MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ:
Bất cứ một ai khi đã chọn ngành nghề cho mình thì đều đã xác định cái
đích mình cần đạt đến. Cũng như mọi ngành nghề khác, khi đã chọn nghề dạy
học gắn bó với cả cuộc đời mình có nghĩa là người thầy đã sẵn sàng đón nhận
bất cứ đối tượng học sinh nào để dạy dỗ các em đó trở thành người có đức, có
tài.
Đối tượng học sinh cấp tiểu học ở những độ tuổi khác nhau và nhiều
dạng khác nhau. Trong đối tượng học sinh này có một dạng gọi là học sinh cá
biệt. Những học sinh này luôn tạo ra sự phiền hà và bận rộn hơn cả cho người
thầy. Đối với những học sinh này không phải khi nào người thầy cũng thành
công trong quá trình giáo dục.
Năm học 2010 – 2011 tôi được nhà trường phân công làm công tác chủ
nhiệm lớp 2A. Đây là lớp các đối tượng học sinh ở rải rác khắp nơi có cả học
sinh ở xã Tân Ân - Ngọc Hiển đi đò sang học. Tổng số học sinh cả lớp là 30
em. Đa số các em đều ngoan và chăm chỉ học tập. Duy chỉ có 2 học sinh nam
thuộc dạng học sinh cá biệt. Trong số học sinh này có thể chia thành 2 nhóm:
nhóm chậm tiến về mặt học tập và 1 nhóm chậm tiến về mặt đạo đức.
* Nhóm chậm tiến về mặt học tập:
+ Nguyễn Văn Vũ :
Hoàn cảnh gia đình em gặp nhiều khó khăn, cha mẹ không có nghề
nghiệp phải đi làm mướn kiếm sống qua ngày, ít quan tâm đến việc học tập của
con. Nhà em lại ở xa trường đi lại rất khó khăn nhất là những ngày nước ngập.
Vì vậy, em đọc, viết và làm toán còn yếu.
* Nhóm cá biệt về đạo đức:
+ Trần Trí Tài :
Nhà em Tài cả bố và mẹ đều không có việc làm ổn định, gia đình sống
không hạnh phúc và đã chia tay nhau. Hiện nay em ở chung với bà ngoại nên
thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Em thường nóng nảy, khó gần gũi với bạn bè.
Đến lớp em hay vi phạm nội quy nhà trường như: đánh bạn, nói tục, chửi thề,...
Theo tôi, muốn đạt hiệu quả trong công việc giáo dục học sinh cá biệt,
đặc biệt trong lứa tuổi này, người thầy cần phải hiểu rõ một số vấn đề mà tôi
cho rằng nó là cơ sở tạo nên sự thành công trong công việc giáo dục ấy, đó là:
Người thầy phải xác định một cách đúng đắn vị trí, mối quan hệ giữa
thầy và trò trong hoạt động dạy và học.
Sự tác động của gia đình, xã hội đối với lứa tuổi này.
Sự thay đổi về tâm lí lứa tuổi.
PHẦN II: BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT CÓ HIÊU
QUẢ.
* Biện pháp thứ nhất: Người thầy xác định rõ vị trí và mối quan hệ thầy
trò trong quá trình hoạt động dạy và học:
Người thầy giáo trong quá trình thực hiện việc giáo dục bao giờ cũng
xuất hiện với tư cách là tác nhân, còn học sinh xuất hiện với tư cách là chủ thể
được giáo dục. Vai trò của học sinh luôn được đề cao, chúng hoàn toàn chủ
động trong mọi công việc từ nhận thức tư duy đến thái độ, hành vi và hoạt động
của chúng trong quá trình được giáo dục. Thầy chính là người cố vấn, là người
định hướng dẫn dắt, chỉ bảo cho trò có được những nhận thức, tư duy và hành
vi thích hợp đúng đắn.
Vào đầu năm học bản thân tôi tự kiểm tra lại kiến thức của các em để có
kế hoạch bồi dưỡng các em ngay từ tuần đầu của năm học.
Đối với em Vũ tôi thường xuyên quan tâm hơn. Những ngày ở trường
trong các giờ học tôi đều gần gũi, động viên em cố gắng học tập, dạy lại cho em
từ những kiến thức mà em chưa hiểu, chưa nắm được. Tôi cho em 2 cuốn vở, 1
cuốn tôi viết mẫu cho em luyện viết chữ ở nhà, 1 cuốn khác tôi dạy em làm các
dạng toán trong chương trình lớp 1 để củng cố lại kiến thức mà em chưa nắm
được. Giờ học nào tôi cũng dành vài phút kiểm tra việc đọc bài của em, chữ nào
khó yêu cầu em dừng lại đánh vần nhẩm rồi đọc to. Cuối buổi học tôi thu 2
cuốn vở của em chấm và kiểm tra bài làm của em, sửa chữa những sai sót để
em rút kinh nghiệm cho bài sau. Ngoài ra tôi còn phân công em Vy là học sinh
giỏi của lớp kèm cặp em Vũ trong các giờ học trên lớp cũng như thời gian rảnh
ở nhà.
Đối với em Tài bước đầu tôi đã gặp gỡ gia đình em trao đổi và đưa ra
một số biện pháp để gia đình và giáo viên cùng phối hợp thực hiện. Trong giờ
ra chơi tôi thường gọi em lại hỏi thăm hoàn cảnh gia đình, tìm hiểu về những sở
thích, mơ ước sau này của em. Tôi ôm em vào lòng và kể cho các em nghe
nhiều tấm gương vượt khó vươn lên trong học tập. Tôi khuyên em cần sữa chữa
những khuyết điểm mà em hay mắc phải, sống vui vẻ, hòa đồng với bạn bè.
Trong giờ học, tôi hay để ý đến những hành động, cử chỉ của em để kịp thời
uốn nắn và động viên những tiến bộ của em. Ngoài ra tôi còn thực hiện phong
trào “ Đôi bạn cùng tiến” trong học tập cũng như trong sinh hoạt hằng ngày,
nhằm giúp các em tiến bộ về mọi mặt.
* Biện pháp thứ 2: Phối hợp đồng bộ trong giáo dục đạo đức cho học
sinh.
Tục ngữ có câu: “Cha nào con nấy”, chúng ta đều biết rằng con trẻ là dấu
ấn của một gia đình. Nhân cách cũng như sự giáo dục của chúng trong giai
đoạn này đang hình thành nên việc chúng chịu những tác động của người xung
quanh nhất là những người thường xuyên gần gũi chúng rất quan trọng. Nên
ngoài việc chịu tác động giáo dục của nhà trường thì học sinh còn tác động giáo
dục của cha mẹ chúng, của xã hội. Tất nhiên ta cũng không thể phủ nhận những
trường hợp “nẩy nòi”, theo kiểu “cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Chỉ mới thế
thôi cũng đủ để chúng ta nhận thấy rằng tính cách của học sinh còn chịu tác
động từ rất nhiều mối quan hệ trong gia đình và xã hội.
Trước hết tôi gặp gỡ gia đình các em trao đổi và đưa ra một số biện pháp
để gia đình và giáo viên cùng phối hợp thực hiện.Tham mưu với BGH nhà
trường, thầy tổng phụ trách đội ,... hỗ trợ thêm về vật chất cũng như tinh thần
để giúp các em có điều kiện học tập tốt hơn. Ngoài ra tôi còn nhắc nhở các bạn
trong lớp quan tâm, giúp đỡ bạn, luôn gần gũi với bạn để giúp bạn cùng tiến bộ.
* Biện pháp thứ 3: Đổi mới trong đánh giá HS và động viên, khen
thưởng
Học sinh tiểu học lứa7, 8 tuổi các em rất nghịch và hiếu động, chưa làm
chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay
bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Nhưng dù
sao ở lứa tuổi này các em rất thích được tán dương, được khen ngợi. Chính vì
vậy mà chúng ta phải tìm ra những giải pháp thích hợp để giáo dục trẻ em, định
hướng đúng đắn cho trẻ trong các hoạt động giáo dục, dạy học và vui chơi của
trẻ một cách phù hợp nhất.
Chúng ta không thể áp dụng cách thức giáo dục trẻ em mẫu giáo cho lứa
tuổi tiểu học cũng như áp dụng cách thức giáo dục của học sinh trung học cho
học sinh tiểu học, có như vậy thì chúng ta mới có thể giáo dục học sinh phát
triển một cách đúng đắn nhất về nhân cách cũng như nhận thức của học sinh
trong từng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn phát triển khác
nhau của học sinh chúng ta cũng không thể áp dụng một cách cứng nhắc, dập
khuôn, hình mẫu phát triển của học sinh trong giai đoạn đó mà còn tùy thuộc
vào tố chất, năng lực, thể lực của học sinh đó cũng như những tác động của gia
đình và xã hội của mỗi một cá nhân học sinh mà ta có những cách thức giáo
dục thích hợp nhất cho chúng có thể phát triển một cách hài hòa trong học tập,
nhận thức và hành vi khi chúng tham gia vào các mối quan hệ với cộng đồng xã
hội trong tương lai.
Hiểu được vấn đề này đối với mỗi một người thầy, người cô làm công tác
chủ nhiệm lớp là một điều kiện cần thiết. Song quan trọng hơn là từ sự hiểu biết
đó mà mỗi một người thầy, người cô phải có những phương pháp giáo dục
thích hợp đối với từng đối tượng học sinh cá biệt.
* Về phía thầy:
Trước hết, người thầy phải có những phẩm chất sau:
Người thầy phải có “tâm” , cái “tâm” sẽ dẫn đến sự bao dung, dẫn đến
trách nhiệm của người thầy đối với một con người. Và cái “tâm” cũng làm nảy
sinh nhiều biện pháp giáo dục.
Người thầy phải tôn trọng và có lòng tin đối với trò bởi học sinh cá biệt
là những em có cá tính mạnh mẽ.
Người thầy cần tránh sự xúc phạm các em trước tập thể lớp.
Người thầy cần phải có những biện pháp động viên, khích lệ để các em
có được sự tự tin trong học tập.
Đặc biệt người thầy phải giữ được chữ tín đối với trò cả về tri thức lẫn
nhân cách. Đây là điều điều không thể thiếu được của người thầy trong việc
giáo dục những học sinh cá biệt.
* Về phía trò:
Giáo viên chủ nhiệm phải nắm được đặc điểm hoàn cảnh gia đình để
thông cảm, tránh sự xúc phạm vô tình đối với trò.
Người thầy phải tìm hiểu, khai thác những điểm tốt của trò và những
điểm yếu cơ bản nhất để tác động làm thay đổi tính cách của trò.
Người thầy phải tìm hiểu những suy nghĩ và những điều trò muốn. Có
như vậy mới giúp các em tháo gỡ được những vướng mắc của mình.
* Biện pháp thứ 4: Tạo môi trường giáo dục thuận lợi để giáo dục học
sinh:
Gia đình:
Giữa nhà trường và gia đình phải có sự kết hợp chặt chẽ, sự kết hợp giáo
dục này phải diễn ra rất tế nhị và thường xuyên. Tránh những hành động nóng
nảy của gia đình đối với trò.
Nhà trường:
Đối với chủ nhiệm dùng ảnh hưởng của tập thể lớp và dư luận của tập thể
để tác động sao cho học sinh cá biệt ấy phải thức thấy những thiếu sót của
mình. Đồng thời làm sao để trò nhận thấy trong sự tác động đó có tình thương
yêu và trách nhiệm của tập thể, của thầy cô giáo đối với mình. Có thể dùng bạn
khác giới để giáo dục (nếu cần thiết).
PHẦN III: KẾT QUẢ.
Kết quả đạt được: Cụ thể theo bảng thống kê sau:
BB BB B B B BB B Ê B BB B B B B BB B B VB B B B B B VB B B B BB BB B
BBBB BBBBBB
STT
Họ và tên
Tiêu chí đánh giá
BBBB BBBB BBBB
Đầu năm học
1
Kết quả đạt được
giữa HKI
Đọc rất chậm, nhiều
Đọc bài to, rõ ràng
chữ khó phải dừng lại đánhvà lưu loát hơn.
vần rất lâu.
Viết chữ đủ nét,
Viết chữ thiếu nét, chưađều và tương đối thẳng
Nguyễn thẳng hàng, chưa đúng độ caohàng.
của từng con chữ.
Văn Vũ
Tính toán nhanh
Làm tính chậm chạp,hơn, bước đầu hiểu và
chưa nắm chắc cách giải toángiải được một số bài toán
có lời văn.
có lời văn.
Tính tình nóng nảy.
2
Tài
Em thay đổi rõ rệt
Hay mặc cảm với bạnsống hòa đồng với bạn
bè, biết vâng lời thầy, cô
bè.
giáo và cha mẹ.
Thường xuyên vi phạm
Trần Trí
Thực hiện tốt nội
nội quy
quy nhà trường.
của nhà trường như:
đánh bạn, nói tục, chửi thề,
…
Hết học kì I, các em đều tiến bộ rõ rệt về đạo đức cũng như học tập. Sống
hòa nhập với tập thể lớp. Các em đoàn kết, gắn bó hơn, giúp đỡ nhau trong học
tập, có ý thức trách nhiệm với bản thân và tập thể. Kết quả lớp đã được nhà
trường tuyên dương trong đợt thi đua chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 2011.
Tác dụng và phạm vi ứng dụng:
Tác dụng:
Các em ngoan, chăm chỉ học tập hơn. Sống hòa nhập với bạn bè và tập
thể lớp.
Gia đình phấn khởi, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con, em mình học
tập
tốt hơn.
Góp phần cho xã hội tạo sân chơi lành mạnh. Khi HS ngoan các em sẽ
tích cực tham gia hoạt động ở địa phương.
Phạm vi ứng dụng:
Đã áp dụng thành công ở trong tổ, trong trường tiểu học 3 chúng tôi.
Đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng cho phù hợp từng đối tượng
HS của lớp mình phụ trách.
Trên đây là một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt áp dụng
trong tổ đã có kết quả. Hi vọng được phổ biến, sử dụng cho các lớp, các trường.
Tùy theo điều kiện của từng trường chúng ta vận dụng cho phù hợp.
Năm Căn, ngày18 tháng 04 năm
2009
Người viết
Nguyễn Thị Hoàn
- Xem thêm -