó bài viết cũng dễ kém phần tươi mát và cũng dễ trở nên khô khan hoặc đơn điệu nhàm chán trong cách diễn đạt đều đều, buồn tẻ của học sinh trong biểu đạt suy nghĩ của mình. Đó chỉ là đơn cử một vài ví dụ, còn lại là kiến thức mêng mông, rộng lớn mà người giáo viên bồi dưỡng hướng dẫn học sinh phải có ý thức học tập vận dụng để mang lại một hiệu quả chất lượng, sinh động cho bài viết. Trang - 13 - d. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng. Có giáo viên cho rằng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 thì rất khó đóan được nội dung của đề ra vì chương trình rất rộng. Biết đề thi sẽ ra ở phần nào mà bồi dưỡng cho học sinh. Đó chính là sự thật qua đề ra của một số năm, chẳng hạn như đề ra trong kỳ thi học sinh giỏi vòng 1 của tỉnh Đồng Nai năm học 2008 – 2009 phần nghị luận văn học với đề ra : “ Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”. Đề ra như vậy thì rất nhiều giáo viên và học sinh thật bất ngờ, bởi nhiều năm liền trước đây ít khi nào thi học sinh giỏi tỉnh ở Đồng Nai và ở các tỉnh khác cũng như thi học sinh giỏi tòan quốc bằng nội dung của văn học trung đại. Bởi vậy xác định nội dung ôn tập cho học sinh cũng là điều rất khó khăn của người tham gia bồi dưỡng. Điều lo ngại nhất là sợ nội dung ôn tập bồi dưỡng cho học sinh lại không đúng với đề ra. Tuy vậy mỗi giáo viên bồi dưỡng đều phải có định hướng về kiến thức gắn với những chuyên đề ôn tập cụ thể để giúp học sinh ôn tập có hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào suy nghĩ của từng giáo viên. Có giáo viên chọn và xóay sâu vào chuyên đề này mà khai thác chưa kỹ ở chuyên đề khác, hoặc cho rằng những chuyên đề kia là không quan trọng nên không nhắc nhở học sinh chú ý. Tuy nhiên theo tôi dù bồi dưỡng như thế nào giáo viên cũng phải chọn ra một số chuyên đề mà mình cho là quan trọng nhất có thể quy tụ những nội dung kiến thức lớn và bao quát để học sinh nắm bắt. Kinh nghiệm bồi dưỡng trong những năm qua theo tôi thấy là như vậy và đã áp dụng vào trong thực tế bồi dưỡng. Cụ thể là một số chuyên đề mà tôi đã hướng dẫn học sinh trong quá trình học tập như sau: Ví dụ như chuyên đề về Nam Cao và những sáng tác của Nam Cao. Điều đầu tiên như đã nói ở phần trên là học sinh phải đọc rộng, nắm bắt những kiến thức về tác phẩm của Nam Cao, hiểu và cảm nhận về nó cùng với việc đọc những tài liệu nghiên cứu phê bình về Nam Cao đó là bước thứ nhất. Sau đó giáo viên định hướng cho học Trang - 14 - sinh về hai mảng sáng tác lớn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám đó là đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân gắn với những tác phẩm cụ thể. Người trí thức thì sống mòn mỏi, tha hóa về nhân cách, người nông dân thì sống nghèo khổ, lầm than và sa vào bần cùng hóa, lưu manh hóa. Trên cơ sở những nội dung đó giáo viên có thể giúp học sinh khai thác phân tích những hình tượng nhân vật trong các truyện ngắn của Nam Cao để học sinh hiểu và nắm bắt kỹ nội dung của vấn đề. Hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh tiếp xúc với những đề ra gắn với Nam Cao để học sinh vừa có điều kiện hiểu đề, phân tích đề và đi vào nắm bắt những kiến thức về sáng tác của Nam Cao ứng với một đề văn cụ thể. Chẳng hạn như giáo viên có thể dùng một số đề ra của những năm trước về Nam Cao để kích thích học sinh làm việc một cách tòan diện. Ví dụ như đề văn sau: Viết về Nam Cao, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hòang Khung viết: “ Một điểm đặc sắc