Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn một vài kinh nghiệm dạy đọc hiểu và hướng dẫn ôn tập văn bản kịch trong ch...

Tài liệu Skkn một vài kinh nghiệm dạy đọc hiểu và hướng dẫn ôn tập văn bản kịch trong chương trình trung học phổ thông.

.DOC
50
942
65

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn Một vài kinh nghiệm dạy đọc-hiểu và hướng dẫn ôn tập văn bản kịch trong chương trình trung học phổ thông 1. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến 1.1 Từ thực tế bài học: - Văn bản kịch là một kiểu loại văn bản mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình ngữ văn phổ thông vài năm gần đây. Kiểu văn bản này có những nét đặc thù : Được sáng tác về cơ bản là để diễn, bởi đó là một môn nghệ thuật tổng hợp , gắn bó với sân khấu như các bộ phận kết nối chặt chẽ với nhau trên một cơ thể kịch bản. Trong khi đó, việc giảng dạy thể loại này ở nhà trường lại không phải với tính chất một loại hình nghệ thuật, chỉ đơn giản xem xét ở góc độ văn học, cho nên để thưởng thức tác phẩm kịch đúng với tinh thần thể loại đã là một khó khăn, chưa nói đến tổ chức cho học sinh thâm nhập, nắm bắt các giá trị của văn bản kịch thì không phải là việc dễ dàng. Sách giáo khoa THPT đưa vào chương trình ba văn bản kịch: “ Rô-mê-ô và Ju-liet” của U. Sếch-x-pia, “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. Đây đều là các văn bản có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao , nhưng không phải dễ tiếp cận. Do vậy, đọc hiểu một văn bản kịch rất cần được trang bị những kỹ năng cần thiết để đọc đúng yêu cầu đặc trưng thể loại. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng đọc hiểu và ôn tập kịch qua hai văn bản “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ 1.2- Từ thực tế dạy và học kịch bản văn học - Từ người tiếp nhận: Học sinh dù ở bậc THPT nhưng thói quen, nếp nghĩ đã ăn sâu tiềm thức khi đứng trước yêu cầu đọc hiểu một văn bản bao giờ cũng tư duy theo thói quen khi đọc một văn bản văn học. Cho nên, học sinh thường khá lúng túng trong thao tác đọc hiểu văn bản kịch từ khâu xác định vấn đề cho đến cách đọc từng phần và quá trình làm bài tập vận dụng. Vẫn biết đọc hiểu kịch là công việc khó khăn với người học nhưng hi vọng với sự hướng dẫn của người dạy học sinh sẽ chủ động và hứng thú hơn - Xuất phát từ phía người dạy: trên thực tế có nhiều giáo viên giảng dạy văn bản này sa đà vào tìm nội dung chính, nhân vật chính và chủ đề văn bản và nhanh chóng biến một giờ dạy đọc hiểu thành một giờ học văn bản truyện thông thường. Nhiều giáo viên 1 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn giảng dạy kịch chủ yếu dựa vào sách giáo viên. Dù đây là bộ sách có nhiều mặt mạnh, nó là tài liệu định hướng quan trọng cho mỗi bài giảng của giáo viên, tuy nhiên đó mới chỉ là những gợi ý rất chung chung, người thầy cần định lượng kiến thức để dạy cho phù hợp. Một số chưa biết lựa chọn những kiến thức cơ bản, bài giảng chưa phù hợp với đối tượng học sinh, tham kiến thức mà chưa áp dụng lý thuyết loại thể, dẫn đến hứng thú học văn của học sinh chưa được phát huy. Một số giáo viên tung hứng giảng dạy kịch mà quên mất các lời thoại nhân vật, dẫn tới dạy học thoát ly kiến thức của hành động kịch. Hầu như hoạt động liên môn để mở rộng kiến thức, đào sâu hiểu biết của học sinh với loại hình nghệ thuật tổng hợp này không có Kết quả là học sinh học xong văn bản nhưng không hiểu gì về nghệ thuật tạo dựng tình huống, xây dựng xung đột kịch, về cách dẫn dắt mâu thuẫn của kịch, về hành động kịch như thế nào.Với bản thân người viết, trải qua những khó khăn ban đầu, những vướng mắc và quá trình nỗ lực tìm ra một cách thức khai thác và hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản một cách có hiệu quả , người dạy bước đầu có nhứng đúc rút làm kinh nghiệm đem ra trao đổi cùng đồng nghiệp . - Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết, người viết chỉ bàn đến hướng tiếp cận một văn bản kịch theo thể loại bi kịch nói chung và vận dụng qua hai văn bản : Vĩnh biệt Cửu trùng đài- Trích kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ 2. Thực trạng trước khi tạo ra sáng kiến - Cách dạy và học phổ biến mà cá nhân người viết cũng từng vận dụng: Coi văn bản kịch như một văn bản văn học thông thường, tương đồng với thể loại tự sự. Việc tổ chức giờ học đọc hiểu và ôn tập cho học sinh không khác gì giờ học đọc hiểu văn bản tự sự: chú ý đến nhân vật cùng với đặc điểm tính cách của nó; chú ý đến chi tiết, cốt truyện…; những câu hỏi ôn tập cũng xoay quanh các vấn đề cơ bản đó. Kết quả là , học sinh học xong không thấy có gì khác biệt so với đọc hiểu một tác phẩm tự sự . Học sinh khá thụ động, máy móc, trông chờ vào sách để học tốt, tài liệu tham khảo, không có khả năng đánh giá, cắt nghĩa, lý giải vấn đề - Cách dạy và học theo hướng tích cực, bám sát đặc trưng thể loại, bám sát yêu cầu đổi mới trong dạy và học và kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục- đào tạo: Người viết chú trọng đến khâu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học ở nhà với các câu hỏi