Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN THANH OAI
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH MAI
====***====
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SƠ YẾU LÝ LỊCH
Họ và tên :
Nguyễn Thị Duyên
Ngày tháng năm sinh:
06 - 08 -1980
Năm vào ngành:
2009
Chức vụ :
Giáo viên
Đơn vị công tác:
Trường Tiểu học Thanh Mai - Thanh Oai.
Trình độ chuyên môn:
Cao đẳng sư phạm Tiểu học
Hệ đào tạo:
Chính quy
Bộ môn giảng dạy:
Giáo viên chủ nhiệm lớp 3D
Trình độ ngoại ngữ:
Anh văn
1
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tên đề tài:
Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn
2. Lí do chọn đề tài:
Bậc Tiểu học là một bậc học cơ sở, nền móng, tạo đà cho các bậc học khác, là
một bậc học không thể thiếu trong tất cả các bậc học. Một bác nông dân hay một
anh lái xe ôm, họ có thể chỉ học hết cấp Tiểu học mà không cần học cấp học
khác (cấp 2 hoặc cấp 3). Một kỹ sư không thể bỏ qua cấp Tiểu học để học các
cấp học trên mà trở thành kỹ sư được. Hay một Nguyên thủ Quốc gia cũng vậy,
ông ta cũng phải học qua cấp Tiểu học rồi mới đến học cấp khác. Giáo sư Ngô
Bảo Châu của chúng ta có được giải Toán học danh giá như vậy cũng phải học
qua cấp tiểu học. Vậy đây là một bậc học nền móng cực kì quan trọng.
Không những thế, bậc học Tiểu học còn là bậc học nền tảng mang tính toàn
diện ở cả 9 môn học. Cùng với các môn học khác, môn Toán có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Vì thế nó
chiếm khoảng thời gian đáng kể trong nội dung giảng dạy ở tất cả các trường
phổ thông. Các kiến thức, kĩ năng môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong
đời sống thực tế. Nó là chìa khóa mở ra cho các ngành học khác. Kiến thức, kĩ
năng môn Toán ở bậc tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện
tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và
trong đời sống. Các kiến thức Toán được sắp xếp đồng tâm mang tính chất kế
thừa; mỗi nội dung được sắp xếp theo trình tự hợp lý, phù hợp với tâm lí lứa tuổi
học sinh tiểu học. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm
kết thúc của giai đoạn một, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải
nắm chắc được tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng và các kĩ năng
2
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
khác nói chung. Thông qua môn toán, học sinh được trang bị một hệ thống kiến
thức cơ bản về nhận thức đồng thời cũng tích lũy được những kinh nghiệm để
tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh, tạo đà cho hoạt động học tập ở các cấp
học tiếp theo.
Mặt khác, môn Toán giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng
không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp,
kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn Toán còn góp phần
rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, góp
phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học
sinh. Đặc biệt là giải toán có lời văn, nó thể hiện rõ ràng năng lực vận dụng tri
thức toán học và khả năng phát triển ngôn ngữ của học sinh. Đồng thời qua giải
toán, giáo viên cũng rễ phát hiện những ưu điểm và khắc phục thiếu sót.
Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp tiểu học, đặc biệt nhiều năm liền đứng
lớp ở khối 3, tôi thấy: Toán có lời văn chiếm một vị trí rất quan trọng trong
chương trình toán ở trường Tiểu học. Các em được làm quen với toán có lời văn
ngay từ lớp một, đặc biệt là học kỳ II lớp 1, các em đã viết câu lời giải cho phép
tính. Toán có lời văn ở lớp 3 là kế thừa toán có lời văn ở các lớp 1, 2; mở rộng,
phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh
lớp 3. Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và
phát triển trình độ tư duy của học sinh (phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự nhận
xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định...).
Vậy làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, biết phân tích, thiết lập các mối
quan hệ giữa các dữ liệu đã cho với yêu cầu của bài toán, viết được tóm tắt, nêu
được câu lời giải hay, phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và sự
nỗ lực không biết mệt mỏi của người giáo viên đứng lớp.
Là một giáo viên đã có nhiều năm trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở khối
lớp 3, qua kinh nghiệm của bản thân, qua trao đổi kinh nghiệm cùng đồng
nghiệp, tôi đã rút ra được: “Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 giải toán
3
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
có lời văn” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói
chung và đối với học sinh lớp 3 nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đối với học sinh lớp 3 nói riêng hay học sinh tiểu học nói chung chủ yếu các
em tư duy trực quan, cụ thể; vốn ngôn ngữ của các em còn nghèo, khả năng
phân tích tổng hợp chưa cao. Mà chương trình toán có lời văn ở lớp 3 lại đòi hỏi
học sinh phải biết giải và trình bày bài giải các bài toán. Chính vì vậy tôi đã tập
trung nghiên cứu việc dạy và học giải toán có lời văn lớp 3 cho cả thầy và trò.
4. Đối tượng nghiên cứu:
- Giải toán có lời văn lớp 3.
5. Đối tượng khảo sát thực nghiệm:
- Học sinh lớp 3D trường Tiểu học Thanh Mai.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Quan sát.
- Hỏi đáp.
- Luyện tập thực hành.
7. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
- Thời gian thực hiện: 1 năm học.
- Từ tháng 9 - 2012 đến tháng 4 – 2013.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- Như chúng ta đã biết, toán có lời văn chiếm một vị trí rất quan trọng trong môn
Toán lớp 3. Việc giải toán có lời văn ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện
tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước
giúp các em phát triển năng lực tư duy (so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp,
4
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
trừu tượng hóa, khái quát hóa); phát triển trí tưởng tượng không gian, tập nhận
xét các số lượng thu thập được; rèn luyện phương pháp suy luận l«gÝc; diễn đạt
gọn, rõ, đúng các thông tin. Thông qua giải toán có lời văn, học sinh sẽ được rèn
luyện phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch,
sáng tạo, hăng say và miệt mài trong công việc, vượt khó khăn, cẩn thận, kiên
trì, tự tin. Vì mỗi bài toán có lời văn thường là một tình huống có vấn đề cần giải
quyết. Tình huống đó có thể phản ánh các vấn đề của thực tiễn. Nội dung bài
toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ
thuộc có liên quan đến cuộc sống thường xảy ra hàng ngày.
Trong những năm gần đây, sở giáo dục luôn quan tâm mở nhiều chuyên đề về
phương pháp dạy học mới ở các môn học. Đặc biệt là môn Toán nhằm phát huy
tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh trong quá trình đi tìm tri thức và đạt
được mục tiêu toàn diện của quá trình giáo dục.
Cái khó của giải bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ
được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói
một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán
học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải, phép tính thích
hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Vậy để giải được những bài toán có
lời văn ở lớp 3, đòi hỏi mỗi học sinh phải biết suy luận, biết phân tích, biết so
sánh, tổng hợp. Nhưng ở lứa tuổi này, đặc điểm tư duy của học sinh chưa phát
triển chủ yếu là tư duy trực quan, đơn giản, cụ thể; vốn ngôn ngữ của các em
còn nghèo, khả năng phân tích tổng hợp còn chưa cao. Mà chương trình toán có
lời văn ở lớp 3 lại đòi hỏi học sinh phải biết giải và trình bày bài giải các bài
toán đơn (có một phép tính) và các bài toán hợp (có đến hai bước tính) với các
dạng cơ bản như: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số; gấp một số lên
nhiều lần; giảm đi một số lần; so sánh số lớn gấp mấy lần số bé; so sánh số bé
bằng một phần mấy số lớn; bài toán liên quan đến rút về đơn vị; bài toán có nội
dung hình học …
5
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
Làm thế nào để học sinh hiểu và giải được theo yêu cầu của chương trình mới
hiện nay, đó là điều cần trao đổi giữa chúng ta - những người trực tiếp giảng dạy
cho các em. Đây quả là bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán học nói
chung và chương trình toán lớp 3 nói riêng. Nhưng nếu như ngay lớp hai, lớp 3
các em đã nắm bắt được cách giải toán có lời văn và giải một cách thành thạo thì
khi lên lớp 4, 5 các em sẽ dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện trang
bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt các lớp trung học
cơ sở.
- Trong mỗi nhà trường hiện nay, lượng kiến thức cung cấp cho học sinh là có
hạn mà mong muốn hiểu biết của con người khi vào đời là vô hạn. Điều đó đòi
hỏi mỗi thầy cô phải giúp học sinh có phương pháp học và lòng ham học.
Qua thực tế nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy:
*. Về phía giáo viên:
Khi dạy học sinh giải toán có lời văn, một số giáo viên còn nói nhiều, làm
mẫu nhiều mà không chú ý đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh. Mỗi giáo viên dạy còn áp dụng các phương pháp dạy học một cách
máy móc, áp đặt, do trình độ nhận thức, do khâu chuẩn bị bài chưa tốt hay do
việc nắm bắt các phương pháp dạy học mới còn nhiều hạn chế nên phần nào ảnh
hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
*. Về phía học sinh:
Khi giải các bài toán có lời văn, các em thường làm rất chậm so với các dạng
toán khác. Nhiều em còn lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có em làm
phép tính chính xác, nhanh chóng nhưng không tìm được câu lời giải đúng hoặc
không tìm được câu lời giải phù hợp với phép tính. Thậm chí có một số em còn
đọc chưa đúng các ngôn từ trong bài toán. Vì vậy nhiều khi dạy học sinh đặt câu
lời giải phù hợp còn vất vả hơn nhiều so với dạy các em thực hiện các phép tính
đó để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải cho phép tính là một khó khăn lớn đối với một số em học
sinh, nhất là đối với học sinh trung bình và học sinh yếu. Các em mới chỉ đọc
6
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
được đề toán chứ chưa hiểu được đề toán, chưa trả lời được các câu hỏi thầy
(cô) nêu: Bài toán cho biết cái gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?... Nên đến khi giải
bài toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải.
Những nguyên nhân trên một phần là do kỹ năng nghe, đọc, nói, viết của các em
còn yếu; một phần là do các phương pháp áp dụng, truyền đạt của người thầy
chưa đúng hoặc chưa phù hợp. Đây cũng chính là lý do khiến tôi chọn đề tài này
với mong muốn tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải
toán có lời văn cho học sinh lớp Ba nói riêng và trong môn toán nói chung. Để
từ đó, các em có thể giải thành thạo những bài toán có lời văn khó và phức tạp
hơn, tạo đà tốt cho các em có kĩ năng giải toán cho các lớp trên.
1. Tình hình thực tế khi chưa thực hiện đề tài.
a. Đặc điểm tình hình chung của lớp 3D như sau :
- Năm học 2012 – 2013, tôi được phân công giảng dạy lớp 3D, trường Tiểu
học Thanh Mai – huyện Thanh Oai. Lớp 3D do tôi giảng dạy có 25 học sinh
trong đó:
+ Nữ: 16 em; nam: 9 em.
+ Con cán bộ công chức: 1 em
+ Con gia đình nông nghiệp: 24 em
THÔN
SỐ LƯỢNG
Xóm Mới – Nga My Hạ
14 em
Xóm Bến – Nga My Hạ
8 em
Xóm Trại – Nga My Hạ
3 em
7
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
- Học sinh có hoàn cảnh khó khăn là 4 em đều có hoàn cảnh vô cùng khó
khăn, kinh tế gia đình chỉ trông chờ vào việc làm hương của mẹ , việc học của
các em không hề được quan tâm. Cụ thể đó là em Lê Thanh Hiền, Bố mẹ bỏ
nhau ở với bà ngoại. Em Chu Hải Yến, Phạm Thị Giang, Nguyễn Bảo Tuấn, gia
đình thuộc hộ đói nghèo. Bên cạnh đó cũng có một số rất ít các em được gia
đình quan tâm chu đáo như em Trọng Cường, em Ly, .. Song cũng có một số gia
đình kinh tế khá giả nhưng mải làm ăn buôn bán nên việc học của các em cũng
không được quan tâm đầy đủ như em Tài Lộc, Minh Ánh …
* Về đạo đức : 24 em thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ , đạt 96 %
* Về học tập : Khảo sát hai môn Toán và Tiếng Việt kết quả như sau:
Môn
Sĩ số
Giỏi
%
(em)
Khá
%
(em)
Trung
%
Bình
Yếu
%
(em)
(em)
Toán
Tiếng
25
8
32
7
28
8
32
2
8
việt
25
5
20
10
40
7
28
3
12
Trên đây là đặc diểm tình hình chung và khảo sát chất lượng, đánh giá đạo đức
đầu năm của lớp 3D mà tôi phụ trách.
b. Đặc điểm và thực trạng dạy học toán có lời văn của lớp.
Qua thực tế giảng dạy cũng như qua việc tham khảo các bài kiểm tra, tôi nhận
thấy:
Khi giải các bài toán có lời văn:
- Học sinh thường đọc bài qua loa không biết phân tích đề toán để hiểu nội
dung, yêu cầu của đề bài.
- Việc tóm tắt, tìm hiểu đề toán có nhiều khó khăn đối với một số học sinh
trung bình và học sinh yếu. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em còn chưa tốt
nên các em đọc được đề toán và hiểu được đề còn thụ động và chậm chạp.
8
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
- Nhiều em chưa biết tìm câu lời giải cho phép tính hoặc tìm câu lời giải
không phù hợp với phép tính.
- Một số học sinh yếu đọc đề toán còn sai nhất nhiều về ngôn từ trong bài
toán như: Em Tuấn, em Cường, em Yến ...
2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.
Sau khi nhận lớp, tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán của 25 học sinh lớp 3D và
thu được kết quả ban đầu sau:
Sĩ số
Kĩ năng giải chậm Đọc đề toán chậm
Giải
và chưa nắm được
thành
cách giải
tạo
25 em
5 em = 20 %
12 em = 48 %
8 em = 32 %
Từ thực trạng trên, để công tác giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn, giúp các em
học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giải toán nói riêng và
chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội
dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:
III. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Giải toán là một dạng hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kĩ
năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ năng tính toán, vì các bài toán là sự kết
hợp đa dạng nhiều kĩ năng, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ nhớ
mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi phải nắm chắc kỹ năng phân tích các dữ kiện có
trong đề toán. Có tư duy khái quát hóa, phân tích tổng hợp các kiến thức đã học,
đồng thời còn đòi hỏi ở các em khả năng độc lập suy luận. Mặt khác do đặc thù
của mỗi vùng miền, mỗi địa phương cũng tác động trực tiếp đến sự phát triển tư
duy của mỗi học sinh. Vì vậy, người thầy phải có định hướng cho thật phù hợp
9
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
để các em giải toán một cách sáng tạo. Tóm lại, để giúp các em thực hiện các
hoạt động trên có hiệu quả, tôi tiến hành như sau:
1- Kết hợp với cha mẹ học sinh thống nhất biện pháp giảng dạy.
Chúng ta đều biết, học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng
đến trường còn phụ thuộc hoàn toàn vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và
thầy cô. Các em chưa có ý thức tự giác học tập. Chính vì vậy, giáo dục ý thức
tích cực trong học tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng để
giúp các em học tốt hơn.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học tập của
nhiều em còn chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “ hai không” của ngành
giáo dục và đào tạo; đồng thời giúp phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc
giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh các chỉ tiêu
phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần thiết để giúp các em học tập tốt hơn
như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, cách hướng dẫn các em tự học ở
nhà: Đặc biệt là vào buổi tối phụ huynh cần bớt đi một chút thời gian trò truyện
với bạn bè, công việc khác giành thời gian nhắc nhở quan tâm đến học tập của
các em. Và rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp
trên. Với phần bài tập của sách giáo khoa toán, tôi hướng dẫn phụ huynh dạy các
em luyện đọc nhiều lần đề toán để hiểu đề, để biết bài toán cho biết gì, hỏi gì rồi
mới tìm hướng giải. Cần cho các em luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và
trả lời nhiều lần.
Tuy nhiên, trong các buổi họp phụ huynh vẫn còn một số phụ huynh vắng
mặt do có một số việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc
học và còn do điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học hành
của con em cho giáo viên, nhà trường. Đối với phụ huynh vắng mặt này, tôi tìm
cách gặp gỡ tại nhà hoặc trao đổi qua điện thoại. Các gia đình này phần lớn do
trình độ văn hóa còn thấp nên không có phương pháp dạy con hoặc dạy con
không đúng cách, chỉ biết nhắc nhở con “học bài đi” mà không quan tâm xem
con học gì, học như thế nào, làm bài đã đúng chưa, có gì cần sửa chữa hay
10
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
không, hoặc các em làm bài xong rồi nhưng không có sự nhận xét đúng đắn cho
những chỗ sai, cần sửa chữa như thế nào. Đối với những em này tôi phải hướng
dẫn nhiều hơn ở lớp để các em có thể tự mình làm bài, kiểm tra lại kết quả mà
mình đã làm khi tự học ở nhà. Với một số học sinh thiếu sách giáo khoa, tôi trao
đổi với phụ huynh, động viên phụ huynh mua sách giáo khoa đầy đủ cho con
em. Nếu gia đình đó không đủ điều kiện mua sách cho con em mình thì tôi đề
xuất với Nhà trường mua hỗ chợ cho các em bộ sách hay mượn sách dùng chung
trong tủ sách dùng chung của Nhà trường.
2 – Kết hợp rèn các kĩ năng đọc, nghe, nói, viết, phân tích và tóm tắt đầu bài
trong giải toán.
Như chúng ta đã biết, việc đọc thành thạo, lưu loát là điều kiện rất cần thiết
cho việc giải toán có lời văn. Các em có đọc thành thạo, lưu loát thì mới hiểu
được bài toán cho biết gì và yêu cầu tìm gì?
Để giúp học sinh có được kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì giáo viên
không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà còn cần luyện cho học sinh kĩ
năng nghe, đọc, nói, viết trong các giờ học khác.
Đối với học sinh lớp 3, đặc biệt là một số em có học lực trung bình, yếu còn
rất thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em tự tin mạnh dạn khi
phát biểu, trả lời thì giáo viên cần phải luôn gần gũi, khuyến khích các em mạnh
dạn giao tiếp, tổ chức các trò chơi toán học để học tập. Cho các em được trao
đổi nhiều trong giờ Tiếng việt hay các môn học khác. Từ đó giúp các em tích
lũy thêm vốn từ vựng và sử dụng vốn từ có hiệu quả hơn. Trong các tiết học các
em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên
cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý rèn kĩ năng đọc và nghe cho học sinh.
Đọc nhanh, đọc đúng tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ, biết nhấn giọng ở những từ
ngữ quan trọng sẽ giúp học sinh có kĩ năng nghe để hiểu được những nội dung
yêu cầu của bài toán nêu ra.
11
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
Song song với việc rèn cho học sinh kĩ năng đọc, nghe thì giáo viên cần chú ý
rèn cho học sinh kĩ năng nói, viết. Vì khi các em diễn đạt được những điều mà
mình hiểu nghĩa là các em đã lắm bắt được bài toán và trình bầy được bài giải
theo ý của mình mà không hoàn toàn bị thụ động vào ý kiến của bạn bè hay thầy
cô.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy khả năng suy luận của các em còn kém. Vì
vậy ngoài việc rèn kĩ năng đọc, nghe, nói, viết tôi còn rèn cho học sinh kĩ năng
phân tích, tổng hợp trước một đề toán. Vì khả năng chuyển một bài toán đơn
sang việc hình thành các bước giải một bài toán hợp của học sinh còn yếu và có
nhiều hạn chế. Khi giải các em chưa tập hợp được kiến thức, nhiều em còn lúng
túng kể cả một số em có lực học khá. Điều đáng chú ý ở đây là cách đặt lời giải
phù hợp cho phép tính, rất nhiều em chưa biết đặt lời giải hoặc lời giải đưa ra
chưa hợp lý do các em chưa được uốn nắn nhiều trong quá trình học tập.
*Tóm lại, để giúp học sinh giải được toán có lời văn thành thạo, tôi luôn chú
ý rèn luyện kĩ năng đọc, nghe, nói, viết; kĩ năng phân tích, tổng hợp cho học
sinh trong các giờ học, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo, phân tích tổng hợp
tốt là yếu tố “đòn bẩy” giúp các em hiểu rõ được vấn đề và tìm cách giải quyết
vấn đề một cách thành thạo.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở sách giáo khoa toán 3 – trang 50 “Thùng thứ
nhất đựng 18ℓ dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6ℓ dầu. Hỏi cả
hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”
Tôi yêu cầu học sinh đọc nhiều lần bài toán, tập nêu bằng lời để tóm tắt bài
toán:
Thùng 1 có: 18ℓ
Thùng 2 có: nhiều hơn 6ℓ
Hỏi cả hai thùng: ?lít dầu?
Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài toán, tôi tiếp tục hướng dẫn
học sinh tập tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:
Thùng 1
Thùng 2
18ℓ
12
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
?ℓ
6ℓ
Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng tôi
tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải cho bài toán:
+ Nhìn vào sơ đồ ta thấy: muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải
tìm gì? (Tìm số lít dầu ở thùng thứ hai)
+ Yêu cầu học sinh nêu miệng lời giải cho phép tính thứ nhất:
Thùng thứ hai đựng số lít dầu là:
Học sinh nêu phép tính: 18 + 6 = 24 (ℓ)
+ Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai:
Cả hai thùng đựng được số lít dầu là:
18 + 24 = 42 (ℓ)
Tuy nhiên, ở phép tính thứ hai, tôi thấy một số em thực hiện tìm số lít dầu ở
cả hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 (ℓ)
Đối với những em này, khả năng tư duy của các em chưa tốt, các em chưa
nắm vững được yêu cầu của bài toán. Đây là trường hợp nằm trong nhóm những
học sinh yếu, tôi phải hướng dẫn các em hiểu rõ: Muốn tìm số dầu ở cả hai
thùng ta phải làm tính gì? Để các em nêu được: Làm tính cộng “Lấy số dầu ở
thùng thứ nhất + số dầu thùng thứ hai ” và giúp các em thấy được số dầu ở thùng
thứ nhất là 18ℓ, số dầu ở thùng thứ hai là 24ℓ.
Ở dạng bài này, giáo viên cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán và tập
tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng nhiều lần để các em ghi nhớ được bài
toán.
Ví dụ: Với bài tập số 3 (trang 50 – SGK Toán 3)
Bao gạo
27kg
5kg
Bao ngô
13
?kg
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt để hiểu đề bài cho gì và
yêu cầu tìm gì? Rồi nêu đề toán bằng lời giải theo yêu cầu.
Học sinh nêu: Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả
hai bao gạo và ngô nặng tất cả bao nhiêu ki – lô – gam?
Sau đó tôi cho các em luyện cách trả lời miệng
. Bao ngô nặng số kg là: 27 + 5 = 32(kg)
. Cả hai bao gạo và ngô nặng số kg là: 32 + 27 = 59 (kg)
Rồi các em tự trình bày bài giải:
Bài giải
Bao ngô nặng số ki – lô – gam là:
27 + 5 = 32(kg)
Cả hai bao gạo và ngô nặng số ki – lô - gam là:
32 + 27 = 59 (kg)
Đáp số: 59 kg
Với bài toán này tôi có thể gợi ý cho học sinh khá giỏi đặt được đề toán khác
như: Bao gạo nặng 27 kg và nhẹ hơn bao ngô 5kg. Hỏi cả hai bao gạo và ngô
nặng bao nhiêu ki – lô – gam?
3 – Hình thành kĩ năng giải toán.
Khác với lớp 3 của chương trình cải cách giáo dục, chương trình Toán lớp 3
mới, các bài toán có lời văn thường được cho dưới các dạng sau:
+ Các bài toán về nhiều hơn, ít hơn.
+ Các bài toán về ý nghĩa phép nhân, phép chia.
+ Các bài toán về gấp một số lên nhiều lần hoặc giảm đi một số lần.
+ Các bài toán về tìm một phần mấy của một số.
+ Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
+ Các bài toán có nội dung hình học.
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh
các kĩ năng giải toán theo các bước sau:
14
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán
Ở bước này, giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ đề toán, gạch chân dưới những
từ cần lưu ý để giúp các em hiểu một số từ ngữ, thuật ngữ quan trọng nói nên
những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như
1 1
“Gấp đôi”, “Bằng nửa”, “ 3 , 4 …”, “Tất cả”…từ đó các em sẽ hiểu nội
dung, nắm bắt được bài toán cho biết gì, yêu cầu phải tìm cái gì? Nếu trong bài
toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh hiểu
được ý nghĩa và nội dung của các từ ngữ đó ở trong bài toán đang làm, sau đó
giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng lời, hình vẽ hoặc bằng sơ đồ.
Đối với những học sinh có kĩ năng đọc, nghe, nói, viết chậm tôi yêu cầu các
em đó đọc nhiều lần và kết hợp dùng phương pháp giảng giải kèm theo các đồ
vật, tranh minh họa để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán.
Qua đó, học sinh có thể hiểu được yêu cầu của đề toán và dựa vào các câu hỏi
của đề toán để nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi các em
tự trình bày bài giải vào vở.
Ví dụ: Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127 kg cà chua, ở thửa ruộng
thứ hai gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi cả hai thửa ruộng thu
hoạch được bao nhiêu ki – lô – gam cà chua?
Với bài toán này, tôi cho học sinh tìm hiểu thuật ngữ “thu hoạch” nghĩa là
gì? (Đồng nghĩa với việc hái cà chua để sử dụng); thuật ngữ “số cà chua ở thửa
ruộng thứ hai gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất” và gạch chân dưới
các từ ngữ “gấp 3 lần” “cả hai thửa ruộng” rồi hướng dẫn học sinh nắm bắt
nội dung của bài toán bằng các câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì ? (Biết số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất là 127 kg)
+ Bài còn cho biết gì nữa ? (Biết số cà chua ở thửa ruộng thứ hai gấp 3 lần số
cà chua ở thửa ruộng thứ nhất)
+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (Tìm số cà chua ở cả hai thửa ruộng)
15
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
Bước 2: Tìm cách giải bài toán
Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập mối quan hệ giữa các dữ
liệu đã cho (giả thiết) với yêu cầu của đề bài (kết luận) để tóm tắt bài toán bằng
ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ từ đó tìm ra phép tính
tương ứng.
a. Chọn phép tính giải thích hợp
Sau khi học sinh tìm hiểu đề toán, xác định cái đã cho và cái phải tìm, giáo
viên cần giúp đỡ học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Thông thường chọn
“phép chia” nếu bài toán yêu cầu “ tìm
1 1
,
3 4
…”, chọn “phép trừ” nếu bài
cho là “bớt đi” hoặc bài yêu cầu “tìm phần còn lại” hay “lấy ra”. Chọn
“phép nhân” nếu bài cho là “gấp đôi, gấp ba…”. Chọn “phép cộng” nếu bài
cho “nhiều hơn” hay đề bài yêu cầu “tìm tất cả”.
Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa
được
1
3
quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét
đường nữa? (bài tập số 2 – Toán 3, trang 119)
Để giải được bài toán này, học sinh phải tìm ra được mối quan hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm. Giáo viên hướng dẫn, học sinh suy nghĩ giải bài toán thông
qua các câu hỏi gợi ý như:
+ Bài toán cho biết gì? (phải sửa quãng đường dài 1215m)
1
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (dã sửa được 3 quãng đường)
+ Bài toán hỏi gì? (đội công nhân còn phải sửa tiếp bao nhiêu mét đường
nữa?)
+ Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa thì
trước hết ta phải tìm được gì? Học sinh nêu cách tìm? (tìm số mét đường đã sửa
được tức là tìm
1
3
của 1215m là bao nhiêu mét ta làm phép chia lấy 1215 : 3)
16
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
+ Sau khi đã tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (tìm số mét
đường còn phải sửa). Học sinh nêu cách tìm? (tìm phần còn lại tức là làm phép
tính trừ lấy số mét đường phải sửa trừ đi số mét đường đã sửa)
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý học sinh cách lựa chọn phép tính tùy theo từng bài
không nên áp dụng một cách máy móc. Bởi vì có một số bài toán cho “nhiều
hơn” nhưng không phải là chọn phép cộng.
Ví dụ: Lớp 3A có 19 bạn nữ và 16 bạn nam. Hỏi số bạn nữ nhiều hơn số bạn
nam là bao nhiêu bạn?
Với bài toán này thì khi tìm số bạn nữ nhiều hơn số bạn nam là bao nhiêu,
học sinh phải làm phép tính trừ chứ không phải là phép tính cộng.
b. Đặt câu lời giải thích hợp
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp với phép tính là vô
cùng quan trọng và khó khăn, nhất là đối với một số học sinh trung bình, học
sinh yếu ở lớp 3. Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời
giải hay cũng là một khó khăn lớn đối với người dạy. Đối với học sinh mà kĩ
năng nói còn chậm tôi kiên trì kết hợp rèn kĩ năng nói cho các em để các em tự
diễn đạt câu trả lời bằng miệng trước khi viết câu lời giải. Có thể chấp nhận cách
diễn đạt tuy “vụng về”nhưng đúng, rồi uốn nắn sửa dần. Tùy từng đối tượng học
sinh mà tôi lựa chọn các cách hướng dẫn sau:
- Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất)
Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và thay từ cuối “mấy”
hoặc “bao nhiêu” bằng từ “số” rồi thêm từ “là” vào cuối cùng để có câu lời
giải đúng. ( Tìm câu lời giải đối với bài toán đơn và câu lời giải của phép tính
thứ hai đối với bài toán hợp )
Ví dụ: Một cửa hàng có 4238m vải, đã bán được 1635m vải. Hỏi cửa hàng
còn lại bao nhiêu mét vải?
Với bài toán này, giáo viên hướng dẫn học sinh bỏ bớt từ “hỏi” và thay từ
“bao nhiêu” bằng từ “số” rồi thêm từ “là” vào cuối để được câu lời giải: Cửa
hàng còn lại số mét vải là...
17
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
- Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: “Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa
bao nhiêu mét đường nữa trước hết ta cần tìm gì trước?” để học sinh trả lời
miệng: “tìm số mét đường đã sửa” rồi hướng dẫn học sinh chỉ cần bỏ chữ đầu
“tìm” của câu trả lời miệng và thêm từ “là” vào cuối rồi viết phép tính xuống
dòng dưới lùi vào 1 hay 2 ô để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Số mét đường đã sửa là:
1215 : 3 = 405 (m)
Sau đó hướng dẫn học sinh tìm bước giải thứ hai (gồm câu lời giải và phép
tính tương ứng) như cách một đã nói ở trên.
Tóm lại: Tùy từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà giáo viên lưu ý
hướng dẫn các em cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp. Trong một bài
toán học sinh có thể có nhiều cách đặt câu lời giải khác nhau. Giáo viên không
nên gò ép học sinh. Ở mỗi dạng bài cụ thể, tôi đưa ra cho các em suy nghĩ, thảo
luận theo bàn, theo nhóm để tìm ra nhiều câu lời giải đúng và hay nhất, phù hợp
với câu hỏi của bài toán đó. Tuy nhiên, cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách
hay nhất (đúng, ngắn, gọn, dễ hiểu, phù hợp với các em) còn các cách kia giáo
viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải
hay nhất ghi vào bài giải. Điều quan trọng là khi trình bày lời giải, giáo viên cần
giúp đỡ học sinh hiểu rõ quy trình phải làm: Viết được câu lời giải và phép tính
tương ứng. Cần kiên trì để học sinh tự diễn đạt bằng lời của mình. Giáo viên
không nên sốt ruột, vội vàng làm thay. Cái khó của việc giải toán có lời văn đối
với học sinh lớp 3 chính là trình bày bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải
Với các dạng toán có lời văn, học sinh đã phải tự viết câu lời giải, phép tính,
đáp số, thậm chí đôi khi còn phải viết cả tóm tắt nữa. Chính vì vậy, việc hướng
dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn
trong dạy học. Ở bước này, học sinh cần phải biết vận dụng kĩ năng viết một
cách thành thạo để trình bày bài giải theo đúng yêu cầu của giáo viên. Để thực
18
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
hiện được yêu cầu này, trước tiên người dạy cần phải tuân thủ cách trình bày bài
giải theo hướng dẫn, quy định.
Đầu tiên là tên bài (viết sát lề trái có gạch chân) tiếp đó ghi “Tóm tắt” sau
tóm tắt là trình bày bài giải. Từ “Bài giải” ghi ở giữa trang vở, câu lời giải ghi
cách lề khoảng 2 – 3 ô, chữ đầu câu viết hoa, cuối câu có dấu (:), phép tính viết
lùi vào so với câu lời giải khoảng 2 – 3 chữ, cuối phép tính là đơn vị tính được
viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên phải có dấu (:) rồi
mới viết kết quả tính và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa)
Ví dụ: Với bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh trình bầy như sau:
Bài 2 (119)
Tóm tắt:
Phải sửa 1215m
Cách 1: Phải sửa: 1215
Đã sửa:
1
3
Cách 2:
quãng đường
Còn phải sửa: ...m đường?
Đã sửa
?m
Bài giải
Số mét đường đội đã sửa được là:
1215 : 3 = 405 (m)
Đội đó còn phải sửa số mét đường là:
1215 – 405 = 810 (m)
Đáp số: 810 m
*Lưu ý: Trong mọi trường hợp, người giáo viên phải luôn gương mẫu khi
viết trên bảng và phải dùng thước kẻ không dùng tay đồng thời luôn nhắc nhở
học sinh thực hiện theo để rèn luyện tính cẩn thận cho các em. Bên cạnh đó, tôi
còn thường xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp,
tuyên dương trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp và gọi các
19
Mét vµi kinh nghiÖm gióp häc sinh líp 3 gi¶i to¸n cã lêi v¨n
em đó nên bảng trình bày lại bài của mình để các bạn cùng học tập. Với những
học sinh mà kĩ năng trình bày bài còn kém, tôi luôn kèm cặp hướng dẫn tỉ mỉ và
động viên các em để các em cố gắng trong học tập.
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày, tôi cũng luôn nhắc nhở, rèn luyện
cho học sinh kĩ năng viết chữ, viết số đúng mẫu – đẹp. Việc kết hợp giữa chữ
viết đẹp và trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công
trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực
tiếp các biện pháp vào bài dạy dầu tiên về giải toán có lời văn, tôi đã cho học
sinh làm một số dạng bài toán có lời văn như sau:
*Một số ví dụ:
Ví dụ 1: Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh. Hỏi cả hai
anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh?
Với bài toán này, tôi yêu cầu học sinh đọc bài, giáo viên gạch chân dưới
những từ ngữ “anh có 15 tấm”, “em ít hơn”, “tất cả” để học sinh hiểu được nội
dung của bài toán rồi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ:
Tóm tắt:
15 tấm
Anh
Em
? tấm
7 tấm
Sau đó hướng dẫn học sinh phân tích thiết lập mối quan hệ giữa các dữ liệu
để tìm phép tính và đặt câu lời giải phù hợp:
+ Bài toán cho biết gì? (biết anh có 15 tấm bưu ảnh)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (em ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh)
+ Bài toán hỏi gì? (cả hai anh em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh)
+ Muốn biết cả hai anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh cần tìm gì trước?
(Tìm số tấm bưu ảnh của em bằng cách chọn phép tính trừ)
20
- Xem thêm -