của ngòi bút Nam Cao là từ những sự việc rất tầm thường, quen thuộc trong đời sống hàng ngày đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn”. Bằng những hiểu biết về tác phẩm Nam Cao, anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Hay một đề văn khác xóay sâu vào nội dung ý nghĩa của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao: “ Bình luận về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nhà văn Nam Cao, có nhà phê bình cho rằng: Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại”.Ý kiến của anh chị như thế nào ? Từ truyện ngắn này của Nam Cao hãy làm sáng tỏ ý kiến của mình. Với các đề ra như vậy hướng vào chuyên đề sẽ kích thích học sinh làm việc và tư duy một cách tòan diện và đặc biệt là động não rất nhiều vào các tác phẩm của Nam Cao. Đó cũng là cách củng cố, khắc sâu kiến thức về chuyên đề quan trọng mà giáo viên có ý định hướng cho học sinh học tập. Trang - 15 - Hay một chuyên đề khác không thể bỏ qua trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 đó là chuyên đề về thơ mới. Với chuyên đề này giáo viên yêu cầu học sinh đọc trước các tác giả, tác phẩm thơ mới và đặc biệt chú ý các tác giả lón như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư. Sau đó giáo viên có thể từng bước đi vào định hướng cho học sinh tìm hiểu các khía cạnh quan trọng của thơ mới như cái tôi cá nhân, cái buồn vạn thuở, tình yêu đôi lứa say đắm mãnh liệt, cuống quýt vội vàng, nghệ thuật dùng từ, viết câu, âm điệu trong thơ mới .v.v... Những nội dung đó được giáo viên phân tích khai thác qua một số tác phẩm thơ đã được học trong nhà trường phổ thông và những tác phẩm học sinh chưa được học. Cũng tương tự như chuyên đề về Nam Cao giáo viên có thể chọn lọc một số đề về Xuân Diệu – tác giả lớn nhất trong thơ mới và các tác giả khác để học sinh tìm hiểu và có điều kiện thâm nhập sâu vào sáng tác của tác giả. Giáo viên có thể gợi một số đề sau: Ngay từ năm 1941 tác giả thi nhân Việt Nam đã đánh giá: “ Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ý kiến của anh (chị) về nhận định trên. Phân tích một số đọan thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám để làm rõ ý kiến của anh (chị). Hay cũng một đề khác về Xuân Diệu: “ Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành nỗi ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là cảm xúc,là thi hứng mà còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói Xuân Diệu nhìn đời bằng con mắt của thời gian. Chất Xuân Diệu phong cách thơ ông là ở đó” ( Đỗ Lai Thúy - Con mắt thơ, nhà xuất bản giáo dục 1997) Anh ( chị) hãy làm rõ ý kiến trên qua việc phân tích một số bài thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám. Hay một đề nữa về sáng tác của Xuân Diệu: “ Xuân Diệu cung cấp nhiều vật liệu mới để xây dựng nên nền thơ ca Việt Nam” Anh (chị) hãy phân tích ba bài thơ: Thơ Duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định trên. Trang - 16 - Hoặc một ví dụ khác về tác giả Huy Cận: Hãy phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận. Nêu những đề như vậy sẽ giúp học sinh định hướng, phân tích đề, đặc biệt là tìm ý, lập dàn ý cho một đề ra. Như thế là học sinh đã đi vào tìm hiểu khai thác có chiều sâu sáng tác của tác giả Xuân Diệu và các tác giả khác. Trên cơ sở nắm bắt và hiểu của học sinh giáo viên sẽ đi vào giảng giải, phân tích những điểm nội dung mà học sinh không hiểu hoặc hiểu chưa sâu sắc đúng mức. Làm như vậy sẽ giúp các em thâm nhập, nắm bắt