và hoạt động 2 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn cụ thể, vừa sức; Chú ý trang bị cho học sinh các kiến thức lý luận và lịch sử, tác giả có liên quan( dưới các hình thức: qua bài học, qua tài liệu cung cấp trước, qua mạng Internet) ; Thiết kế giáo án với nội dung và hệ thống câu hỏi bám sát đặc trưng thể loại với phương pháp phù hợp như phân tích, cắt nghĩa, bình giá, tổng hợp; Tổ chức giờ học vận dung kỹ thuật dạy học hiện đại , phát huy tính tích cực của học sinh; Hướng dẫn học sinh ôn tập với kiểu câu hỏi đọc hiểu và vận dụng làm bài nghị luận văn học - Cách làm thứ hai học sinh đã chủ động và hứng thú hơn, năng lực tư duy được rèn luyện nhiều hơn. Tuy nhiên , những đổi mới ban đầu rất cần được rút kinh nghiệm để hiệu quả bài dạy được cao hơn. Sáng kiến Một vài kinh nghiệm tổ chức dạy đọc- hiểu và ôn tập văn bản kịch trong trường THPT hướng tới điều đó 3. Giải pháp 3.1. Về nhận thức và tư tưởng 3.1.2. Nhận thức đúng về mục tiêu bài dạy - Mục tiêu: + Kiến thức:Giúp học sinh nắm vững được bi kịch của con người được phản ánh qua hai vở kịch: khi bị dặt vào nghịch cảnh hồn nọ xác kia- hồn Trương Ba, khi có tài năng , tâm huyết nhưng bế tắc trước hiện thực khắc nghiệt- Vũ Như Tô; Thấy được giá trị tư tưởng của vở kịch, tài năng của tác giả qua việc dẫn dắt xung đột kịch, hành động kịch… + Kĩ năng: Hình thành kỹ năng đọc hiểu một văn bản kịch + Thái độ: Rèn luyện một lối sống có ý nghĩa 3.1.2. Nhận thức đúng về thể loại kịch và tiểu loại bi kịch. - Kịch: Kịch là một trong ba loại hình văn học bên cạnh tự sự và trữ tình. Kịch được coi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, vừa thuộc về sân khấu vừa thuộc về văn học. Để đến được với công chúng trong tư cách một vở diễn, kịch đòi hỏi sự tham gia của nhiều người : đạo diễn, diễn viên, hoạ sĩ thiết kế mỹ thuật, nhạc công, người phụ trách ánh sáng, âm thanh. Trong tư cách là một tác phẩm văn học, kịch tồn tại dưới dạng kịch bản văn học, độc giả có thể cảm thụ bằng việc đọc. Do đặc tính riêng ( sáng tác để trình diễn trên sân khấu hoặc đưa lên màn ảnh, bị chi phối bởi các yếu tố không gian và thời gian thực tế) kịch khó có thể chứa đựng một 3 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn dung lượng hiện thực rộng lớn như trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự, cũng không mang xu hướng bộc lộ những rung động, những cảm xúc và suy ngẫm như trong các tác phẩm trữ tình, kịch khám phá và diễn tả đời sống bằng việc phát hiện những mâu thuẫn và xung đột, coi đó như một phương diện bộc lộ bản chất của đời sống hiện thực đồng thời cũng làm nên hình thức tồn tại riêng biệt của loại hình kịch bên cạnh các loại hình khác của văn học. Đây là lý do để Hêghen có thể khẳng định : Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch. Hoặc, nói gọn hơn, như Biêlinxki : Xung đột tạo nên tính kịch. Xung đột kịch có thể xảy ra giữa các mặt khác nhau trong một con người, giữa các cá nhân, giữa các nhóm cho đến các tập đoàn người với nhau hoặc có khi, giữa một tập đoàn người với một cá nhân trong một bối cảnh xã hội và lịch sử mang tính đặc thù. Nét chủ đạo của kịch là kịch tính. Kịch tính được tạo ra do mâu thuẫn và xung đột một khi đã nảy ra liền phát triển liên tục, không gián đoạn theo chiều hướng mỗi lúc một căng thẳng cho tới tình thế đòi hỏi phải giải quyết bằng một kết cục nào đó. Quá trình diễn biến của xung đột kịch được cụ thể hoá bằng hành động kịch. Hành động kịch là yếu tố quan trọng hàng đầu của kịch phẩm. Không phải ngẫu nhiên khái niệm kịch drama trong tiếng Hylạp cũng có nghĩa là hành động. Đó là sự tổ chức các tình tiết, sự kiện, biến cố trong cốt truyện theo một diễn biến logic, chặt chẽ, nhất quán chi phối bởi một quy luật nhất định mà qua đó công chúng có thể tiếp nhận được những mâu thuẫn, xung đột trong đời sống mà kịch tác gia muốn truyền đạt Hành động kịch lại được thực hiện bởi các nhân vật kịch. Số lượng nhân vật trong kịch không quá đông, cũng không được khắc họa quá tỉ mỉ như trong tiểu thuyết. Nhân vật kịch phản ánh những mâu thuẫn của đời sống đã đến độ chín muồi, Trong kịch, các nhân vật tự xây dựng nên tính cách riêng biệt của mình chủ yếu qua ngôn ngữ mà nó thể hiện, thường chứa đựng nhứng mâu thuẫn và đấu tranh nội tâm. Các tác giả thường sử dụng thủ pháp lưỡng hóa nhân vật- tách đôi nhân vật nhằm tự đối thoại, biểu hiện sâu sắc nội tâm Ngôn ngữ kịch có ba loại : + Ngôn ngữ đối thoại tức lời các nhân vật đối đáp với nhau + Ngôn ngữ độc thoại tức lời nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình + Ngôn ngữ bàng thoại tức lời nhân vật nói riêng với khán giả 4 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn Do đó, ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ khắc hoạ tính cách, ngôn ngữ biểu hiện đặc điểm, phẩm chất của nhân vật. M. Gorki đã lưu ý điều này : Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ, và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi. Ngôn ngữ kịch còn mang tính hành động, tức là thứ ngôn ngữ mang đặc tính tranh luận, biện bác, tác động trực tiếp và thúc đẩy mâu thuẫn, xung đột tăng tiến tạo kịch tính với những sắc thái tấn công phản công; thăm dò lảng tránh; chất vấn chối cãi; thuyết phục phủ nhận; cầu xin từ chối; đe doạ, coi thường Ngôn ngữ kịch thể hiện cao độ đặc tính sống động, giàu chất thông tục của ngôn ngữ đời thường. Xét theo nội dung, ý nghĩa của xung đột có thể phân ra ba loại kịch : bi kịch, hài kịch và chính kịch. - Bi kịch + Bi kịch: là loại vở diễn phản ánh xung đột giữa những nhân vật tươi sáng, trong trẻo, cao thượng, có phẩm chất tốt đẹp, có tinh thần hướng tới cái tiến bộ với những thế lực đen tối, thâm hiểm, độc ác + Xung đột bi kịch : được tạo dựng từ những mâu thuẫn không thể điều hòa giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn; mọi cách giải quyết những mâu thuẫn đó đều dẫn đến cái chết, gây nên suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với người đọc. + Nhân vật bi kịch đông thời mang trong mình khát khao cao cả và những lỗi lầm không thể tránh khỏi. + Nhân loại tìm thấy ở bi kịch những gì khủng khiếp mà cái ác có thể gieo rắc, áp đặt cho mình; do đó, không thể bàng quan và chịu khuất phục trước sức mạnh tàn bạo của nó. Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa thức tỉnh và dự báo về một điều gì tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh trong cuộc sống và trong mỗi con người 3.1.3. Nhận thức đúng về kỹ thuật dạy học tích cực Trong bối cảnh mới của thời đại, đổi mới cách dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học là một yêu cầu bức thiết đối với người giáo viên, với nhà trường và ngành giáo dục nói chung . - Quá trình học tập tích cực nói đến những hoạt động của chủ thể- tích cực nhận thức, có khát vọng hiểu biết và không ngừng cố gắng cả về nghị lực và trí tuệ cao để chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực trong học tập của học sinh bộc lộ ở khả năng: Hứng thú 5 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn với học tập; tập trung chú ý dến bài học; Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi, thảo luận…; có sáng tạo trong học tập; thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; hiểu bài và có thể trình bày lại bài theo cách hiểu của mình; biết vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề thực tiễn. - Dạy học tích cực: Hoạt động nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Nó đem lại cho người học hứng thú, niềm vui học tập, nuôi dưỡng khát khao sáng tạo cho người học. 3.2. Một vài kinh nghiệm dạy đọc hiểu và ôn tập văn bản kịch. ( Giải pháp trọng tâm) (Các chữ viết tắt: Trương Ba: TB, Vũ Như Tô: VNT; Đan Thiềm: ĐT; Hồn Trương Ba, da hàng thịt: HTBDHT, Lưu Quang Vũ: LQV; Lê Tương Dực: LTD; Nguyễn Huy Tưởng: NHT; Cửu Trùng đài: CTĐ hoặc CT; ) 3.2.1 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài * Định hướng: Đây là khâu đặc biệt quan trọng để người học có được tâm thế chủ động, tự tin khi bước vào giờ học. Riêng đối với văn bản kịch, công việc này có đặc thù riêng. Giáo viên sẽ giao nhiệm vụ sao cho học sinh bước đầu thâm nhập được văn bản theo đúng đặc trưng thể loại. Hình thức tốt nhất là giáo viên sẽ chia nhóm để giao việc . Để công việc không dàn trải , giáo viên đồng thời nêu câu hỏi để học sinh chủ động trong phần trình bày và chuẩn bị mang tính định hướng * Ví dụ: Với văn bản “Hồn Trương ba, da hàng thịt”, khi dạy lớp 12 Nga , tôi đã triển khai hướng dẫn học sinh như sau - Giao việc theo nhóm học tập hứng thú + Nhóm 1: Tìm kiếm: Sưu tầm trong dân gian truyện cổ tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Tìm trên mạng video vở kịch HTBDHT, giáo viên giao cho học sinh thành thạo công nghệ cắt đoạn kịch liên quan đến bài học từ clip. Kịch chỉ bộc lộ nét dặc sắc khi được diễn Yêu cầu: Thấy được điểm giống và khác giữa truyện cổ dân gian và kịch của LQV về phương diện cốt truyện, thể loại. Thử nhận xét về thành công của vở kịch này là gì? + Nhóm 2: Tìm hiểu thể loại kịch, và đặc điểm của bi kịch ( theo nguồn giáo trình lý luận, mạng Internet). 6 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn Yêu cầu: nắm rõ khái niệm về kịch; đặc điểm của kịch ( xung đột, nhân vật, ngôn ngữ, kịch thuộc loại hình sân khấu nên cần quan tâm đến đặc điểm của loại hình nghệ thuật khi biểu diễn. -> Hs theo đó suy nghĩ câu hỏi: Vậy đọc hiểu văn bản kịch theo em là thao tác đọc các yếu tố nào ?( đọc xung đột kịch, hành động kịch..) + Nhóm 3: Tìm hiểu kiến thức về tác giả. Dù là văn bản viết theo thể loại nào chăng nữa, những hiểu biết về tác giả thường giúp ta đọc tác phẩm tốt hơn Yêu cầu: HS lựa chọn thông tin để tập trung nhận xét: Bối cảnh thời đại; cuộc đời; nội dung chính trong các sáng tác kịch của LQV thường xoay quanh vấn đề gì? Từ đây , học sinh sẽ suy nghĩ để giải đáp câu hỏi: Dựa vào các thông tin đó, em có thể dự đoán ý nghĩa tư tưởng của vở kịch có thể là gì? + Nhóm 4: Lập sơ đồ diễn biến cốt truyện, hệ thống nhân vật trong vở kịch, tìm hiểu tình huống kịch. Cần đến thao tác này là bởi trong kịch, người kể chuyện rất ít khi tường thuật tỷ mỉ mà chú ý trong dựng lên chuỗi các hành động được mô tả qua ngôn ngữ kịch. Vì vậy để học sinh nắm bắt được nội dung cần đọc kỹ lưỡng văn bản, thâu tóm được các diễn biến chính của hành động kịch qua từng hồi, màn kịch. Yêu cầu: Học sinh sẽ đọc kĩ văn bản, gạch chân các lời thoại quan trọng, trả lời câu hỏi: ? Vở kịch kể với chúng ta câu chuyện gì? Em hãy mô tả hệ thống các nhân vật cùng mối quan hệ của nó bằng một sơ đồ? Kết hợp với việc yêu cầu hs đọc kỹ lưỡng tác phẩm, trả lời các câu hỏi. - > Quy trình: các nhóm được tự do lựa chọn công việc của mình theo sở trường - Kết quả làm việc: Học sinh tổng hợp, một đại diện bất kỳ sẽ trình bày bằng bản trình chiếu P. P tổng hợp. Nhóm 4: + Vở kịch đã dựa vào một cốt truyện dân gian để xây dựng một tình huống kịch độc đáo : Trương Ba vốn là một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con và giỏi cờ. Do sai lầm của thiên đình, Trương Ba đã chết và vì sửa sai nên thiên đình đã cho ông đầu thai vào thân xác anh hàng thịt . Mọi điều bất hạnh trớ trêu bắt đầu từ đây, khi tâm hồn thanh cao của Trương Ba phải trú ngụ trong thân xác phàm tục của anh hàng thịt… 7 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn + Hệ thống các nhân vật và mối quan hệ , hình dung ban đầu về tính cách Nhân vật - Bắc Đẩu Mối quan hệ - Tính cách Quan nhà trời, giữ sổ sinh tử, có nhiều hành động thiếu trách nhiệm - Nam Tào Quan nhà trời, làm việc tắc trách - Đế Thích Tiên cờ, hiền lành, trung thực - Trương Ba Khoảng 50 tuổi, chất phác, trung thực, đánh cờ giỏi - Vợ Trương Ba Hiền lành - Anh cả Con trai Trương Ba, thực dụng - Chị con dâu Hiểu biết, lễ phép - Cái gái Cháu nội Trương Ba Nhân vật - Cu Tị Mối quan hệ - Tính cách Bạn cái gái, con chị Lụa 8 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn - Trưởng Hoạt Hàng xóm của Trương Ba, tốt bụng - Anh hàng thịt Trẻ, vạm vỡ, thô phàm - Vợ anh hàng thịt Chị Hợi, còn trẻ - Lái lợn - Lí trưởng Những người chứng kiến anh hàng thịt sống lại - Trương Tuần Nhận tiền đút lót của anh Cả Cùng đi với Lí trưởng + Diễn biến cốt truyện của vở kịch Cảnh I: Cảnh trên thiên đình: Nam Tào, Bắc đẩu đang chấm người phải chết trong ngày. Vội đi dự tiệc ở dinh Thái Thượng nên Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba. Cảnh II: Cảnh dưới hạ giới, nhà Trương Ba: Trưởng Hoạt và Trương Ba chơi cờ. Đế Thích trên thiên đình xuống giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Sau đó cho Trương Ba mấy nén hương bảo khi cần sự giúp đỡ thì đốt hương lên. Sau đó Trương Ba chết đột ngột. Cảnh III: Trở lại cảnh Thiên đình: Vợ Trương Ba vô tình thắp 3 nén hương cho chồng (hương của Đế Thích cho Trương Ba). Bà được lên thiên đình, đòi sự sống cho chồng. Đế Thích thương tình cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mất để sống lại. Cảnh IV: Nhà người hàng thịt: Anh hàng thịt đội nắp quan tài, lên đòi về nhà. Cuộc giành giật chồng của 2 người vợ. Cảnh V: Tại nhà hàng thịt, hồn Trương Ba chịu sự chi phối của thân xác 9 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn phàm tục, suýt nữa ngả vào vòng tay vợ anh hàng thịt. Cảnh VII: Tại nhà Trương Ba. Có thể chia thành 3 lớp. + Lớp 1: Cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt. + Lớp 2: Tâm trạng dằn vặt, đau khổ của Hồn Trương Ba khỏi bị người thân xa lánh, nghi ngờ. + Lớp 3: Khát vọng được giải thoát và quyết định đúng đắn của hồn Trương Ba. Phần kết: Hồn Trương Ba hoá thân vào những sự vật thân thương, tồn tại mãi mãi bên cạnh những người thân yêu. + Tóm tắt diễn biến của tình huống trong đoạn kịch: Đoạn trích thể hiện xung đột cơ bản của vở kịch đã lên đến đỉnh điểm( linh hồn và thể xác). Tình huống đó là: sau mấy tháng , hồn Trương Ba ngụ trong thân xác anh hàng thịt, nhân vật ngày càng trở nên xa lạ với vợ, con, cháu của mình. Hồn cảm thấy đau đớn, chán ghét chính mình. Những đối thoại với người thân, với thân xác hàng thịt, với tiên cờ Đế Thích đã giúp TB đi đến quyết định cuối cùng là khước từ cuộc sống vay mượn không phải là mình, lựa chọn cái chết, xin cho cu Tị được sống. * Lưu ý: Trước khi giờ học diễn ra, các nhóm có thể trao đổi kết quả làm việc để tham khảo ý kiến của nhóm khác , hoàn thiện nội dung của mình 3.2.2 Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu văn bản 3.2.2.1. Hướng dẫn học sinh đọc văn bản kịch Con đường đi vào tác phẩm văn chương nhất thiết phải từ việc đọc và gắn liền với đọc. Đây là một phương pháp mà từ trước đến nay chúng ta không thể bỏ qua khi dạy học tác phẩm và chương trong nhà trường phổ thông. Đọc chính là bước đầu tiên giúp cho học sinh tham gia vào cuộc đối thoại với tác giả thông qua văn bản văn chương. Văn bản văn chương chỉ trở thành tác phẩm văn chương khi được bạn đọc tiếp nhận. Đọc làm sống lại tác phẩm, tạo không khí văn chương cho giờ học. Đọc là bước để học sinh suy ngẫm tìm hiểu tư tưởng, thái độ của nhà văn gửi vào tác phẩm trên cơ sở những rung động, cảm xúc, ấn tượng của mình về văn học. Đọc có ý nghĩa quan trọng, góp phần cho sự thành công của giờ học. - Hướng triển khai: Có nhiều cách đọc: đọc to, đọc thầm, đọc nhanh, đọc lướt, đọc diễn cảm, đọc hiểu,v.v... khi đọc kịch phải chú ý kịch viết ra không phải là để 10 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn đọc mà là để diễn, mặc dù chúng ta biết kịch được đưa vào trong nhà trường là kịch bản văn học chứ không xem xét nó như một bộ môn nghệ thuật. Vì thế khi dạy học vở kịch này ta sử dụng nhiều cách đọc khác nhau. Đọc ở đây là đọc kịch bản có liên hệ với sân khấu. Có thể tổ chức cho học sinh đọc phân vai, kết hợp đọc diễn cảm. Đọc phân vai để học sinh thấy rõ được bản chất khái quát nhất của từng nhân vật. Đọc diễn cảm là để thấy những biểu hiện sâu sắc về nội tâm, tính cách của nhân vật kịch - Ví dụ: Trên cơ sở đó tiến hành đọc đoạn trích"Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" hồi V (9 lớp) theo hình thức phân vai và đọc diễn cảm. Hai hình thức đọc này gắn liền với nhau. Mục đích nhằm tái hiện lại vở kịch như trên sân k hấu. + Giáo viên chiếu sơ đồ nhân vật tham gia vào đoạn kịch cho học sinh hình dung lại tuyến nhân vật + Học sinh lựa chọn vai đọc theo hứng thú . + Tuy nhiên, việc đọc đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" trong bối cảnh thoát ly môi trường sân khấu, lại trong khuôn khổ của một khoảng thời gian hạn hẹp, do vậy giáo viên cần định hướng để học sinh đọc có điểm nhấn. Đọc để tiếp cận với những đoạn, những vấn đề trọng tâm của vở kịch. . Đọc chủ yếu vào những đoạn xoay quanh xung đột, hành động kịch, tưởng tượng như là kịch đang diễn ra trước mắt. Đọc phân vai ở những đoạn đối thoại của các nhân vật, đọc diễn cảm ở những lời độc thoại của nhân vật để thấy rõ nội tâm nhân vật, suy tư, cảm xúc của nhân vật. Giáo viên lựa chọn kỹ vai đọc và hướng dẫn cụ thể cách đọc cho nhân vật trung tâm, nhân vật chính của đoạn kịch: Vũ Như Tô , Đan Thiềm: Vũ Như Tô nên đọc: giọng băn khoăn, chất chứa những câu hỏi lớn vừa nhức nhối, vừa da diết, khắc khoải Giọng Đan Thiềm: lo lắng, hốt hoảng, cứng cỏi Từ đó góp phần phát triển năng lực cảm thụ nghệ thuật của học sinh. Đọc kịch theo đặc trưng thể loại sẽ góp phần không nhỏ cho việc tìm hiểu tác phẩm. + Học sinh đọc và dùng bút nhớ gạch chân các lời thoại, hay hành động kịch mà người học cảm thấy tâm đắc, có ý nghĩa bộc lộ nội dung, tư tưởng. + Để kiểm tra hoạt động đọc: sau khi đọc xong, giáo viên sẽ yêu cầu một học sinh tóm tắt lại diễn biến đoạn kịch 11 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn - Đánh giá: Chỉ có thông qua cách đọc phân vai, đọc có mục đích, biết nhấn nhá vào những chi tiết nghệ thuật biết nói mới có thể làm sống dậy linh hồn của vở kịch. 3.2.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản kịch * Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để khai thác các yếu tố trọng tâm của vở kịch. - Khái niệm: Là cách chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố để đi sâu xem xét một cách kĩ càng nội dung và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của chúng . Việc chia tách tác phẩm thành nhiều yếu tố để xem xét là hoạt động cần thiết giúp cho chúng ta không bỏ qua sự sáng tạo nào của tác giả và khám phá tác phẩm sâu hơn, kỹ hơn. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng tác phẩm văn học không phải là sự lắp ghép hàng loạt các yếu tố, chi tiết nghệ thuật. Do vậy sau khi chia tách cần phải tổng hợp lại để có một cách nhìn mới về chỉnh thể, phân tích tác phẩm văn chương là tháo gỡ tất cả tương quan vẫn không tách rời nhau trong chỉnh thể nghệ thuật. - Định hướng: Một yếu tố nội dung bao giờ cũng được biểu hiện qua một hình thức nghệ thuật. Khi tiến hành phân tích, hai phương diện này gắn kết mật thiết với nhau. Với văn bản kịch, đối tượng phân tích nên hướng tới đó là: + Phân tích xung đột kịch (có thể là xung đột bên ngoài hoặc xung đột bên trong nhân vật) . Thông thường , các xung đột kịch kéo dài, xuyên suốt văn bản, được giải quyết đồng thời với vở kịch kết thúc. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh nắm bắt diễn biến, kết cấu của vở kịch, hồi kịch, từ đó khơi gợi để học sinh chỉ ra những xung đột của kịch . Với hai văn bản khảo sát đều là bi kịch thì xung đột kịch luôn căng thẳng, không thể điều hoà, mọi cách khắc phục đều có thể dẫn đến cái chết. Ở vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là cái chết của Trương Ba, ở Vĩnh biệt Cửu trùng đài là cái chết của của Vũ Như Tô, Đan Thiềm + Phân tích nhân vật kịch: Trong bi kịch, nhân vật kịch thường mang trong mình những mâu thuẫn không thể giải quyết giữa khát khao cao cả và những lỗi lầm không thể tránh khỏi. Vì vậy việc phân tích nhân vật bi kịch chính là tìm hiểu, cắt nghĩa, lí giải bi kịch của nhân vật đó, tức là quá trình dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi: Nhân vật đó có bi kịch gì? tại sao anh ta lại rơi vào bi kịch đó? bi kịch của nhân vật có ý nghĩa gì? Nhân vật bi kịch thường có kết thúc bi thảm, giáo viên hãy giúp học sinh phân tích thấy được ý nghĩa thức tỉnh hay dự báo về một điều gì đó tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh trong cuộc 12 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn sống và trong mỗi người. + Phân tích hành động kịch: hành động kịch có thể là hành động thuộc về các biến cố sự kiện, cũng có thể thuộc về tâm trạng bên trong của nhân vật kịch. Giáo viên có thể linh hoạt hướng dẫn học sinh phân tích. Về cơ bản, ý nghĩa của việc phân tích này là để tìm hiểu sâu hơn đặc điểm của nhân vật hoặc diễn biến của xung đột. + Phân tích ngôn ngữ kịch: Ngôn ngữ kịch có thể là những chỉ dẫn sân khấu, cũng có thể là lời thoại của nhân vật, chú ý đến lời thoại là đối thoại, độc thoại để tìm hiểu nhân vật + Kết hợp với quá trình phân tích , giáo viên hướng dẫn học sinh tổng hợp lại để đưa ra những kết luận về giá trị tư tưởng, nghệ thuật của vở kịch Lưu ý: Tùy từng văn bản kịch , giáo viên nên lựa chọn vấn đề nổi trội nhất, thành công nghệ thuật đặc sắc nhất, có ảnh hưởng đến việc hiểu tư tưởng của vở kịch để hướng dẫn học sinh khai thác. Các yếu tố trên không tách biệt mà đan cài, thể hiện lẫn nhau. - Ví dụ: Với văn bản kịch Vĩnh biệt Cửu trùng đài, người viết đã tổ chức hướng dẫn học sinh khai thác : Xung đột kịch, nhân vật kịch từ đó nhấn mạnh chủ đề, tư tưởng của vở kịch. Xung đột kịch của đoạn trích : Từ việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà : tóm tắt diễn biến chính của vở kịch, đặc biệt sự phát triển đến cao trào của nó trong hồi cuối- hồi kịch được trích học; giáo viên sẽ tổ chức cho học tìm hiểu hai xung đột chính của vở kịch , hai xung đột này đều phát triển đến cao trào và được giải quyết trong hồi cuối. & Xung đột giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng phe cánh của chúng đang hưởng cuộc sống xa hoa trụy lạc. Mâu thuẫn được thể hiện chủ yếu ở những hồi trước, (xoay quanh việc xây hay không xây Cửu trùng đài, việc xây đối lập với quyền lợi của dân chúng và sự phản đối của phe Trịnh Duy Sản, mâu thuẫn nội bộ thợ xây và Vũ Như Tô-> cao trào hồi này và đi đến kết cục: Lê Tương Dực chết trong tay đám phản loạn…; dân chúng hò reo đốt phá Cửu Trùng đài, nguyền rủa Vũ và Đan Thiềm. Tất cả thành đống tro tàn, giang sơn sẽ vào tay phe cánh Trịnh Duy Sản.-> giải quyết dữ dội, bi thảm. & Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu thuần túy muôn đời với lợi ích thiết thực của nhân dân. Mâu thuẫn thứ hai đến hồi V được đẩy lên đỉnh điểm. Trước nó 13 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn chỉ tiềm ẩn bên trong mâu thuẫn thứ nhất, cuối vở kịch nó hòa làm một. Chính mâu thuẫn này là lỗi lầm bi kịch của VNT- người kiến trúc sư thiên tài tưởng rằng có thể thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình trong cuồng vọng của lũ bạo chúa. -> Từ đây, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét về ý nghĩa của các xung đột trong vở kịch này là gì? + Nhân vật kịch trong đoạn trích: Trong đoạn trích, có hai nhân vật đều góp phần thể hiện tư tưởng của vở kịch đó là: Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Nhân vật Vũ Như Tô là trung tâm của hồi kịch, bi kịch của nhân vật này diễn ra bên trong tâm hồn, là sự chao đảo dữ dội giữa mơ mộng ( mượn tay bạo chúa để xây một công trình tô điểm cho đời) và vỡ mộng ( khát vọng đó xa rời quyền lợi của nhân dân, xây dựng trên mồ hôi và xương máu của nhân dân nên không thể thực hiện). Tìm hiểu bi kịch của nhân vật này, giáo viên nên tổ chức hệ thống câu hỏi để dẫn dắt các em thâm nhập vào diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô qua các lời thoại kịch . Bi kịch của Vũ Như Tô đã kết lại bằng cái chết bi tráng của nhân vật, giáo viên giúp học sinh nhận ra những ý nghĩa sâu xa của việc khắc họa bi kịch này: Thức tỉnh về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, thái độ đối với cái đẹp, người sáng tạo, và thưởng thức nghệ thuật. + Lựa chọn để phân tích kỹ lưỡng một vài hành động kịch, ngôn ngữ kịch có ý nghĩa mấu chốt để hiểu sâu hơn về nhân vật,: ví dụ như: & Lời thoại chứng tỏ Vũ Như Tô luôn chìm đắm trong mơ mộng: Quân phiến loạn bao vây, Đan Thiềm bị bắt, dân chúng nổi lên tứ tung, nhưng Vũ vẫn không cho rằng mình có tội. Lời thoại 1: Phá Cửu Trùng đài? Không đời nào ! Mà tôi thì không làm gì nên tội. Họ hiểu nhầm. Lời thoại 2: Vô lí. Họ tìm tôi, nhưng có lí gì họ giết tôi. Tôi có gây oán thù gì với ai? & Lời thoại cho thấy sự tuyệt vọng của Vũ Như Tô: Đốt thực rồi! Đốt thực rồi !Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài & Lời thoại có ý nghĩa kết thúc mâu thuẫn: Thôi thế là hét. Dẫn ta đến pháp trường 14 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn & Hành động của Đan Thiềm đã bộc lộ tấm lòng tri kỉ, mến trọng người tài hoa : Đến tìm Vũ Như Tô, khẩn khoản mong ông đi trốn : Ông Cả! Ông nghe tôi trốn đi. Trốn đi để chờ cơ hội khác. Đại sự hỏng rồi Khi lâm nguy , Đan Thiềm quỳ xuống xin được chết để đổi lấy mạng sống của Vũ Như Tô: Tướng quan hãy nghe tôi, đừng phạm vào tội ác, Đừng giết ông Cả. kẻo tướng quân mang hận về muôn đời! Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết -> Đối với những chi tiết nghệ thuật này, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích, bình chú, không chỉ hiểu mà còn phải thấy được cái hay trong nghệ thuật kịch của tác giả. * Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực để tổ chức hoạt động dạy học - Sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm học tập + Khái niệm: Hoạt động theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học quan trọng trong cách phương pháp dạy học tích cực nhằm mục tiêu giúp cho người học chủ động tham gia vào các hoạt động xã hội, trách ỉ lại, thụ động trong việc tiếp nhận kiến thức. Các học sinh được phân công vào các nhóm học tập phù hợp, được giao những nhiệm vụ học tập phù hợp. Học sinh thi hành các nhiệm vụ mà không cần sự giám sát trực tiếp, liên tục của giáo viên. Có những nội dung học sinh không thể làm việc độc lập thì làm việc theo nhóm sẽ giúp các em hợp tác làm việc và đạt hiệu quả cao. Dạy học theo nhóm có tác dụng rất tốt đối với người học. Với việc học này, học sinh ý thức được về khả năng của mình, nâng cao niềm tin vào việc học, ứng dụng xử lí hợp lí các tình huống trong học tập một cách trực tiếp. Hơn nữa, việc học tập theo nhóm giúp các em tự tin hơn trong học tập, trách được mặc cảm tự ti, lo âu vì sự thất bại. Đồng thời, góp phần cải thiện mối quan hệ của cá nhân, ý thức cao về khả năng của bản thân. Phù hợp với quan niệm “giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin” (W. B. Yeats) - Định hướng: + Lựa chọn nội dung lớn để tiến hành hoạt dộng theo nhóm: Việc khai thác xung đột kịch, phân tích diễn biến hành động kịch đòi hỏi người học phải biết xâu chuỗi , sắp xếp, tổng hợp các biến cố để tìm hiểu. Việc làm này sẽ khó khăn nếu chỉ là hoạt động cá nhân, lại mất thời gian trong tiết học. Do đó, hoạt động theo nhóm sẽ khắc phục được khó khăn này 15 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn + Khi tiến hành chia nhóm, giáo viên có thể sử dụng theo các cách: Thứ nhất, chia học sinh trong lớp theo nhóm hứng thú. Tức là, các em có sở thích hoặc năng lực về nội dung học tập nào thì các em sẽ tự lựa chọn nội dung học tập đó. Thứ hai, chia học sinh trong lớp theo nhóm học phụ thuộc vào yêu cầu của bài học. Thứ ba, chia học sinh trong lớp theo nhóm phụ thuộc vào trình độ của học sinh, sao cho trong nhóm học tập có các học sinh thuộc trình độ từ cao xuống thấp…. + Giáo viên sẽ cắt cử đại diện nhóm, hướng dẫn các em xây dựng các câu hỏi, công việc để hoàn thành - Ví dụ: + Khi tìm hiểu xung đột kịch của Vĩnh biệt Cửu trùng đài, giáo viên chia nhóm theo hứng thú và năng lực. Nhóm năng lực tưởng tượng, liên tưởng tốt hơn sẽ tìm hiểu xung đột bên trong nhân vật; nhóm còn lại thiên về năng lực tư duy tìm hiểu xung đột ngoài nhân vật + Nhóm 1: Tìm hiểu xung đột thứ nhất: Xung đột giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa + Nhóm 2: Tìm hiểu xung đột còn lại Theo bảng công việc sau STT Các bình diện 1. 2. 3. 4 5 Mâu thuẫn Biểu hiên Diễn biến Kết thúc Ý nghĩa Nội dung - Kết quả làm việc: Nhóm 1 STT Các bình diện Nội dung 1. Mâu thuẫn Giữa nhân dân lao động khốn khổ và tầng lớp thống trị Biểu hiên có đời sống truỵ lạc Loạn do nhân dân đói kém nổi lên, do kiêu binh nổi 2. loạn. Biến cố : Vua Lê Tương Dực bị giết, Vũ Như Tô đang bị truy bắt, đài Cửu trùng bị đốt. Những sự việc 16 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn khủng khiếp này khiến Đan Thiềm khiếp sợ, Như Tô lo 3. Diễn biến lắng, đau đớn. Mâu thuẫn hình thành từ những hồi trước, đến hồi cuối là lúc tức nước vỡ bờ, dân nổi can qua , mâu thuẫn phát triển đến cao trào, được giải quyết bằng những sự kiện 4 5 Kết thúc Ý nghĩa đẫm máu. Bi thảm, dữ dội - Là nền tảng để giải quyết xung đột thứ hai - Lột tả chân thực bức tranh hiện thực lịch sử trong một giai đoạn nhiều biến động tại Thăng Long vào khoảng năm 1526-1527 Nhóm 2: STT Các bình diện Nội dung 1 Mâu thuẫn Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu thuần Biểu hiên túy muôn đời với lợi ích thiết thực của nhân dân Qua sự đối lập giữa quan niệm của Như Tô về đài Cửu 2. trùng và thái độ của nhân dân đối với Cửu rùng đài và người sáng tạo nên nó - Với VNT đó là tâm nguyện, sinh mạng mà vì nó ông chấp nhận làm cho bạo chúa, sẵn sàng phạt tội thợ thuyền, đánh liều mạng sống của mình để bảo vệ - Với dân chúng, đài là hiện thân của ăn chơi xa xỉ, tội ác, cũng như cha đẻ của nó- là kẻ thù của họ-> cần trị 3. Diễn biến tội Mâu thuẫn đã âm ỉ từ trước, kết hợp với xung đột thứ nhất , nó được đẩy lên cao trào. Cái chết của Đan Thiềm, Vũ Như Tô, đài Cửu trùng bị đốt đã cho thấy sự 4 Kết thúc căng thẳng, khốc liệt đó. Cửu Trùng bị đốt, Như Tô ra pháp trường, thế nhưng ông không bao giờ trả lời được câu hỏi: ta tội gì? Chết bởi quá đau đớn trước hiện thực nghiệt ngã. Do vậy 17 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn mâu thuẫn này cho dù được giải quyết nhưng không triệt để. Còn đó câu hỏi của chính tác giả: Như Tô phải 5 Ý nghĩa hay những kẻ giết Như Tô phải? … Cho thấy đó là mâu thuẫn muôn đời của nghệ thuật với đời sống, nó chỉ được giải quyết khi đời sống tinh thần được nâng lên, nhu cầu về cái đẹp được cải thiện Để linh hoạt , giáo viên có thể kết hợp với kĩ thuật dạy học khăn phủ bàn để đảm bảo học sinh được cọ xát với kiến thức đều nhau - Sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi: + Trong dạy học: hệ thống câu hỏi của giáo viên có vai trò quan trọng, hỏi thế nào để học sinh suy nghĩ, phát hiện tri thức , tham gia thảo luận, phát triển được năng lực tư duy. Kịch là một thể loại khó, rất cần đến sự khơi gợi, dẫn dắt của giáo viên + Định hướng: & Có thể đặt câu hỏi mở: Dạng câu hỏi có nhiều cách trả lời-> tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ ý kiến cá nhân. Câu hỏi cần ngắn gọn, được bắt đầu bằng từ hỏi đúng, rõ ràng về ý hỏi, phù hợp với nội dung, đối tuộng, và hoàn cảnh. Giáo viên thể hiện rõ mong muốn lắng nghe tích cực thong qua ngữ điệu hay ngôn ngữ cơ thể. & Đặt câu hỏi theo cấp độ nhận thức: Câu hỏi biết->Hiểu->Áp dụng->phân tích->đánh giá-> sáng tạo. Tùy từng đơn vị kiến thức có thể đưa ra câu hỏi phù hợp + Ví dụ: Câu hỏi mở ? Vũ Như Tô vẫn luôn trăn trở câu hỏi: ta tội gì? Có ý kiến cho rằng, khi ra pháp trường, Vũ Như Tô đã thấm thía câu trả lời cho mình. Em thử bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến trên Học sinh được thảo luận nêu chính kiến Gợi ý: quan điểm trên là sai lầm bởi: Ông một mực vẫn cho rằng mình không có tội mà chỉ có công, khi loạn đến ông vẫn tràn ngập niềm hy vọng vào ở kẻ cầm đầu nhóm phiến loạn sẽ hiểu ông , ông không hề nghe thấy tiếng chế giễu, chửi rủa mà vẫn say sưa trong giấc mộng đời mình; Chỉ đến lúc đài Cửu trùng bị đốt, ông mới thôi khăng khăng với quan điểm của mình, nhưng đó là vì ông quá đau đớn trước sinh mạng nghệ thuật bị 18 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn đổ máu , nhất định không thể là do ông đã tỉnh ngộ mà nhận ra những lầm lạc của mình Câu hỏi theo cấp độ nhận thức: Khi Tìm hiểu về Đan Thiềm: & Câu hỏi biết: Đan Thiềm là ai? & Câu hỏi hiểu: Tác giả viết trong lời đề tựa: Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm. Dựa vào đoạn trích, hãy lí giải bệnh Đan Thiềm nghĩa là gì? & Câu hỏi phân tích: Hãy phân tích những biểu hiện cho tấm lòng trân trọng, hết mình bảo vệ cái đẹp cái tài của Đan Thiềm. & Câu hỏi đánh giá: Theo em, sáng tạo nhân vật Đan Thiềm , tác giả có dụng ý nghệ thuật như thế nào? & Câu hỏi vận dụng: Mối quan hệ giữa Đan Thiềm với Vũ Như Tô gợi cho anh chị liên tưởng đến những tình cảm cao quý nào trong cuộc sống? -> Dựa theo các cấp độ nhận thức, câu hỏi đặt ra đã đưa người học tiến từng bước trên con đường rèn luyện năng lực tư duy, thâm nhập sâu dần vào nội dung văn bản - Sử dụng kết hợp các trò chơi trong giờ học + Khái niệm: Trong giờ dạy môn văn, việc tổ chức trò chơi cho học sinh có ý nghĩa quan trọng. Đây là một cách giúp các em thay đổi hình thức học tập giúp giờ học bớt căng thẳng, nặng nề, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Đồng thời, thông qua các trò chơi rèn cho học sinh kĩ năng mềm cần thiết: các ứng phó nhanh, hợp tác làm việc trong đám đông, xử lí thông minh các tình huống phức tạp, … học sinh được tìm tòi, sáng tạo để tự hoàn thiện bản thân, phát triển thêm những phẩm chất đạo đức như tính nhanh nhẹn, tình đoàn kết, lòng trung thực, tinh thần trách nhiệm… Khi thiết kế trò chơi trong từng bài học, giáo viên lưu ý tới việc lựa chọn những trò chơi phù hợp với kĩ năng cần rèn luyện của học sinh, nội dung kiến thức của bài học phù hợp với “Chuẩn kiến thức kĩ năng” của bộ môn. Trò chơi phải thu hút được sự tham gia của học sinh trong lớp. Đồng thời, giáo viên cần tránh lạm dụng trò chơi trong dạy học. + Định hướng: & Trong giờ học kịch, học sinh có thể tham gia tập diễn xuất, dựng cảnh kịch bản vừa học : Học sinh sẽ chọn một lớp kịch ngắn, thoát ly văn bản và tập diễn bằng cử chỉ 19 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm năm 2013-2014 Vũ Thanh Huyền- Tổ Ngữ văn điệu bộ, lời thoại…. Các nhóm sẽ diễn trong khoảng thời gia ngắn, giáo viên sẽ cho điểm về mức độ diễn xuất thuyết phục của người chơi & Để kiểm tra khả năng ghi nhớ và phân biệt lời thoại kịch, giáo viên có thể cho học sinh chơi trò điền vào sơ đồ trống. Cách tiến hành: Quy trình Giáo viên chuẩn bị trước sơ đồ trống (vẽ trên giấy A4) như bảng sơ đồ mẫu. Giáo viên chuẩn bị đáp án được viết thành từng ô chữ (viết rời ngoài giấy A4 thành 14 ô tương ứng với 14 ô vuông cần điền trên sơ đồ. Giáo viên chuẩn bị 2 bản như nhau. Trò chơi: Giáo viên mời 2 đội chơi Mỗi đội sẽ có 1 sơ đồ trống và 14 ô đáp án tương ứng. Mỗi đội có nhiệm vụ ghép đúng các ô đáp án trong khoảng thời gian 2 phút. Kiểm tra kết quả, giáo viên nhận xét, hoàn thiện sơ đồ và chuẩn hóa kiến thức. + Ví dụ: Nhân vật Độc thoại Trương Ba Xác anh hàng Đối thoại thịt Vợ Trương Ba Người con dâu Cháu gái Đế Thích Cu Tị Việc thiết kế trò chơi có thể giao cho chính học trong lớp thực hiện hoặc giáo viên. Người điều khiển trò chơi là giáo viên hoặc chính các em học sinh để tăng tính tích cực hoạt động của trò. 3.2.3. Hướng dẫn học sinh ôn tập 3.2.3.1 Nắm vững nội dung và nghệ thuật vở kịch, đoạn kịch - Giá trị nội dung: thường khám phá trên hai phương diện: ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân văn 20 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan