SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN
KỸ NĂNG VIẾT MÔN NGỮ VĂN CHO
HỌC VIÊN KHỐI GDTX
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý Giáo dục
Phương pháp giảng dạy bộ môn : Ngữ văn
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác
Sản phẩm đính kèm:
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác:
Năm học 2014-2015
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I.
THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
v
-2-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Tâm
2. Ngày tháng năm sinh: 09/ 02/ 1985
3. Nam/ nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Ấp II, xã Trị An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
5. Điện thoại: 0973789217
6. Fax: / Email: /
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trung Tâm GDTX Vĩnh Cửu
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
Học vị: Cử nhân
Năm nhận bằng: 2007
Chuyên ngành đào tạo: Văn học Việt Nam
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng
Số năm có kinh nghiệm: 8 năm
Đồng Nai
dạy văn học
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn
2. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt của người GVCN
3. Giáo dục đạo đức HV qua việc ra đề văn Nghị luận xã hội
4. Vận dụng phương pháp thuyết minh trong giảng dạy môn GDCD
MỤC LỤC
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................................... 3
II.
THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI............. 4
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-3-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
III.
1.
Thuận lợi
2.
Khó khăn
NỘI DUNG ĐỀ TÀI........................................................................................................ 5
Phần 1: Cơ sở lí luận........................................................................................................... 5
Phần 2: Nội dung, biện pháp thực hiện, các giải pháp của đề tài....................................... 6
1. Nội dung.
2. Biện pháp thực hiện và các giải pháp cụ thể.
2. 1 . Khuyến khích thái độ học tập tích cực cho học viên khi dạy chính khóa
2.1.1
Chuẩn bị thật tốt cho bài giảng, đơn giản hóa kiến thức
2.1.2
Phân loại đối tượng học viên
2.1.3. Động viên khích lệ kịp thời
2.1.4 Sử dụng nhiều hình thức học tập
2.1.5 Cần liên hệ thực tế
2.2 Rèn luyện khả năng viết một bài văn trong giờ tăng tiết và ở nhà
2.2.1 Tìm hiểu đề
2.2.2 Viết đúng mở bài
2.2.3 Triển khai ý trong thân bài
2.2.4 Viết kết bài
IV.
KẾT QUẢ................................................................................................................19
V.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM..........................................................................................20
VI.
ĐỀ XUẤT.......................................................................................................................20
VII.
1.
Phía nhà trường.
2.
Phía học sinh.
3.
Phía phụ huynh.
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 21
VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................23
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-4-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT MÔN NGỮ VĂN CHO
HỌC VIÊN KHỐI GDTX
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong trường học, Toán - Văn là các môn học giữ vị trí quan trọng. Trong kỳ thi tốt
nghiệp cuối cấp, môn Ngữ Văn cũng là môn thi bắt buộc. Điều đó không phải ngẫu nhiên.
Bởi lẽ, Ngữ Văn là bộ môn rèn luyện cho học viên tư duy cảm tính, các kiến thức về văn
học, mỹ học, các luân lý đạo đức ở đời; đồng thời, môn Ngữ văn còn cung cấp cho học
viên vốn kiến thức quan trọng về tiếng mẹ đẻ, rèn luyện cho học viên khả năng vận dụng
vốn ngôn ngữ đó để trình bày những nhận thức của bản thân mình về xã hội, con người và
đời sống văn học. Ngữ văn thật sự quan trọng trong nhiệm vụ đức dục, trí dục học viên.
Tuy nhiên, trong suy nghĩ của rất nhiều người, từ phụ huynh đến học viên (HV), Ngữ
Văn chưa thực sự được coi trọng. Tuy thời lượng tiết dạy học trên lớp được phân cho môn
Ngữ văn khá nhiều (3,4 tiết/ tuần) nhưng sau giờ học trên lớp, học viên dành rất ít thời gian
để rèn luyện thực hành môn này. Hậu quả là nhiều năm gần đây, nhiều học viên bị mất kiến
thức căn bản đối với môn Ngữ Văn: viết sai chính tả, sai ngữ pháp, không có khả năng viết
một đoạn văn, một bài văn đơn giản, không có chút khái niệm về tình hình văn học dân tộc,
hoàn toàn mù mờ trước một câu hỏi, một đề văn đơn giản nhất...
Trước tình hình đó, là giáo viên dạy Văn, chúng tôi trăn trở tìm tòi những phương pháp
hợp lý nhất, thú vị nhất để truyền cho học viên vốn kiến thức văn học vốn rất quý giá và
cần thiết, giúp các em say mê chú ý nghe giảng trong giờ Văn và có khả năng viết một lài
văn. Đặc biệt, đối với học viên khối GDTX, vì rất nhiều lý do khiến các em mất căn bản,
mất hứng thú trong giờ Văn, khiến môn Văn trờ thành một môn học đáng ghét, đáng sợ...
thì nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp các em có thái độ cầu tiến, chăm chỉ luyện rèn Ngữ
Văn.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi xin đề xuất sáng kiến kinh nghiệm của mình
trong quá trình giảng dạy, mà tôi áp dụng thực tế có hiệu quả ở đơn vị mình thuộc vùng sâu
, vùng xa khi điều kiện kinh tế, sự nhận thức của phụ huynh và học viên đa số còn hạn chế.
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-5-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Nay tôi xin viết Sáng kiến kinh nghiệm “ Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn
Ngữ Văn cho HV khối GDTX " nhằm tham gia , trao đổi với đồng nghiệp những kinh
nghiệm giảng dạy , trao đổi , bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất , giải
quyết triệt để tình trạng học viên yếu kém ở môn Ngữ Văn, khi học viên chú ý đến môn
học tự nhiên hơn môn học xã hội, bộc lộ tình cảm, cảm xúc trong các bài văn còn rất hạn
chế. Mục đích cuối cùng của tôi khi viết bài sáng kiến kinh nghiệm này là mỗi giáo viên
Văn sẽ đào tạo cho đất nước những thế hệ học viên, không chỉ thành thục về kĩ năng mà
còn giàu về cảm xúc, có tâm hồn trong sáng, nhân ái, biết vươn tới Chân - Thiện – Mĩ .Vì
thời gian nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm có hạn, chúng tôi thiết nghĩ, đề tài sẽ mang
lại những đóng góp tích cực và có thể không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
II.
THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi:
Từ nhiều năm nay, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới phương pháp giảng
dạy đã được ngành Giáo Dục nói riêng và cả xã hội quan tâm.
Việc dạy Văn ở trung tâm GDTX Vĩnh Cửu luôn được sự quan tâm của Ban Giám đốc
nhà trường.
Ở Vĩnh Cửu, một số phụ huynh và học viên đã nhận thấy tầm quan trọng của môn Ngữ
Văn trong mối quan hệ với các môn học khác và kỳ thi tốt nghiệp THPTQG.Đồng thời
Ngữ Văn còn là một môn thi bắt buộc đối với khối C,D nếu học viên muốn bước vào giảng
đường Đại học.
Bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều những học viên thật sự yêu thích môn Ngữ Văn, xem
những giờ học văn là lúc thư giãn của tâm hồn,là mảnh đất màu mỡ để gieo trồng cảm xúc.
2. Khó khăn:
Tuy nhiên, vẫn còn những bài toán khó giải dành cho những người dạy Văn nói riêng, và
những trái tim dành cho Giáo dục nói chung: không thể tránh né một sự thật đau lòng là
nhiều học viên chưa chú trọng học Văn, do đó khả năng cảm thụ tác phẩm, khả năng diễn
đạt của các em còn nhiều hạn chế.
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-6-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Cụ thể ở trung tâm GDTX Vĩnh Cửu tỉ lệ học viên đạt điểm từ 5,0 trở lên trong kỳ
thi tốt nghiệp chưa đạt mặt bằng chung của tỉnh dù giáo viên đã cố gắng rất nhiều. Các
phương pháp mới, tích cực đều được các giáo viên trao đổi kinh nghiệm để đưa vào giảng
dạy. Nhưng sự nhiệt tình của giáo viên thường vấp phải thái độ học tập chưa tích cực, ngán
ngẫm, lơ là của học trò. Nguyên nhân là các em mất kiến thức căn bản trầm trọng, trở nên
quá kém cỏi, dù đã cố gắng nhưng chậm tiến bộ, không theo kịp bạn bè và sợ hãi,chán nản
khi thầy cô bước vào lớp, đối phó khi làm kiểm tra, thậm chí chấp nhận điểm 0 khi trả bài
miệng. Đã có nhiều công sức của thầy cô bị rơi vãi, hoang phí, không có kết quả như mong
muốn. Học viên vẫn chán nản Ngữ Văn, sợ Ngữ Văn, thậm chí ghét Ngữ Văn.
Kết quả sơ bộ thăm dò đánh giá suy nghĩ về môn văn của các em như sau (số học viên
tham gia:30 em)
Câu hỏi: Thái độ của Anh (chị) với việc học văn:
STT Các mức dộ
10VA
11VA
12VA
0
a
Rất thích
1
1
b
Thích
2
4
3
c
Bình thường
6
4
3
d
Không thich
3
1
2
Vấn đề đặt ra là: phải làm sao thắp lên trong lòng học viên ngọn lửa nhiệt tình cộng
tác, thái độ gắng sức học Ngữ Văn để đạt thành tích cao?
III.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
Phần 1: Cơ sở lý luận
Đã có rất nhiều các phương pháp giảng dạy Ngữ Văn truyền thống lẫn hiện đại được
đồng nghiệp tâm huyết đúc kết và góp ý, truyền thụ cho nhau. Nếu hiểu theo nghĩa thuật
ngữ - method- thì có thể kể đến các phương pháp dạy học Ngữ Văn theo truyền thống:
Diễn giảng, trần thuật, giảng giải, vấn đáp... và các phương pháp dạy học mang tính tích
cực, mới mẻ hơn: Câu hỏi - Lời đáp, sắm vai (Role Play), Thảo luận nhóm (Buzz
groups),Động não (Brainstorming), Trò chơi (Games), Mô phỏng (Simulation), Bể cả
(Fish bowl),Kim tự tháp (Pyramids), Tranh luận (Debates)...
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-7-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Những phương pháp này được đông đảo giáo viên thực hiện trong các tiết dạy của mình.
Sự thật thì khi vận dụng linh động và sáng tạo các phương pháp đó, chúng ta vừa giúp học
viên năng động, sáng tạo, vừa truyền cho học viên cả kiến thức văn chương trong sách vở
lẫn cái hồn văn của người thầy...
Chuyên đề này không lặp lại các vấn đề đó.Tôi xin tập trung đề xuất những công việc
mang tính “thủ thuật" trong hoạt động dạy học của người giáo viên đứng lớp.
Đó cũng là những công việc bản thân người viết đã trải nghiệm, thực hành và đạt hiệu quả
nhất định trong việc giáo dục ý thức thái độ học tập của học viên đối với môn Ngữ Văn, từ
đó dần dần nâng cao chất lượng môn học này.
Phần 2: Nội dung, biện pháp thực hiện và các giải pháp cụ thể
1. Nội dung:
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Ngữ Văn trong trung tâm GDTX Vĩnh Cửu, theo tôi
để rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX đạt hiệu quả cao thì mỗi
giáo viên phải hiểu rõ những nguyên nhân thiết thực cụ thể dẫn đến học viên yếu về cách
diễn đạt để từ đó tìm ra những giải pháp cụ thể, thiết thực khắc phục. Các hoạt động kiểm
tra bài cũ, giảng bài mới, củng cố kiến thức sau tiết học luôn là những hoạt động bắt buộc
đối với giáo viên và học viên. Bất kỳ trường lớp nào, giáo viên nào, HV nào cùng biết đến
các yêu cầu đó. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là hiệu quả của việc làm này chưa đồng bộ. Theo
thực tế, tâm thế có vai trò quyết định không nhỏ đến hiệu quả của một hành động bất kỳ.
Người họa sĩ chỉ có thể vẽ nguệch ngoạc đôi nét sơ sài khi anh ta không có hứng thú. Một
ca sĩ dù tài năng cũng sẽ hát không có hồn nếu tâm trạng của anh ta không thoải mái.
Người học viên cũng vậy. Sẽ rất là đáng chán nếu chúng cứ phải nghe giảng, thảo luận,
chép bài, làm bài trong trạng thái bị ép học. Tâm lý tuổi trẻ, tuổi học trò là hiếu động, sôi
nổi, nhiệt tình và... dễ bị “dụ”. Giáo viên cần nắm được tâm lý này để tạo cho mình một
phong cách và phương pháp phù hợp với lớp học, cần phải làm sao cho học viên cảm thấy
hứng thú, dễ chịu khi nghe tiếng chuông reo vào lớp, vì chúng biết tiết học tiếp theo là tiết
Văn của cô X, thầy Y... – những giáo viên mà chúng ngưỡng mộ, yêu thương.
2. Biện pháp thực hiện và các giải pháp cụ thể:
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-8-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Đã nhiều năm được phân công giảng dạy các lớp khối GDTX, người viết đã rút ra vài
kinh nghiệm sau đây:
2. 1 Khuyến khích thái độ học tập tích cực cho học viên khi dạy chính khóa:
2.1.1 Chuẩn bị thật tốt cho bài giảng, đơn giản hóa kiến thức:
Do đặc điểm riêng của đối tượng học viên nên khi soạn bài thầy nên soạn bài, chọn
phương pháp, phương tiện thích hợp phục vụ cho bài giảng. Khi giảng bài cố gắng đơn
giản hóa kiến thức (mà không sơ sài, không cắt bớt) bằng cách chọn các từ ngữ giản dị,
thậm chí nôm na để các em có thể hiểu được những kiến thức cơ bản nhất. Nói chậm để
các em theo dõi và làm theo hướng dẫn của thầy, nhất là khi giáo viên nói theo phương ngữ
của một số địa phương như Nghi Lộc(Nghệ An) Quảng Ngãi…Bên cạnh mục đích giúp
học viên nghe dễ hiểu thì còn giáo dục học viên có ý thức bảo tồn gìn giữ sự trong sáng
của tiếng Việt
2.1.2 Phân loại đối tượng học viên:
Trong từng tiết học, giáo viên đưa ra từng yêu cầu phù hợp với đơn vị kiến thức tương
ứng cho học viên thảo luận và rút ra kiến thức cần ghi nhớ.Câu hỏi có các mức độ khác
nhau để học viên yếu, khá, trung bình, giỏi…đều có thể tham gia trả lời từ mức độ tái hiện
thông thường đến câu hỏi nhận biết, khám phá.
Ví dụ: khi dạy một văn bản, khâu đầu tiên là đọc- tìm hiểu chung. Giáo viên yêu cầu học
viên phát biểu trên cơ sở đã soạn trước ở nhà và trả lời các câu hỏi:
-Nội dung phần tiểu dẫn là gì? (học sinh trung bình hoặc yếu đều có thể trả lời)
-Hãy nêu nét chính trong cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của tác giả?(học viên trung
bình)
-Nhận xét khái quát nhất về tác giả, phong cách nổi bật? (học viên khá và giỏi)
Khi tìm hiểu văn bản, câu hỏi sẽ đi từ việc tìm chi tiết (biện pháp), phân tích chi tiết
( biện pháp), đánh giá tác dụng của chi tiết (biện pháp) đó. Thông qua hệ thống câu hỏi đó
giúp học viên tìm hiểu khám phá tốt hơn nội dung bài học
2.1.3.Động viên khích lệ kịp thời:
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
-9-
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Học viên thường rất thích khi được thầy cô khen ngợi cổ vũ. Các em thấy được tôn trọng
và đánh giá đúng sự cố gắng của mình, từ đó các em sẽ thấy mình lớn hơn và sẽ có thêm
niềm say mê yêu thích học văn, viết văn. Nhất là các em học yếu hay những em lớn tuổi
(vừa học vừa làm) vốn hay mặc cảm, tự ti thì chỉ cần một lời khen ngợi khích lệ đúng lúc
của thầy sẽ giúp các em tự tin lên nhiều. Vậy nên, thầy cô phải để ý và khen ngợi kịp thời
cả những thành tích còn chưa nhiều, chưa thật nổi bật của các em.
Đồng thời giáo viên thường xuyên tạo điều kiện cho học sinh yếu kém gở điểm bằng các
yêu cầu nho nhỏ trong khi tiết học đang diễn ra.
Cụ thể là chúng ta sử dụng một quyển sổ điểm nháp, công khai với học viên đây là sổ
nháp, và cho phép các em khắc phục điểm thấp bằng cách phát biểu xây dựng bài, hoặc
chuẩn bị, sưu tầm những tài liệu theo yêu cầu riêng của từng tiết học, đôi khi, ở các tiết
thực hành, ưu tiên cho các học viên yếu kém xung phong trước... Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến thái độ học tập của tập thể. Học viên khá không thể học lơ là khi các bạn
khác vốn rất lười, rất yếu nay đã biết lo học, sôi nổi học và được giáo viên thương yêu,
khuyến khích. Học viên yếu kém thấy mình càng học, càng được bạn khen, được giáo viên
quan tâm, nên càng cố gắng chăm chỉ hơn. Niềm vui đó, dĩ nhiên, là động lực không nhỏ
cho các em.
2.1.4 Sử dụng nhiều hình thức học tập:
Bên cạnh các phương pháp truyền thống như thuyết giảng (dùng xen kẽ tùy theo đặc
điểm đối tượng), đàm thọai, thảo luận nhóm, đóng tiểu phẩm, đọc diễn cảm, ngâm thơ, hát
bài thơ đã được phổ nhạc cũng thu hút các em vào bài học.
Hiện nay công nghệ thông tin (CNTT) đã rất phát triển và được áp dụng trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, trong đó có giáo dục. Tuy nhiên , qua thử nghiệm và theo dõi, tôi thấy
không phải bài nào cũng có thể áp dụng CNTT thành công. Nên chăng có lẽ chỉ nên áp
dụng nó ở phân môn tiếng Việt hay Tập làm văn. Còn môn giảng văn…có lẽ nên để cho
học viên được thả sức tung hoành trí tưởng tượng của mình theo những hình tượng văn học
dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của thầy. Bản thân tôi cũng đã từng so sánh khi soạn và dạy 2
bài giáo án điện tử: Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn và Vợ nhặt (Kim Lân) .Bài Phỏng vấn
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 10 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
và trả lời phỏng vấn rất thành công. Học viên nghe chăm chú, thảo luận sôi nổi cũng như
ghi chép đầy đủ hơn.Từ đó tôi thấy nên dạy bằng CNTT ở những giờ Tập làm văn, Tiếng
việt thì hợp hơn, dễ thành công hơn.
2.1.5 Cần liên hệ thực tế:
Môn văn là môn học góp phần lớn trong việc hình thành, giáo dục nhân cách cho học
viên. Mỗi một tác phẩm viết ra đều có hàm chứa một hay nhiều tình cảm đạo đức, từ đó nó
tác động tới nhận thức, tình cảm của học viên. Vì vậy nên khi dạy giáo viên nên khéo léo
liên hệ, tích hợp, lồng ghép kiến thức trong tác phẩm với kiến thức thực tế đời sống hay
các lĩnh vực khác như ;giáo dục môi trường, các tệ nạn xã hội vv..bên cạnh giáo dục tư
tưởng, thái độ sống đúng đắn cho các em. Ví dụ như khi dạy bài RỪNG XÀ NU (Nguyễn
Trung Thành) giáo viên nên liên hệ những phẩm chất đáng quý của người Tây nguyên như
phóng khoáng, yêu tự do, sức sống bền bỉ mãnh liệt, kiên cường bất khuất,một lòng một dạ
theo Đảng… cũng như vai trò của già làng với cộng đồng qua nhân vật cụ Mết.
Khi dạy bài AI ĐÃ ĐẶT TÊN DÒNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường) nên liên hệ thực
tế và giúp các em nhận thức được nhiệm vụ giữ cho môi trường ngày càng xanh-sạch-đẹp
hơn, để những dòng sông không bị biến thành “những dòng sông chết” do rác thải, do
nguồn nước ô nhiễm từ các công trình xây dựng và sinh hoạt do con người thải ra.
2.2 Rèn luyện khả năng viết một bài văn trong giờ tăng tiết và ở nhà:
Hoạt động của người giáo viên không chỉ ở trong lớp học, trong khi giảng bài. Chính sự
nhiệt tình của giáo viên bên ngoài các giờ học chính khóa có tác dụng giúp cho học viên có
ý thức rèn luyện tích cực hơn. Tuy rằng những hoạt động này mang tính bổ trợ nhưng có
vai trò không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Đối với môn văn, họat động đó
chủ yếu là đọc bài, sửa bài văn cho học viên. Sau các bài giảng chính khóa trên lớp, lớp 12
được học thêm mỗi tuần 2 tiết tăng tiết.Trong 2 tiết này, giáo viên hướng dẫn học viên ôn
tập các kiến thức cơ bản đã học trong tuần, đồng thời hướng dẫn học viên lập dàn ý cho 1
đề văn, ứng với một tác phẩm cụ thể trong chương trình của tuần vừa học. Tuy nhiên, mọi
hoạt động thuộc về trách nhiệm, bổn phận của người giáo viên có thể dừng lại ở mức độ
đó. Cũng có nghĩa là sau đó, dựa vào các dàn ý được lập sẵn, học viên nào siêng năng thì
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 11 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
tập viết, học viên nào lười nhát thì thôi. Ngoài ra, thời gian dành cho môn Làm văn chỉ gói
gọn trong các tiết lý thuyết trên lớp, vì tiết thực hành chính là tiết học viên làm bài viết số
1, 2, 3 và đó là bài tập lấy điểm chính thức. Đìều này dẫn đến thực trạng phổ biến là tuy
học viên chăm chỉ học bài, thuộc bài, phát biểu sôi nổi nhưng kết quả học tập không cao.
Bởi vì điểm số của các bài viết trên lớp có hệ số 2.Quan trọng hơn là nhiều học viên buồn
chán vì điểm số các bài viết thấp . Trước thực trạng này, giáo viên chúng ta cần cố gắng
tìm sửa những lỗi diễn đạt của hoc viên trong các bài văn để giúp các em rèn luyện khả
năng viết. Tôi đã nghiêm chỉnh thực hiện thao tác này và đã được các em nhiệt tình hưởng
ứng. Tiến trình cụ thể như sau:
2.2.1 Tìm hiểu đề
Đối với đề văn tự luận, các yêu cầu thường tập trung vào hai lĩnh vực: nghị luận xã hội
và nghị luận văn học.
Nghị luận xã hội đòi hỏi học viên có khả năng nhận thức ý đồ của người ra đề
đồng thời vận dụng tri thức và kinh nghiệm xã hội để trình bày.
Ví dụ, đề bài sau: Bình luận ý kiến của Sê – Khốp (nhà văn Nga):"Con người càng phát
triển cao về trí tuệ và đạo đức thì càng tự do và cuộc sống càng đem lại cho anh ta nhiều
thích thú hơn" ( Ngữ văn 12 - sách Giáo viên, trang 34)
Với đề bài này, giáo viên cần giúp học viên xác định yêu cầu trọng tâm của đề. Nhấn
mạnh cho học viên các ý cần bám sát để triển khai: trí tuệ - đạo đức- tự do – những điều
thích thú từ đó tìm hiểu mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa chúng.
Lưu ý: Thông thường, khi ra đề, giáo viên không giải thích thêm, nhưng đối với đối tượng
học viên chưa có được năng lực xác định yêu cầu của đề thì chúng ta buộc phải tiến hành
thao tác này. Song hành với công việc này, giáo viên hướng dẫn học viên lần tìm ý chính, ý
quan trọng trong một đề văn, từ đó biết định hướng làm bài.
Nghị luận văn học đòi hỏi học viên có khả năng cảm thụ văn học và diễn đạt thành
văn những ý tưởng nghị luận của mình. Dạng đề thường gặp là nghị luận về một
bài thơ, một đoạn thơ, một nhân vật…
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 12 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Ví dụ: trong bài viết số 3 ở HKI, phần tự luận, tôi yêu cầu học viên làm một trong các đề
sau:
a. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc qua đoạn thơ sau:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hái ân tình thủy chung.
(Việt Bắc- Tố Hữu )
b. Vẻ đẹp bi tráng của đoàn binh Tây Tiến trong đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến - Quang Dũng )
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 13 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Đối với nghị luận văn học, học viên dễ dàng xác định yêu cầu của đề hơn, vì các em đã
được tiếp cận với nội dung đó qua tiết giảng bài của giáo viên trên lớp. Vì vậy giáo viên có
thể không cần phải hướng dẫn các em thao tác tìm hiểu đề.
2.2.2 Viết đúng mở bài
Viết mở bài là “nỗi khổ” của rất nhiều học viên, từ những học viên khá giỏi đến những
học viên yếu kém. Các em luôn lúng túng khi viết phần mở đầu cho một bài văn, thời gian
dành cho công việc này thông thường chiếm từ 15 phút đến 20 phút, thậm chí đến 25 phút
đối với học viên yếu. Như vậy, sau khi viết được mở bài, các em chỉ còn rất ít thời gian để
triển khai các nội dung chính cho bài văn.
Điều quan trọng là trong khoảng thời gian đó, các em lại viết mở bài sai. Sai kiến thức,
sai ngữ pháp, lệch trọng tâm so với đề bài. Cho nên, trong các giờ tăng tiết ở đầu năm học,
tôi mạnh dạn bỏ thời gian rèn luyện cách viết mở bài nhanh và đúng.
Chúng tôi khắc sâu vào nhận thức học viên các yêu cầu sau đây:
* Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý:
---- Phải bám sát vẩn đề trong đề bài, dùng những cách mở bài diễn dịch hoặc quv nạp để
dẫn dắt, giới thiệu tư tưởng cần nghị luận.
---- Dần nguyên văn câu nói (nếu có).
--- Nêu hướng nghị luận.
Ví dụ: Với đề bài: Anh (chị) hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu: "Ôi! sống đẹp là
thế nào hỡi bạn? Chúng ta hướng dẫn học viên lần lượt viết các ý sau:
-
Sống đẹp là một thái độ sống tích cực mà bất cứ ai trong chúng ta cũng phải phấn đấu,
rèn luyện.
-
Trong một bài thơ của mình, nhà thơ Tố Hữu đã viết:
"Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phái hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 14 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Cũng trong bài thơ này, nhà thơ đã gửi đến tuổi trẻ chúng ta một câu hỏi lớn. Ôi! sống
đẹp là thế nào hỡi bạn? Hôm nay, tuổi trẻ chúng ta chọn cách sống như thế nào?
* Nghị luận về một hiện tượng đời sống:
- Giới thiệu tóm lược hiện tượng trong 1 hoặc 2 câu văn
- Nêu vấn đề.
- Nêu hướng nghị luận.
Ví dụ đề văn: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông? Hướng học viên viết các ý sau:
- Con người ai cũng mong cuộc sống yên lành, ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, vấn đề lưu
thông và tai nạn giao thông đang là một hiện tượng nóng bỏng, làm đau đầu các nhà lãnh
đạo,gây biết bao thiệt hại cho con người.
- Không ai trong chúng ta có thể thờ ơ trước tai nạn giao thông.
- Tuổi trẻ học đường chúng ta cần phải làm gì trước vấn nạn ấy?
* Nghị luận về một bài thơ, một đoạn thơ,một nhân vật văn học:
- Phần mở đoạn (dẫn dắt vấn đề): Viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan gần gũi
với vấn đề chính sẽ nêu. Tùy nội dung vấn đề chính mà người viết lựa chọn câu dẫn dắt có
thể là một câu thơ, một câu danh ngôn, một nhận định, hoặc một câu chuyện kể.
- Phần giữa đoạn (nêu giới hạn của vấn đề): Nêu vấn đề chính sẽ bàn bạc trong thân bài,
tức là luận đề (Giới thiệu tác giả và tác phẩm văn học có liên quan đến vấn đề nghị luận).
Vấn đề chính này có thể đã chỉ rõ, có thể người viết tự rút ra, tự khái quát. Đối với phân
tích bình giảng thơ thì thường là nêu ấn tượng bao trùm mang tư tưởng chủ đề mà người
đọc cảm nhận được.
- Phần kết đoạn (nêu vấn đề nghị luận): Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ
trình bày. Có thể đó là những nhận xét đánh giá sơ bộ của người viết về tác phẩm, về nhân
vật ... Đây là phần trọng tâm của mở bài. Vấn đề nghị luận có thể đã được nêu ở đề bài
(người viết chỉ việc giới thiệu hoặc ghi lại đoạn trích, câu trích ở đầu bài) nhưng cũng có
khi người viết phải tự rút ra, tự khái quát khi tìm hiểu đề bài.
Có thể rút ra công thức viết đoạn mở bài như sau:
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 15 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
(Phần mở đầu) Câu 1
(Phần giữa) Câu 2
(Phần kết) Câu 3
Dẫn dắt vấn đề
Nêu tác giả, tác phẩm
Nêu vấn đề nghị luận
Ví dụ: Đề văn về đoạn thơ Việt Bắc đã nêu ở phần trên.
Cần hướng dẫn học viên viết được các nội dung sau:
- Tố Hữu là nhà thơ tiêu biếu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu mang phong
cách trữ tình chính trị và tính dân tộc đậm đà. Là nhà thơ chiến sĩ, Tố Hữu thường sáng
tác những tác phẩm nóng hổi tính thời sự.
- Tháng 10 -1954, sau chiến thắng ĐBP và Hiệp định Giơnevơ, các cơ quan Trung Ương
của Đảng và Nhà nước từ chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Trước niềm vui lớn lẫn
nỗi luyến tiếc nhớ thương những người dân đã đồng cam cộng khổ, Tố Hữu sáng tác bài
thơ Việt Bắc.
- Bài thơ có những đoạn ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc rất ấn
tượng. Nêu đoạn thơ cần nghị luận.
Lưu ý:
Mỗi tuần chỉ triển khai cách mở bài cho một dạng đề. Thậm chí nếu lớp chưa viết được,
phải kiên trì với loại đề đó, không nên vội vàng chuyển sang loại đề khác.
Sau khi hướng dẫn lý thuyết yêu cầu đối với từng loại đề, nếu còn thời gian, giáo viên cho
học viên tập viết tại lớp, giáo viên đi quanh lớp chỉnh sửa từng lỗi câu, ý, chính tả... cho
học viên. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi giáo viên sửa bài viết cho tất cả các học
viên trong lớp mình. Thậm chí, nếu ở trên lớp không đủ thời gian, giáo viên yêu cầu học
viên về nhà làm tiếp và nộp lại, giáo viên sẽ tiếp tục sửa và trả lại sau đó vài ngày. Lòng
nhiệt tình chỉ dẫn của giáo viên khiến cho các học viên ý thức được việc rèn luyện văn
chương là vô cùng cần thiết cho bản thân. Từ đó, các em cố gắng viết và đã tiến bộ hơn
trước nhiều.
2.2.3 Triển khai ý trong thân bài
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 16 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
Sau khi học viên viết được mở bài, giáo viên tiếp tục tiến hành hướng dẫn học viên viết
thân bài. Hoạt động này cũng được tiến hành hướng dẫn trên lớp, sửa lỗi tại lớp và ở nhà
như hoạt động rèn luyện viết mở bài.
a. Đối với kiểu bài nghị luận xã hội.
Hướng dẫn học viên nắm thật vững các yêu cầu sau:
- Giải thích hoặc tóm lược vấn đề cần nghị luận
- Lần lượt phân tích từng khía cạnh đúng / sai, tốt/ xấu của vấn đề.
- Nêu nguyên nhân và hậu quả của vấn đề/ hiện tượng.
- Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó.
V í du :
Với đề bài: Anh (chị) hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu: "Ôi! Sống đẹp là thế nào
hỡi bạn? Chúng ta hướng dẫn học viên lần lượt viết các ý sau:
- Sống đẹp là...
- Các biểu hiện của lối sống đẹp.
- Giới thiệu một số tấm gương sống đẹp.
- Phê phán những quan niệm và lối sống không đẹp.
- Phương hướng rèn luyện của bản thân để hướng tới lối sống đẹp.
Với đề bài : Bàn về Nguyễn Hữu Ân trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12 tập 1, chúng ta
hướng dẫn học viên viết theo các gợi ý sau:
- Nguyễn Hữu Ân đã nêu cao tấm gương hiếu thảo, nhân ái,vị tha.
- Tuổi trẻ hiện nay có nhiều tấm gương như Nguyễn Hữu Ân
- Tuổi trẻ hiện nay vẫn còn có một số người sống ích kỷ, vô cảm, cần phê phán
- Tuổi trẻ cần dành thời gian cho việc tu dưỡng,lập nghiệp, sống vị tha... để trở thành
người có ích..
b. Đối với kiểu bài nghị luận văn học, giáo viên hướng dẫn học viên nắm thật vững các
yêu cầu sau:
- Lần lượt bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm/đoạn trích theo hai
hướng:
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 17 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
+ Tuần tự từ trên xuống dưới.
+ Bổ dọc theo luận điểm của đề yêu cầu.
Ví dụ đề văn: Phân tích bài thơ Chiếu tối của Hồ Chí Minh chúng ta hướng dẫn học viên
viết theo các gợi ý sau:
- Vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng.
- Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.
- Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và tinh thần hiện đại.
Ví dụ đề văn: Phân tích đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu (đề 2 - sách giáo khoa
trang 84) —♦ giáo viên hướng dẫn học viên viết theo các gợi ý sau:
o Khí thế của cuộc kháng chiến chống Pháp.
o Khi thế chiến thắng của các chiến trường khác nhau.
o Nghệ thuật sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ tài tình của tác giả.
Hướng dẫn học viên kỹ năng chuyển đoạn
Dùng các từ ngữ hoặc câu văn thể hiện đúng mối quan hệ nội dung giữa
các phần, các ý để liên kết chúng lại, làm cho bài văn liền mạch.
Dùng các kết từ hoặc các ngữ tương đương với kết từ.
Nối các đoạn có:
- Quan hệ thứ tự với nhau: trước tiên, trước hết, thoạt tiên, tiếp theo,
sau đó, một là, hai là, cuối cùng, sau cùng, sau hết…
- Quan hệ song song: một măt, mặt khác, ngoài ra, bên cạnh đó…
- Quan hệ tăng tiến: vả lại, hơn nữa, thậm chí…
- Quan hệ tương đồng: tương tự, cũng thế, cũng vậy, cũng giống như
trên…
- Quan hệ nhân quả: bởi vậy, bởi thế, cho nên, vì lí do trên…
- Quan hệ tương phản: nhưng, song, tuy nhiên, tuy thế, thế mà, thế
nhưng, trái lại, ngược lại…
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 18 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
- Quan hệ tổng kết với các đoạn trước: tóm lại, tổng kết lại, chung
quy…
Vd: Chung quy vẫn là những sự ngẫu nhiên may mắn song hành một
cách hài hòa với cái quy luật xã hội mà ta đã nói ở trên.
Tuy nhiên, nếu theo dõi sát quá trình diễn biến tâm lí của Xuân
Tóc Đỏ, sẽ thấy nó càng ngày càng chủ động hơn, nghĩa là càng có ý
thức hơn trong cuộc khai thác những may mắn của số phận nó…
… Khái quát lại, có thể nói như thế này: Xuân Tóc Đỏ, từ thế giới hạ
lưu, đột nhập vào thế giới thượng lưu vừa do số đỏ, vừa không hoàn
toàn ngẫu nhiên.
Dùng câu chuyển đoạn.
-. Chêm vào mạch văn những câu thông báo trực tiếp ý định
chuyển đoạn của người viết.
Vd: Trở lên, tôi đã đứng về phía người đọc, người nghe mà nhìn
nhận tác dụng của phê bình. Cũng có thể đứng về phía người sáng tác
mà nhìn nhận vấn đề.
Chuyển đoạn bằng những câu nối kết ý một cách tự nhiên.
Vd: …Nhưng đã yêu là phải nhớ. Người dân ta nhớ như thế
nào?...Nhớ nghĩa là buồn. Người Việt Nam ta buồn như thế nào?...Yêu
người yêu còn hẹp, tâm hồn người dân ta yêu rộng rãi hơn nữa.
* Lưu ý: để viết được những lời chuyển đoạn thích hợp, học viên
cần xác định cho đúng mối quan hệ về nội dung giữa các đoạn.
2.2.4 Viết kết bài
Kết bài là phần rất quan trọng đối với bài văn nghị luận, đó là phần kết thúc vấn đề đã
đặt ra ở phần mở bài và đã giải quyết ở phần thân bài. Tuy nhiên vì nhiều lí do khác nhau,
kết bài thường là phần “đuối” nhất so với các phần khác của bài văn. Nguyên nhân khách
quan, do kết bài là phần cuối cùng, khi làm đến kết bài thì gần hết giờ nên các em thường
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 19 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
làm rất vội, làm cho có, cho đầy đủ bố cục. Nguyên nhân chủ quan, thứ nhất là sau khi làm
một phần thân bài dài, phải đi phân tích, bình luận nhiều ý nên đến cuối bị cụt ý, không con
gì để nói, thứ hai do bản thân thiếu kinh nghiệm làm kết bài. Giống như phần mở bài, phần
này chỉ nêu lên những ý khái quát, không trình bày lan man, dài dòng hoặc lặp lại sự giảng
giải, minh họa, nhận xét một cách chi tiết như ở phần thân bài. Nhưng nó cũng khác phần
mở bài. Nếu như phần mở bài có nhiệm vụ giới thiệu vấn đề sẽ được nghị luận thì phần kết
bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá chung vấn đề đã được nghị luận. Kết thúc vấn đề hay sẽ
tạo được “âm vang”, “dư ba” cho bài văn
Nguyên tắc kết bài:
- Thể hiện đúng quan điểm đã trình bài ở phần thân bài.
- Chỉ nêu ý khái quát, thiên về tổng kết, đánh giá vấn đề.
Cách kết bài: Hướng dẫn học viên có thể tiến hành theo các bước sau
-
Tóm lược: Khẳng định lại quan điểm đã trình bài bằng cách tóm lược những luận
điểm lớn.
- Phát triển: Mở rộng thêm vấn đề, gợi cho người đọc tiếp tục suy nghĩ thêm.
- Vận dụng : Từ kết quả bàn bạc đã đạt được hướng người đọc vào hành động thực tiễn.
a. Đối với kiểu bài nghị luận xã hội, giáo viên hướng dẫn học viên viết kết luận
như sau:
- Khái quát ý đã viết trong thân bài.
- Nêu cảm xúc, định hướng của bản thân sau khi đã thấu hiểu vấn đề.
Ví du : Với đề bài bàn về Nguyễn Hữu Ân trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12 tập 1 chúng ta
hướng dẫn học viên viết kết bài như sau:
- Nguyễn Hữu Ân là điển hình của tuổi trẻ Việt Nam về một lối sống đẹp - sống quên mình.
- Chúng ta cần ý thức rèn luyện nhân cách của mình trong mọi hoàn cánh khác nhau của
cuộc sống để trở thành niềm tự hào của gia đình, người thân và trở thành công dân tốt của
xã hội.
b Đối với kiểu bài nghị luận văn học, giáo viên hướng dẫn học viên viết kết luận
như sau:
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 20 -
SKKN: Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng viết môn Ngữ Văn cho HV khối GDTX
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm/ đoạn trích.
- Cảm xúc của bản thân về tác phẩm/ đoạn trích đó.
Ví dụ đề văn: Phân tích đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu (đề 2 - sách giáo khoa
trang 84) ,giáo viên hướng dẫn học viên viết:
- Đoạn thơ đã thể hiện rất thành công cảm hứng ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân ta.
- Đoạn thơ đã gợi lên trong lòng người đọc niềm tự hào, xúc động sâu sắc về vẻ đẹp của
nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập...
Sau khi hướng dẫn lý thuyết yêu cầu đối với từng loại đề, nếu còn thời gian, giáo viên cho
học viên tập viết tại lớp, giáo viên đi quanh lớp chỉnh sửa từng lỗi câu, ý, chính tả... cho
học viên. Xin được nhắc lại, hoạt động này chỉ có hiệu quả khi giáo viên sửa bài viết
cho tất cả các học viên trong lớp mình. Thậm chí, nếu ở trên lớp không đủ thời gian, giáo
viên yêu cầu học viên về nhà làm tiếp và nộp lại, giáo viên sẽ tiếp tục sửa và trả lại sau đó
vài ngày. Lòng nhiệt tình chỉ dẫn của giáo viên khiến cho các học viên ý thức được việc
rèn luyện văn chương là vô cùng cần thiết cho bản thân. Từ đó, các em cố gắng viết.
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Ngữ Văn.
Đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay,
khoa học-kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Ngữ Văn sẽ giữ mãi tâm hồn con người, giữ lại
những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hoà cùng nhịp đập
trái tim. Tôi hy vọng rằng, sau khi nghiên cứu tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản
thân người học và người dạy sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và
học đối với học viên GDTX. Từ đó, rất mong kết quả học Văn của các em sẽ tốt hơn, các
em sẽ yêu thích, ham mê học môn Ngữ Văn hơn nữa.
IV.
KẾT QUẢ.
Qua một thời gian rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi
nhận thấy chất lượng dạy và học đối với môn Ngữ Văn được nâng cao rõ rệt. Với phương
diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong
chuyên môn, tự tin, say mê hơn với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói "Nghiệp Văn
Gv: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trung tâm GDTX Vĩnh Cửu
- 21 -
- Xem thêm -