và củng cố kiến thức một cách tự nhiên thỏai mái và rất có hiệu quả. Một chuyên đề nữa mà người viết muốn nói ở đây đó là chuyên đề Nhật ký trong tù theo chương trình cũ trước đây. Với nội dung chuyên đề này giáo viên đề nghị học sinh phải đọc qua tập Nhật ký trong tù với một trăm mấy chục bài thơ và xác định nội dung chính, trọng tâm trong tác phẩm. Với sự hiểu, tìm tòi và phát hiện của học sinh, giáo viên có thể chốt lại những nội dung trọng tâm và yêu cầu học sinh lưu ý như sau: Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn, tình cảm lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn, một phương pháp sáng tác mới .v.v...Cụ thể hóa những nội dung này giáo viên có thể cho học sinh chọn một số những bài thơ tiêu biểu, cảm nhận và phân tích. Giáo viên trên cơ sở đó phân tích bổ sung để học sinh hiểu và hướng vào những nội dung trọng tâm mà giáo viên đã định hướng. Ví dụ như các bài thơ: Chiều tối, Giải đi sớm, Mới ra tù tập leo núi là những bài thơ được học ở sách giáo khoa chứa đựng một nội dung sâu sắc, giàu ý nghĩa làm nội bật được chân dung của một người tù vĩ đại. Giáo viên cần giảng bình kỹ và sâu cùng chọn lọc với một số bài thơ khác như Vãn Cảnh, Ngắm Trăng, Lai Tân, Không ngủ được để minh họa thêm cho học sinh và yêu cầu học sinh học thuộc và hiểu một số bài thơ quan trọng khác trong tập thơ. Ngòai ra giáo viên còn gợi mở cho học sinh Trang - 17 - một số đề làm văn xoay quanh tác phẩm Nhật ký trong tù để học sinh rèn luyện và khắc sâu kiến thức. Còn rất nhiều những chuyên đề khác mà không thể nói hết ở đây. Chẳng hạn như chuyên đề về lý luận văn học cũng có thể chia thành nhiều chuyên đề nhỏ mà giáo viên cần có phương pháp phù hợp giúp các em học tập. Chỉ đơn cử một vài ví dụ như vậy. Các chuyên đề khác cách thức tiến hành có thể có nhiều điểm là tương tự như các chuyên đề trên. e. Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tòan quốc qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. Có kiến thức văn học và kỹ năng viết là cần thiết trong một bài văn nghị luận, nhưng điều đó chưa đủ những yếu tố để đảm bảo thành công trong một bài viết. Điều quan trọng trong một bài văn nghị luận là học sinh phải xác định được yêu cầu của đề ra, định hướng, tìm ý và lập được dàn ý. Có những học sinh tuy có kiến thức văn học rất phong phú nhưng khả năng phân tích và hiểu đề chưa tốt cũng rất dễ dẫn đến việc lạc đề, viết tản mạn, lan man không hướng vào yêu cầu của đề ra. Đây là vấn đề thường thấy trong việc làm văn của học sinh nói chung và của học sinh giỏi nói riêng. Vậy để rèn luyện cho học sinh giỏi trong công tác bồi dưỡng về kỹ năng này, giáo viên có thể chọn một số đề thi học sinh giỏi trước đây để giúp học sinh luyện tập. Ví dụ đây là một đề về lý luận văn học: “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học” Anh ( chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên. Đứng trước một đề ra như vậy, giáo viên cho học sinh khỏang 30 phút để tìm ý, lập dàn ý. Sau đó giáo viên yêu cầu vài em trong đội tuyển trình bày cách hiểu đề và dàn ý của mình, rồi từ đó yêu cầu các em còn lại có ý kiến bổ sung, cuối cùng giáo viên khẳng định những ý đúng và cần thiết đối với yâu cầu đề trên và có thể định hướng cho các em một dàn ý sơ lược. Trang - 18 - - Giải thích từ ngữ, khái niệm: Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học. + “Cuộc đời”: Là hiện thực cuộc sống, xã hội, con người. “Nơi xuất phát”: Nguồn gốc của văn học. Như vậy hiện thực cuộc sống là mảnh đất màu mỡ cung cấp đề tài, cảm hứng cho nhà văn. Chứng minh các điều đó qua một số ý kiến của những nhà thơ, nhà văn lớn như Nguyễn Du: “Tôi học ở những người hái dâu, chăn tằm, trồng gai, dệt vải ”( Thôn ca sơ học ma tang ngữ). Còn GorKi thì nói: “ Trong lĩnh vực sáng tạo thi ca không có nhà thơ nào lớn hơn nghệ sĩ dân gian”, “ Ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói nguyên liệu còn ngôn ngữ văn học được bàn tay người thợ nhào luyện”. + Cuộc đời là đích đến của văn học: Văn học bắt nguồn từ cuộc sống nhưng cũng phải quay lại phục vụ cuộc sống, phục vụ con người. Văn học sẽ không là gì nếu nó không vì con người mà có -> Văn học phải vì nhân sinh. Cái đích cuối cùng của văn học là làm cho cuộc sống đẹp hơn, và văn học phải đấu tranh vì cuộc sống. - Giải thích tại sao ? + Văn học do con người sinh ra, vì con người phục vụ. Con người luôn sống trong hiện thực cuộc sống sinh động, phong phú với đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống. + Văn học phải có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống. Muốn phản ánh được cuộc sống thì nhà văn không thể thóat ly mà phải đi vào cuộc sống để khám phá, tìm tòi, sáng tạo. Phản ánh chân thực cuộc sống thì nhà văn mới sáng tạo được những tác phẩm là tấm gương phản chiếu cuộc đời.( Thơ trước hết là đời sau đó mới là nghệ thuật) - Bình luận: + Khẳng định cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học. Đó là một chân lý có tính chất phổ quát trong lịch sử văn học từ xưa đến nay. Trang - 19 - + Phê phán khuynh hướng văn học thóat ly hiện thực, xa rời hiện thực, nghệ thuật vị nghệ thuật, thứ văn chương làm xiết ngôn từ, chỉ chú trọng về câu chữ không phục vụ nhân sinh, dẫn con người vào bế tắc. - Chứng minh: + Nguyễn Trãi nếu không có những năm tháng sống ở “ Góc thành nam lều một gian” và 10 năm cùng Lê Lợi nếm mật nằm gai ở rừng núi Lam Sơn trong những ngày gian khổ chống quân Minh thì không thể có án thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo. + Nguyễn Du nếu không có 15 năm gió bụi cùng với những câu ca dao nuôi dưỡng tâm hồn từ thuở thiếu thời thì không thể có một truyện Kiều tuyệt tác. + Các nhà văn, nhà thơ hiện đại Việt Nam đều chủ trương: sống đã rồi hãy viết hoặc sống và viết ( Nam Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh). Nhà văn phải sống với nhân dân, lấy cảm hứng cho đời từ nhân dân. Điều đó đã chứng minh qua thực tế văn học là các nhà văn hiện đại Việt Nam đã một thời cùng nhân dân đi vào thực tiễn cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ và xây dựng đất nước. Lập một dàn ý như thế là tập cho học sinh có ý thức khi tiếp cận và phân tích một đề ra. Từ việc hiểu nội dung ý nghĩa yêu cầu của đề, đến các thao tác lập luận cần sử dụng cho từng đề văn, các ý cần phải có trong từng trường hợp đề bài cụ thể. Từ đó học sinh có thể linh họat sáng tạo áp dụng khi tiếp xúc với một đề văn cụ thể nào đó. Lấy ví dụ về một đề văn khác: “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của những chặng đời sống con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hòan thiện” ( Nguyễn Minh Châu) Anh ( chị ) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên. Cũng từ sự làm việc của học sinh, giáo viên trên cơ sở đó bổ sung và định hướng cho học sinh về hướng xác định yêu cầu, nội dung của đề ra. * Về yêu cầu đề: thao tác giải thích + bình luận là chính. Trang - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan