Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một vài kinh nghiệm trong việc thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh...

Tài liệu Skkn một vài kinh nghiệm trong việc thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh ở trường thpt long phước

.PDF
13
673
66

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC Người thực hiện : TRƯƠNG THỊ THANH THỦY Lĩnh vực nghiên cứu: PP kiểm tra đánh giá học sinh  Có đính kèm:  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh Năm học: 2011 - 2012  Hiện vật khác 2 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: TRƯƠNG THỊ THANH THỦY 2. Ngày tháng năm sinh: 19/11/1973 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: Ấp II - Phước Bình - Long Thành - Đồng Nai 5. Điện thoại: 01657496280 6. E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: Tổ phó tổ bộ môn Hóa – Sinh – Công nghệ. 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Long Phước II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân Sinh học. - Năm nhận bằng: 1996 - Chuyên ngành đào tạo: Sinh học III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Phương pháp dạy học. - Số năm có kinh nghiệm: 13 năm (1998-2011) - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: + Phương pháp giúp học sinh sử dụng hiệu quả sách giáo khoa Sinh học. + Phương pháp ứng dụng giải bài tập di truyền học quần thể cho học sinh yếu và trung bình ở trường THPT Long Phước. 3 MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong quá trình giảng dạy nhiều năm tại trường THPT Long Phước, tôi nhận thấy việc thực hiện kiểm tra đánh giá học sinh luôn là một vấn đề có nhiều khó khăn và vướng mắc đối với giáo viên, đặc biệt đối với các giáo viên dạy ở các lớp cuối khối ( Chủ yếu gồm các học sinh yếu kém ) bỡi phần nhiều học sinh thuộc các lớp này đã có thói quen không nghiêm túc trong thi cử, thói quen xấu này đã được hình thành từ các cấp học dưới; cộng với khả năng tư duy hạn chế hoặc sự lười biếng của các em này trong việc học hành…. Hơn thế nữa, lượng kiến thức cần đạt ở bậc THPT khá nhiều, phần lớn kiến thức khá trừu tượng và khó hiểu; đồng thời yêu cầu về đế thi đối với các môn học hiện nay đòi hỏi phải đạt chuẩn, phạm vi kiến thức rộng và bao quát, những kiến thức đã dạy trong chương trình đều có thể ra trong đề thi. Vì vậy làm sao để vừa thể hiện được vai trò của công tác kiểm tra đánh giá (thực hiện kiểm tra một cách khách quan, công bằng, trung thực) vừa đảm bảo đạt được chỉ tiêu về điểm số của nhà trường là một vấn đề mà nhiều giáo viên quan tâm và lo lắng; đặc biệt đối với các giáo viên phụ trách các lớp cuối khối thì đây luôn là nỗi trăn trở và thách thức. Một số GV đã giải quyết vấn đề này bằng nhiều cách như ra đề kiểm tra với yêu cầu sơ sài, cục bộ, kèm với sự canh gác kiểm tra một cách lơi lỏng; hoặc không chú trọng việc kiểm tra vấn đáp đầu tiết học…. Chính điều này đã một phần gây nên sự ỷ lại trong ý thức của nhiều HS, dẫn đến chất lượng quá trình dạy học của trường chưa được nâng cao như mong mõi của tập thể sư phạm nhà trường trong nhiều năm nay. Đã nhiều năm làm công tác giảng dạy, và cũng đã từng phụ trách các lớp yếu của trường, tôi luôn trăn trở, luôn tìm hiểu qua nhiều sách vở hoặc qua một số giáo viên có uy tín trong trường và ngoài trường để tìm ra cho mình những phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh hiệu quả nhất; và tôi cũng đã rút ra được một số kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác này trong quá trình giảng dạy của mình, góp phần đem lại hiệu quả đích thực cho quá trình dạy học của bộ môn mà mình đảm nhiệm ( môn sinh học ). Và hôm nay xin được giới thiệu đến quí thầy cô “Một vài kinh nghiệm trong việc thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh ở trường THPT Long Phước” hầu mong được mọi người chia sẻ, đánh giá về tính thực tiễn và chân thực của nó trong công tác kiểm tra đánh giá học sinh, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường ta. 4 II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận a. Quan điểm cơ bản về kiểm tra, đánh giá Đánh giá là một khâu, một công cụ quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục; có chức năng, khả năng điều chỉnh quá trình dạy và học, là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lương đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày càng tiến bộ hơn. Đánh giá với hai chức năng cơ bản là xác nhận và điều khiển. Xác nhận đòi hỏi độ tin cậy, điều khiển đòi hỏi tính hiệu lực. Thực hiện tốt đồng thời hai chức năng sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục gồm nhiều vấn đề, trong đó hai vấn đề cơ bản nhất là đánh giá chất lượng dạy của thầy và chất lượng học của trò. Đánh giá thực chất sẽ nâng cao chất lượng dạy và học. b. Thực hiện đổi mới đánh giá * Yêu cầu Căn cứ chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh sau mỗi lớp, mỗi giai đoạn, mỗi cấp học. Phối hợp đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì. Đánh giá chính xác, khách quan, công bằng, kịp thời và không bỏ sót, phải có tác dụng giáo dục và động viên học sinh, giúp học sinh sửa chữa thiếu sót kịp thời, cần có nhiều hình thức và độ phân hóa trong đánh giá phải cao. Đánh giá hoạt động dạy học không chỉ đánh giá thành tích học tập của học sinh mà còn bao gồm đánh giá quá trình dạy học nhằm cải tiến quá trình dạy học. Chú trọng kiểm tra đánh giá hành động, tình cảm của học sinh : nghĩ và làm. Năng lực vận dụng vào thực tiễn của học sinh thể hiện qua ứng xử, giao tiếp. Đánh giá kết quả học tập của học sinh, thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả cuối cùng mà chú ý cả quá trình học tập. Tạo điều kiện cho học sinh cùng tham gia xác định tiêu chí đánh giá kết quả học tập. Nội dung đánh giá có thể hơi cao hơn so với trình độ học sinh nhưng không được quá khó, để kích thích sự tìm tòi , sáng tạo, hứng thú của học sinh. * Hình thức đánh giá : Có nhiều hình thức nhưng cần chú trọng đối với phương pháp vấn đáp, trắc nghiệm khách quan. GV cần nắm vững qui trình thực hiện kiểm tra vấn đáp, qui trình biên soạn đề theo hình thức trắc nghiệm khách quan. * Phương thức đánh giá : Chú trọng hướng dẫn HS phát triển khả năng và thói quen tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau. Kết hợp giữa đánh giá của thầy với đánh giá của trò. * Phương tiện đánh giá: Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin để giúp đánh giá khách quan, chính xác và kịp thời, đặc biệt là khi kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan. 5 * Các têu chí của đánh giá: - Đánh giá được toàn diện kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái độ, hành vi của học sinh. - Đảm bảo độ tin cậy : chính xác, trung thực, khách quan, công bằng trong đánh giá, phản ánh được chất lượng thực của học sinh. - Đảm bảo khả thi : Nội dung, hình thức, phương tiện tổ chức đánh giá phải phù hợp với điều kiện học sinh, phù hợp với mục tiêu của môn học. - Đảm bảo yêu cầu phân hoá : Phân loại được chính xác trình độ, năng lực học sinh. Giải phân hoá càng rộng càng tốt. - Đảm bảo giá trị, hiệu quả cao : Đánh giá được và đúng các lĩnh vực cần đánh giá. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Trong quá trình dạy học, GV thường đánh giá HS bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng ở đây tôi muốn đề cập tới hai hình thức cơ bản nhất là kiểm tra vấn đáp đầu tiết học và các bài kiểm tra viết định kì được thực hiện tại lớp như bài KT 15 phút, bài KT 1tiết ( Hiện nay việc kiểm tra tập trung ở trường THPT Long Phước chưa được thực hiện ở nhiều môn trong đó có môn Sinh học). a. Đối với việc kiểm tra vấn đáp đầu tiết học Giáo viên cần thực hiện việc kiểm tra đầu tiết một cách nghiêm túc, thường xuyên và có phương pháp vì qua việc này giúp HS được củng cố kiến thức và giúp GV nhận thấy được những ưu điểm và thiếu sót trong quá trình dạy học của mình cũng như những sai lệch trong nhận thức của HS để kịp thời điều chỉnh và uốn nắn, hơn nữa còn giúp HS rèn luyện kĩ năng nói trước đám đông, và giúp GV hoàn thành điểm số theo qui định của ngành một cách trung thực. Sau đây là một số kinh nghiệm: - Việc nêu câu hỏi kiểm tra bài cũ cần được thực hiện sau khi GV đã ổn định trật tự của lớp, điểm danh HS vắng, kiểm tra việc chuẩn bị dụng cụ học tập của HS. Đầu tiên, một câu hỏi chính được GV đặt ra cho cả lớp. Lúc này GV quan sát xem cả lớp đã rõ về câu hỏi chưa. Nếu HS đã rõ nội dung câu hỏi thì GV mới tìm một HS thích hợp để gọi lên trả lời. Có thể gọi tên HS theo trong danh sách hoặc dựa vào HS xung phong...., tùy từng tình huống. Nếu không có HS nào xung phong thì GV gọi tên một HS trong danh sách. Tuy nhiên, nếu câu hỏi đưa ra không khó lắm thì GV nên chọn những HS có sức học từ trung bình trở xuống, nếu là câu hỏi khó thì nên chọn HS khá giỏi, đây là một nghệ thuật. Làm như vậy có thể giúp các HS có học lựcTB hoặc yếu dễ dàng nhận được điểm cao một cách chân chính, tạo cho các em này lòng tự hào và kích thích sự nỗ lực học tập ở các em; hoặc nếu là HS khá – gỏi, các em cũng có thể nhận được điểm cao trước câu hỏi khó và các em này sẽ phấn chấn hơn trong học tập vì các em được đánh giá đúng thực lực và được tôn trọng. - Trong khi HS trả lời, GV cần luôn yêu cầu học sinh phải trình bày lớn để mọi HS trong lớp đều nghe rõ. Điều này góp phần vào việc đánh giá điểm cho HS một cách chính xác và khách quan hơn. - Trong trường hợp học sinh không thuộc bài, thì ngoài việc chấm điểm kém cho HS, GV cần đưa ra cho HS một hình phạt thích ứng nhằm giúp HS có trách nhiệm hơn trong việc học tập, đồng thời cũng giúp củng cố thêm kiến thức cho HS. Điều này được thông 6 báo cho cả lớp biết và ngay đó GV ghi thông tin này vào sổ nhật kí dạy học của mình để tiện trong việc nhắc nhỡ và kiểm tra việc thực hiện của HS này. Ví dụ : Tùy vào tính cách, năng lực của từng học sinh và mức độ chưa thuộc bài của học sinh, tôi thường yêu cầu học sinh chép lại nội dung cả bài hoặc một mục nào đó mà HS chưa thuộc từ 2 đền nhiều lần tuỳ vào nội dung đó dài hay ngắn. Các HS luôn thực hiện theo đúng yêu cầu của tôi, đồng thời tinh thần học tập của cả lớp đối với bộ môn Sinh học ngày càng được cải thiện. - Trong một tiết học, chỉ nên kiểm tra vấn đáp từ 1 đến 3 em và thời gian kiểm tra vấn đáp đầu giờ chỉ nên kéo dài từ 5 đến 7 phút. Với số lượng này, khi hs được kiểm tra đều đặng thì GV sẽ kiểm tra được toàn bộ học sinh của lớp trong suốt 1học kì ngay cả khi môn học nào đó chỉ được phân dạy 1 đến 2 tiết trong tuần, giúp GV hoàn thành được điểm số một cách trọn vẹn. - Trong quá trình kiểm tra đầu tiết, không nên vì các HS được KT đều không thuộc bài mà GV kiểm tra thêm nhiều HS nữa, làm như vậy chúng ta sẽ không còn thời gian dành cho bài mới và sẽ bị chậm tiến độ, đồng thời gây cho cả lớp một sự nặng nề về tinh thần. Khi gặp tình huống này, tốt nhất GV không nên nổi giận mà hãy tìm hiểu nguyên nhân rồi giúp các em củng cố lại bài cũ nhanh chóng, hãy nói với các em bằng một lời trách móc nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc sau đó tiếp tục dạy bài mới cho HS. Qua cách cư xử tích cực và chủ động của GV, các HS sẽ thấy được lỗi của mình, các em sẽ phấn đấu nhiều hơn và đồng thời cũng sẽ kính nễ GV hơn. Còn nếu chúng ta nóng nảy, la mắng HS và không tiếp tục dạy bài mới thì chúng ta đã làm sai mục tiêu mà mình đặt ra, chúng ta tự đánh mất nhân cách của mình, tự làm giảm giá trị của mình, đồng thời tinh thần học tập của HS sẽ giảm sút. - Trong khi kiểm tra, GV cũng cần để ý đến khoảng cách giữa vị trí đứng của học sinh được kiểm tra với vị trí ngồi của mình. Theo tôi, khoảng cách này thường đạt khoảng 1m. Và học sinh cần phải đứng hơi lùi ra phía sau giáo viên. Đều này giúp GV có thể quan sát được những học sinh ngồi phía dưới, xem các em có theo dõi được phần trả lời của bạn đang được kiểm tra hay không để các em có thể được củng cố thêm kiến thức, đồng thời các em có thể góp phần vào việc đánh giá điểm số cho bạn của mình, nhờ đó việc chấm điểm cho HS của GV sẽ được mọi người đồng tình, đem đến quyền lợi cho SH và uy tính của GV. - Khi kiểm tra mỗi học sinh, GV không nên chỉ yêu cầu HS trả lời một câu hỏi chính mà đôi lúc còn phải đặt ra thêm cho các em một số câu hỏi phụ, điều này giúp GV đánh giá một cách chính xác và toàn vẹn về năng lực của HS này cũng như giúp HS phát huy hết khả năng vốn có của mình như khả năng nhớ bài, khả năng nghe – hiểu nhanh, khả năng ứng phó trước các tình huống bất lợi ... . Trong trường hợp học sinh chưa ứng phó tốt thì các em sẽ nỗ lực hơn để có thể làm được điều đó; còn trong trường hợp HS đã làm tốt thì các em sẽ phát huy hơn nữa khả năng của mình, đồng thời các em sẽ có uy tín hơn trong mắt các bạn cùng lớp, góp phần đem đến niềm tin và say mê trong học tập của tập thể lớp. - Cuối cùng, việc công bố điểm đạt được của HS được kiểm tra cũng phải được chú trọng. GV cần nhận xét về phần trình bày của HS sau đó mới đưa ra điểm số cụ thể. Nếu HS còn thắc mắc thì GV cần giải đáp rõ ràng, và sự lí giải đó cần phải được tập thể lớp công nhận. Không nên thực hiện việc chấm điểm cho học sinh theo ý chủ quan, cố chấp của bản thân mình; vì như vậy sẽ không phát huy được khả năng tự đánh giá của HS từ 7 đó có thể làm giảm sút sự tập trung của HS này trong quá trình lĩnh hội kiến thức mới, các em sẽ bị thiệt thòi và chúng ta cũng không hoàn thành được mục tiêu giảng dạy. **Nhật kí dạy học – công cụ đắc lực góp phần vào việc kiểm tra đánh giá HS Việc lập một sổ nhật kí dạy học là hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với giáo viên, đặc biệt là đối với những GV phải dạy ở nhiều lớp như các GV dạy bộ môn Sinh học, GDCD, Công nghệ, Sử, Địa.... Nhật kí dạy học giúp chúng ta ghi lại tên của những HS vắng, tên của những HS chưa thuộc bài, tên của những HS vi phạm nề nếp hoặc tên của những HS không chú ý trong giờ học; hoặc để chúng ta ghi lại những chậm trễ trong việc thực hiện chương trình. Từ đó có thể góp phần cùng GVCN uốn nắn HS, giúp đỡ HS trong học tập văn hóa và rèn luyện tác phong; đồng thời cũng giúp chúng ta có thể chủ động trong việc bổ khuyết những kiến thức mà tiết học trước chưa kịp dạy cho HS. Khi sử dụng nhật kí dạy học, GV cần ghi đầy đủ các mục sau: - Thứ, ngày, tháng, năm. o Lớp Thứ nhất ( Ghi theo trình tự tiết dạy trong buổi):  Số HS vắng: Vắng....... ,Tên HS vắng: ........, ....... . Lưu ý tên các HS mà trong lớp có nhiều HS cùng mang tên này, lúc đó chúng ta cần phải ghi cả chữ lót hoặc họ của HS đó để tránh sự nhầm lẫn khi tổng hợp trong đánh giá HS sau này.  Tên học sinh vi phạm, lỗi vi phạm, hình phạt, việc thực hiện hình phạt. ..... o Lớp thứ hai (Trình tự nghi như ở lớp thứ nhất) Ví dụ : Sau đây là một phần ghi chép trong nhật kí dạy học của tôi: Thứ ba 6/9/2011 - 12 A 3: + Vắng 0. + Không có vi phạm. + Đã dạy hết bài 11. Đã dặn tiết sau kiểm tra 15 phút. - 12 A 1: + Vắng 1: Dương Quang. + Chi không thuộc bài – chép phần “cơ sở tế bào học của qui luật phân li” 3 lần. + Đã dạy hết bài 11. Đã dặn tiết sau kiểm tra 15 phút. - 12 A 2 : + Vắng 0. + Thu Huyền chưa thuộc bài – chép phần “cơ sở TB học của qui luật phân li” và “khái niệm lai phân tích” mỗi nội dung 2 lần; Thị Nhung chép 3 lần “cơ sở TB học của qui luật phân li”. + Đã dạy hết bài 11. Đã dặn tiết sau kiểm tra 15 phút. b. Đối với việc thực hiện kiểm tra viết 15 phút hoặc 1 tiết trong điều kiện không chia phòng Tôi chỉ xin nêu ra vài kinh nghiệm khi việc kiểm tra được tiến hành bằng hình thức trắc nghiệm khách quan, cần lưu ý các điểm sau: 8 b1. Thông báo thông tin về bài kiểm tra sắp thực hiện : Cần đảm bảo rằng học sinh đã rõ thông tin về thời gian kiểm tra, hình thức kiểm tra và lượng kiến thức cần có để tham gia kiểm tra. b2. Thiết kế đề kiểm tra. - Xác định mục đích yêu cầu của đề kiểm tra : Kiểm tra kiến thức mà HS lĩnh hội được sau khi học xong những bài nào, để lấy điểm vào cột điểm nào. - Xác định mục tiêu dạy học: Kiểm tra mức độ thuộc bài, hiểu bài, khả năng vận dụng vào thực tế, phản xạ nhanh, trung thực. - Thiết lập ma trận hai chiều gồm kiến thức cần được đánh giá và mức độ nhận thức của học sinh. Các bước cần tiến hành: + Xác định số lượng câu hỏi sẽ đưa vào đề. Tùy mức độ khó của đề mà có thể đưa vào 10 đến 20 câu cho đề 15 phút và 20 đến 40 câu cho đề 1 tiết. + Xác định số lượng câu hỏi của mỗi loại hình đưa vào kiểm tra : Nên làm đề với số điểm từ 200 đến 300 và tỉ lệ 4 biết : 3 hiểu : 3 vận dụng vì tỉ lệ HS có sức học ở mức trung bình và yếu ở trường Long Phước khá cao; và đề này phải được dùng chung cho tất cả các lớp, như vậy mới có thể so sánh được chất lượng học tập giữa các lớp trong cùng một khối với nhau. + Thiết lập ma trận với đầy đủ số liệu thông tin đã định. - Thiết kế câu hỏi, bài tập theo ma trận: Câu hỏi phải chuẩn mực, súc tích, làm rõ được yêu cầu, cần tránh gây cho HS sự nhầm lẫn trong cách sử dụng từ ngữ của đề ra. - Thiết kế đáp án biểu điểm : Cần nghiên cứu kĩ nội dung câu hỏi để có đáp án chính xác, khách quan. - Xác định số mã đề cần ra : Thông thường mọi người hay chọn 2 hoặc 4 mã đề để ra, nhưng trong trường hợp số HS của lớp quá đông hoặc số câu hỏi của đề ít hoặc thái độ làm bài của đa số HS trong lớp chưa nghiêm túc thì để tránh tình trạng học sinh coi bài của nhau tôi thấy chúng ta cần làm từ 6 đến 8 mã đề thì việc kiểm tra đánh giá mới mang lại kết quả chân thực. - Đánh máy, đảo đề và in đề : Trong quá trình đánh máy, GV cần chọn khổ chữ 12 hoặc 13, cần sửa hết các lỗi chính tả trước khi thực hiện đảo đề vì nếu việc này không được chú ý thì đến lúc đề được in ra có thể chúng ta sẽ phát hiện nhiều lỗi chính tả và lúc đó phải quay qua sửa ở nhiều đề thì sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức. Cần chọn kiểu chữ in nghiêng hoặc in đậm đối với từ “Không” hoặc “sai” trong tiêu đề của câu hỏi. VD: Câu nào sau đây không đúng với đặc điểm của thể đa bội? Như vậy sẽ giúp hạn chế sự hiểu lầm cho HS khi các em làm bài vì đôi khi HS chỉ đọc lướt qua nội dung câu hỏi rồi chọn theo ý đúng của nội dung kiến thức. Khung ghi tên và ghi phương án chọn phải được để ở mặt trước của tờ đề vì như vậy sẽ hạn chế được tình trạng HS quên ghi tên của mình vào bài làm, đồng thời cũng thuận lợi hơn cho GV khi lựa mã đề, chấm bài và ghi điểm vào sổ cá nhân. 9 - In đáp án : Đáp án cần được kiểm tra cẩn thận nhiều lần trước khi in. Khung đáp án cần khớp với khung ghi phương án trong bài làm của HS để tránh tình trạng chấm nhầm câu hoặc phải xê dịch đáp án trong quá trình chấm bài. - Photo đề : Cần đảm bảo việc photo đề, kiểm tra nét chữ trong đề sau khi photo, phân và đếm đủ đề cho mỗi lớp trước ngày thực hiện kiểm tra một ngày, tránh tình trạng chữ trong đề bị mờ hoặc photo thiếu đề. b3. Phát đề kiểm tra : Cần tạo sự công bằng cho cả lớp, khi phát đề, GV nên nhắc HS úp đề xuống, sau khi GV phát xong đề thì tất cả HS mới bắt đầu ghi tên vào bài làm và làm bài, tránh tình trạng HS trao đổi với nhau mã đề hoặc làm bài trước. b4. Coi kiểm tra : GV nên tập trung trong khi coi kiểm tra, cần quan sát bao quát lớp, nhắc nhỡ những HS chưa nghiêm túc, giải đáp vài thắc mắc của HS khi cần thiết. Để làm tốt việc này, GV nên đứng ở góc trên bên trái của bục giảng, khi đứng ở vị trí này chúng ta sẽ nhìn thấy hết mọi hành vi của tất cả các HS nhờ đó hạn chế được tối đa tình trạng học sinh quay cóp bài, điều này thực sự có ý nghĩa trong việc đánh giá một cách trung thực trình độ của mỗi HS, giúp ta có được kết quả chân thực nhất đồng thời cũng tạo cho HS động lực học tập và rèn luyện cho các em tính trung thực trong thi cử từ đó hình thành tính trung thực cho HS trong cuộc sống. b5. Thu bài kiểm tra : Việc thu bài nhanh chóng cũng góp phần đánh giá chính xác chất lượng học tập và tinh thần trách nhiệm của HS. Vì vậy, GV nên yêu cầu mọi HS nộp bài ra đầu bàn trong khi mình vẫn đứng ở vị trí có thể bao quát được lớp, khi mọi HS đã nộp bài ra đầu bàn lúc đó GV mới đi qua từng bàn để thu bài. Trong trường hợp một số HS còn cố ý làm thêm hoặc tranh thủ cóp bài của bạn, thì GV cũng không nên nhân nhượng, chúng ta cần nêu tên và nhắc các em này hoặc nhấn mạnh cho các em hiểu rằng nếu các em vẫn không chịu nộp bài thì các em sẽ bị trừ điểm - điều này còn tệ hại hơn, khi đó các em sẽ không còn “cố đấm ăn xôi “ nữa. Một công cụ hỗ trợ hữu hiệu cho GV trong quá trình coi kiểm tra và thu bài kiểm tra là sơ đồ lớp, vì đối với những GV phải dạy ở nhiều lớp thì đôi khi không thể nhớ hết tên của mọi HS trong lớp, chúng ta cần ghi lại sơ đồ chỗ ngồi của HS và cập nhật thường xuyên trong trường hợp GVCN đổi chỗ ngồi của một số HS trong lớp. b6. Chấm bài kiểm tra : Trước khi chấm bài chúng ta cần lựa bài theo mã đề, kiểm tra cẩn thận các bài trong từng mã đề, sau đó úp từng hai nhóm bài của hai mã đề vào nhau theo thứ tự. VD : Úp mã đề 1 với mã đề 2, mã đề 3 với mã đề 4, mã đề 5 với mã đề 6....... Làm như vậy giúp ta tránh được tình trạng chấm nhầm mã đề. Khi chấm bài, GV phải đang trong tình trạng tỉnh táo, trong khi đang chấm bài mà có việc gì lo lắng hoặc buồn ngủ… thì nên ngừng ngay vì nếu chúng ta vẫn tiếp tục làm việc này thì thường chấm sai, nên sẽ càng lo lắng hơn và sau đó chúng ta phải chấm lại, gây mất nhiều thời gian; hoặc nếu không chấm lại để đến khi HS phát hiện sự sai lệch thì GV sẽ bị mất niềm tin đối với HS của mình. 10 b7. Ghi điểm vào sổ : Cần kiểm tra chất lượng bài làm của HS, đếm xem có bao nhiêu bài được điểm từ 5 trở lên, tính tỉ lệ HS đạt điểm từ 5 trở lên của lớp. Nếu đạt chỉ tiêu thì ta tiến hành ghi điểm vào sổ điểm lưu, nếu chưa đạt chỉ tiêu thì ta ghi điểm vào sổ điểm nháp và cần nghĩ ngay đến giải pháp cho HS làm bài kiểm tra bổ sung. Tùy theo phổ điểm mà lớp đã đạt được khi đó GV sẽ đưa ra một đề kiểm tra bổ sung cho phù hợp, để lớp có thể đạt được tiêu chuẩn của trường sau khi làm bài bổ sung này. VD : Đối với các lớp cuối khối như 12A10 và 12A11 năm học này ( 2011-2012 ), trong quá tình làm kiểm tra môn Sinh hầu như lớp không đạt chỉ tiêu ngay cả ở bài 15 phút và 1 tiết, điều đó không thể tránh khỏi vì sức học của đa số HS ở các lớp này đều trong mức yếu mà kiến thức môn Sinh ở học kì I thì quá khó do đó không có HS nào làm được 8 điểm đối với bài kiểm tra 15 phút và có rất nhiều em được điểm từ 4 đến 4,75. Trong khi đó ở các lớp đầu khối như 12A1 thì chỉ có vài em có điểm nhỏ hơn 5; và lớp giữa khối như 12A6 thì đạt tiêu chuẩn ( đã có trên 65 % HS đạt điểm từ 5 trở lên ). Vì vậy tôi đã tiến hành làm thêm một đề kiểm tra bổ sung ở các lớp 12A10 và 12A11 nhằm tạo điều kiện cho các em được tăng thêm điểm một cách công bằng , tích cực. Bài kiểm tra bổ sung gồm 6 câu hỏi trắc nghiệm, đảo thành 4 mã đề, điểm tối đa có thể đạt được trong bài bổ sung này là 1,5 đ. Tôi tin sẽ có 40 % đạt được thêm từ 0,75 trở lên, điểm này được cộng vào điểm của bài làm trước và kết quả là đã đạt chỉ tiêu về điểm số đồng thời tạo được sự công bằng cho HS, ngoài ra còn giúp HS củng cố sâu hơn kiến thức, đồng thời thái độ học tập của HS ở các lớp này ngày càng tốt hơn. b8. Đánh giá chất lượng đề : Chất lượng đề kiểm tra được đánh giá dựa theo kết quả làm bài của HS, cần thấy được sự phân hóa trong phổ điểm đạt được của HS, và ngay cả trong việc thảo luận sôi nổi của HS ngay sau khi nộp bài, đồng thời HS không có thắc mắc trong cách trình bày của đề ra. Nếu đề thi có chất lượng cao được kết hợp với việc coi thi nhiêm túc thì kết quả về điểm số của HS sẽ phân bố rộng đặt biệt thể hiện rõ ở các lớp đầu khối, bên cạnh đó còn có sự thảo luận sôi nổi của HS sau khi làm bài. Được vậy thì GV đã thành công, vì điều đó đã giúp đánh giá chính xác về năng lực của từng học sinh, giúp mỗi Hs càng phấn đấu nhiều hơn trong học tập. b9. Trả bài kiểm tra cho HS : Học sinh luôn mong được biết về kết quả làm bài của mình càng sớm càng tốt nhằm giúp các em điều chỉnh quá trình học tập hoặc phát huy hơn những phương thức học tập hiệu quả của mình, có niềm say mê trong học tập. Vì vậy GV cần trả bài cho HS càng sớm càng tốt. Tuy nhiên chúng ta cần phải chú ý trong trường hợp sử dụng một đề cho nhiều lớp kiểm tra và việc kiểm tra không diễn ra cùng ngày thì phải để khi tất cả các lớp đã được kiểm tra thì mới phát bài cho HS. b10. Đánh giá chất lượng học tập của từng lớp qua kết quả của bài kiểm tra : Cần chắc chắn rằng ở tất cả các lớp đều được làm một đề, việc coi kiểm tra luôn nghiêm túc, thời gian dành cho Hs làm bài kiểm tra dài như nhau, việc phát đề và thu bài nhanh chóng như nhau, và không có sự trao đổi thông tin giữa các HS của lớp được thực hiện kiểm tra trước với các lớp được kiểm tra sau thì việc đánh giá chất lượng học tập của từng lớp mới chính xác. Để hạn chế được hậu quả trong trường hợp HS trao đổi thông tin về đề kiểm tra, GV có thể sử dụng việc phát các mã đề cho HS ở lớp làm kiểm tra sau theo những trật tự khác đối với 11 các lớp trước đó, và việc coi kiểm tra phải nghiêm ngặt hơn để có thể phát hiện những trường hợp HS ghi sẵn đáp án ở đâu đó rồi ghi vào bài làm của mình. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Qua việc thực hiện như trên trong công tác kiểm tra trong gần 3 năm gần đây ( từ năm học 2009 -2010 đến nay ) tôi đã thu đuợc nhiều kết quả rõ rệt trong quá trình giảng dạy ở bộ môn Sinh học. Sau đây là một số bằng chứng về sự phân hóa trong kết quả kiểm tra đánh giá học sinh đối với môn Sinh học ở một số lớp 12 do tôi đảm nhiệm ( kiến thức khó nhớ, đề kiểm tra dàn trải ở nội dung nhiều bài học, không kiểm tra chung – kiểm tra 1tiết không chia phòng...). Kết quả vài cột kiểm tra môn Sinh học ở khối 12 - học kì I - năm học 2011-2012 Cột KT Vấn đáp 1tiết 15 phút lần 2 Điểm Lớp 12A1/43 12A2/43 12A3/37 12A6/45 12 A10/33 12 A11/36 03,5 3 4 7 12 9 15 >3,5<5 5 5 2 4 7 1 >58 22 22 18 25 14 17 Từ >810 13 12 10 4 3 3 03,5 0 0 0 1 3 2 >3,5<5 1 9 13 14 9 19 >58 39 32 24 30 21 15 Từ >810 3 2 0 0 0 0 03,5 0 3 7 6 9 5 >3,5<5 2 2 2 10 7 6 >58 34 28 24 28 16 25 Từ >810 7 10 1 1 1 0 Nhận xét : Kết quả về điểm kiểm tra của HS đã thể hiện rõ sự phân hóa về trình độ, năng lực của các đối tượng HS qua từng lớp trong cùng một khối của trường : Tỉ lệ HS có điểm trong khoảng 03,5 tăng dần từ 12A1 đến 12A11 và tỉ lệ HS có điểm trong khoảng từ > 5 10 giảm dần từ 12A1 đến 12A11. Càng khẳng định ở lớp 12A1 có tỉ lệ học sinh khá và giỏi cao nhất khối còn ở lớp 12A11 có tỉ lệ HS yếu cao nhất khối; và trong 3 lớp thuộc ban KHTN của khối 12 thì lớp 12A3 có chất lượng thấp nhất. 12 IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Theo tôi, kinh nghiệm về thực hiện kiểm tra vấn đáp trong nội dung đề tài này nên được áp dụng rộng rãi ở các bộ môn khoa học xã hội như Văn, Sử, Địa, GDCD…; và kinh nghiệm thực hiện kiểm tra trắc nghiệm nên được áp dụng ở các môn học như Sinh học, Hóa học, Vật lý, ngoại ngữ thì mới đem lại kết quả như mong muốn. Cần nhân rộng việc thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá trong trường, đặc biệt cho các giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm, nhằm phát huy năng lực quản lí học sinh của những GV này, góp phần nâng chất lượng dạy học ở trường THPT Long Phước lên ngang tầm với nhiều trường chuẩn trong tỉnh Đồng Nai. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên – Bộ GD và ĐT - Nhà xuất bản giáo dục – 2007 2. Làm chủ phương pháp giảng dạy – MADELINE HUNTER & ROBIN HUNTER – Nhà xuất bản ĐHQG TP HCM – 2005 Long Phước, ngày 10/11/2011 NGƯỜI THỰC HIỆN TRƯƠNG THỊ THANH THỦY 13 SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị Trường THPT Long Phước CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ................................, ngày tháng năm PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011- 2012 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC Họ và tên tác giả:TRƯƠNG THỊ THANH THỦY Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường THPT Long Phước Lĩnh vực: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: ...............................  - Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: …………………… Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành  1. Tính mới  - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiệu quả - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng