Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số kinh nghiệm dạy tập làm văn miêu tả lớp 5 đạt kết quả tốt...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm dạy tập làm văn miêu tả lớp 5 đạt kết quả tốt

.PDF
33
1503
130

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ PLEIKU TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ LỚP 5 ĐẠT KẾT QUẢ TỐT MÃ SKKN: TH 1 Nă m họ c: 2015-2016 PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU TRƯỜNG: TIỂU HỌC TRẦN ĐẠI NGHĨA TỔ: 5 TÊN ĐỀ TÀI MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ LỚP 5 ĐẠT KẾT QUẢ TỐT MÃ SKKN: TH Họ và tên người viết: Nguyễn Thị Huyền Chức danh: Giáo viên 2 NĂM HỌC: 2015 - 2016 MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ LỚP 5 ĐẠT KẾT QUẢ TỐT. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Đất nước đang trong thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi nguồn nhân lực trí tuệ cao. Hơn nữa quá trình hội nhập khu vực và quốc tế với xu thế toàn cầu hóa đang là một thách thức đối với nước ta, đòi hỏi Nhà nước và Ngành Giáo dục phải có một chiến lược phát triển nhân tài. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung giáo dục một cách phù hợp. Vì vậy, mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc Trung học cơ sở”. (Trích Điều 27, Luật giáo dục) Trong hệ thống giáo dục quốc dân, có thể nói Giáo dục Tiểu học có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bước vào bậc Tiểu học các em được học tập Tiếng Việt, chữ Việt với phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ thật sự khoa học. Học sinh Tiểu học chỉ có thể học tập được các môn học khác khi có kiến thức tiếng Việt bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn như: Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn. Mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để giúp các em học tốt môn Tiếng Việt. Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt và các môn học khác. Vì nó quyết định nhiều mặt như: khi làm bài tất cả các môn học khác đều sử dụng đến hành văn, kể cả sau này không còn học dưới mái trường nữa thì Tập làm văn vẫn là hành trang để các em bước vào đời. Do đó để học tốt phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều môn học khác nhau. Vì thế để làm được một bài văn, không những học 3 sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải vận dụng các kỹ năng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn xung quanh mình. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trong quá trình dạy Tập làm văn, để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp các em học tốt các môn học khác, đồng thời giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt, hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1) Thực trạng tình hình : Năm học 2015 – 2016 là năm học thứ hai tiếp tục thực hiện đánh giá học sinh Tiểu học theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT và tiếp tục thực hiện lồng ghép tích hợp giáo dục Bảo vệ môi trường, tài nguyên biển, hải đảo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào các môn học và hoạt động giáo dục cấp Tiểu học. Tăng cường giáo dục kĩ năng sống, giáo dục pháp luật cho học sinh, đồng thời tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động và phong trào: Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 5 và nghiên cứu môn Tiếng Việt tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học khác nhau trong môn Tiếng việt. Nội dung các bài Tập làm văn lớp Năm thường được gắn với chủ điểm đang học của các bài Tập đọc theo chương trình. Kiến thức Tập làm văn lớp Năm trang bị cho học sinh lớp Năm thông qua các bài luyện tập, thực hành. Nội dung các bài luyện tập trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Năm giúp học sinh hoàn thiện những hiểu biết ban đầu về văn miêu tả (tả cảnh, tả người), có một số hiểu biết về mục đích giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp để thực hành vận dụng các loại văn bản khác như: Làm báo cáo thống kê; làm đơn; làm biên bản; thuyết trình tranh luận; lập chương trình hoạt động; tập viết đoạn đối thoại. 4 Ngoài việc cung cấp một số kiến thức mới, nội dung dạy học Tập làm văn lớp Năm còn có các bài ôn tập nhằm củng cố, hệ thống hoá những kiến thức đã học về văn kể chuyện, về văn miêu tả chuẩn bị cho học sinh những điều kiện cần thiết để học lên lớp trên. Có thể nói rằng phân môn Tập làm văn giúp học sinh sau một quá trình luyện tập lâu dài, có ý thức dần dần nắm được cách viết các bài văn theo nhiều loại phong cách khác nhau. Các em được học tiếp về kĩ năng miêu tả như tả cảnh, tả người với những yêu cầu cao hơn. Học tốt phân môn Tập làm văn chính là học tốt môn Tiếng Việt và ngược lại. Để làm được bài văn miêu tả hay học sinh phải biết quan sát tìm ý lập dàn bài. Sau đó các em sẽ trình bày bài nói hoặc bài viết, thể hiện kĩ năng diễn đạt trôi chảy qua việc sử dụng cách dùng từ đặt câu, diễn ý, dựng đoạn. Bố cục của bài văn phải được trình bày mạch lạc, dùng từ chính xác, câu văn đúng ngữ pháp. Trong một bài văn học sinh phải tả được những nét tiêu biểu đặc sắc của cảnh vật gắn với hoàn cảnh không gian và thời gian cụ thể. Cảnh bao giờ cũng gắn với con người, được tạo dựng, tô điểm thành một bức tranh nho nhỏ sinh động bằng ngôn ngữ nói và viết. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tiếng Việt lớp 5 là hiệu quả của những bài văn hay. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật và giàu cảm xúc, đẹp cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Bài văn hay do các em viết ra phải miêu tả sự vật một cách chân thật, thể hiện được tình cảm, cảm xúc phù hợp với lứa tuổi, thể hiện ngôn ngữ trong sáng, giàu màu sắc, hình ảnh gợi tả và gợi cảm xuất phát từ những rung động trẻ thơ hồn nhiên giản dị. Mục tiêu cần đạt của Phân môn Tập làm văn là như vậy nhưng thực tế việc học Tập làm văn của các em còn nhiều hạn chế như: Cách dùng từ đặt câu chưa đúng, chưa sáng tạo, liên kết các câu thành đoạn văn, bài văn còn rời rạc, lủng củng, bố cục chưa khoa học. Nhiều bài viết còn sáo rỗng, câu từ, lời văn vay mượn quá nhiều. Một số bài viết sa vào kể lể lan man dài dòng. 5 Một vài em chưa phân biệt rõ giữa văn kể chuyện và văn miêu tả vì vậy bài văn khô khan thiếu hẳn câu văn hay hình ảnh đẹp. Bài viết còn nghèo nàn, đơn điệu các em chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả. Một số em chưa biết vận dụng lồng ghép kiến thức các môn học khác để hỗ trợ cho môn học Tập làm văn và các em cũng chưa biết học tập cách miêu tả đặc sắc những sự vật cùng đối tượng của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng mà các em đã được học. 2) Tìm hiểu nguyên nhân: a) Về phía học sinh: - Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả; chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn miêu tả với các kiểu bài văn khác. Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế. - Vốn từ ngữ của các em chưa nhiều, các em chưa biết cách chọn lọc các từ ngữ khi miêu tả. Nhiều em chưa hiểu hết nghĩa của những từ mà các em dùng để tả. Một số em còn vụng về khi liên kết các câu văn thành đoạn văn, các đoạn văn thành bài văn. - Đặc biệt kĩ năng sống của các em còn hạn chế vì vậy các em chưa biết cách xen lồng những suy nghĩ, cảm xúc của mình trong khi tả mà chỉ kể hoặc liệt kê ra những gì mình thấy. - Nhiều em chưa có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn, khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế, cảm xúc tình cảm không tự nhiên, còn gượng ép và khô cứng. - Một số em dựa vào văn mẫu nên bài viết sáo rỗng. Các em chưa biết biến bài văn tham khảo được thành bài văn của riêng mình, phù hợp với yêu cầu thực tế. - Một số em có tâm lí không thích học văn, không thích làm văn. Thích học các môn tự nhiên hơn. Có thể do gia đình hoặc xã hội tác động nên hầu hết các em tập trung vào học Toán. Cụ thể qua khảo sát đầu năm phân môn Tập làm văn lớp tôi chủ nhiệm như sau: 6 Hoàn thành Bài làm Lớp Sĩ số Bài làm có ý Bài làm đúng yêu tưởng sáng tạo, có cầu, song còn hạn cảm xúc, song bố chế về bố cục và cục còn hạn chế. cách dùng từ đặt câu. 6 em 16 em 11 em 2em 17,1% 45,7% 31,5 % 5,7% sáng tạo, bố cục chặt chẽ, giàu cảm xúc. 51 35 em Chưa hoàn thành b) Về phía giáo viên : - Một số giáo viên còn hạn chế trong việc truyền cảm hứng yêu thích môn học và giúp học sinh vận dụng kiến thức Tiếng Việt để rèn cho các em thói quen cảm nhận cái hay, cái đẹp của Tiếng Việt, giúp các em tìm ra những hình ảnh đẹp, những câu văn đặc sắc… của các tác giả mà các em được học. Từ đó bồi dưỡng cho các em khả năng cảm thụ văn học. - Một số giáo viên còn hạn chế trong việc tích hợp, lồng ghép các kĩ năng sống và truyền cảm hứng yêu thích môn học cho các em qua từng bài giảng, lời giảng hàng ngày và nếu có thì việc tích hợp, lồng ghép cũng chưa thường xuyên hay còn vụng về nên học sinh khó tiếp nhận hay tiếp nhận một cách gượng ép nên hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, mỹ cảm cho học sinh thông qua các môn học còn hạn chế - Đôi khi giáo viên chưa chú ý đến việc dạy cho học sinh cách lập dàn ý cho một bài văn và chưa kiên trì thường xuyên rèn kĩ năng viết bài cũng như kĩ năng giao tiếp cho học sinh. - Một số giáo viên còn ngại khi dạy Tập làm văn (vì các em thích học những môn học khác hơn) và chưa tạo được hứng thú cho học sinh trong giờ học cũng như thực sự chú ý đến việc hình thành cho các em thói quen tích luỹ những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học. - Một số giáo viên chỉ biết nội dung chương trình của lớp mình đang dạy chứ chưa nắm được cấu trúc chương trình toàn cấp học để biết các lớp trước học sinh đã được học những gì, có những bài văn, bài thơ nào viết về cùng đối tượng 7 mà mình đang dạy hôm nay và các lớp sau học sinh sẽ được học những gì nối tiếp chương trình mình đang dạy. Đứng trước nhiệm vụ năm học và yêu cầu giảng dạy tôi đã băn khoăn, suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp giúp học sinh làm văn miêu tả đạt kết quả tốt. Đây chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn miêu tả lớp 5 đạt kết quả tốt” 8 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Xuất phát từ những cơ sở đã nêu trên, tôi đã đưa ra những giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn, nhất là đối với văn miêu tả. Cụ thể như sau: 1. Truyền cảm hứng yêu thích môn học và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tôi đã đọc được câu nói của Nhà thi hào William A Waard: “Người thầy trung bình là người thầy chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng thích minh họa còn người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng”. Vì vậy trong tình hình thực tế hiện nay, bản thân tôi nghĩ rằng làm một người thầy giỏi chưa đủ mà có thể mong muốn cao hơn và vươn tới đích là người thầy vĩ đại. Do đó trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm cách truyền cảm hứng yêu thích môn học đến từng học sinh. Vì khi đã có lòng đam mê, yêu thích môn học chắc chắn các em sẽ say mê tìm tòi, chịu khó vươn lên và học tốt. Trước hết tôi đã giúp học sinh nhận thấy môn học Tập làm văn là môn học sáng tạo vì nó là môn học ứng dụng tất cả các kiến thức đã được học ở các phân môn như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Chính tả và tất cả các môn học khác trong nhà trường. Vì vậy học tốt Tập làm văn giúp các em rất nhiều trong việc học các môn học khác. Các em sẽ biết sử dụng ngôn ngữ nói, viết của mình để trao đổi, diễn đạt một cách chặt chẽ các vấn đề mà mình cần tìm hiểu. Những bạn học tốt phân môn Tập làm văn cũng chính là những bạn có năng lực học rất tốt, được giao nhiều việc của chi đội, của Liên đội và các bạn đó đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Bên cạnh đó các em cũng thấy rõ các bạn đó đều được nhiều người yêu mến vì ăn nói dịu dàng, lịch sự và giao tiếp tốt. Tôi cũng chỉ rõ cho học sinh biết, thông thường những người làm văn hay khi lớn lên sẽ có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn nghề nghiệp, nếu ra đời đi làm hay đi học thì những người giao tiếp tốt sẽ dễ dàng gặt hái được thành công hơn là những người nói năng vụng về, giao tiếp kém. Qua đó các em thấy rõ sự cần thiết cũng như vai trò to lớn của phân môn Tập làm văn đối với mỗi người trong học tập cũng như trong cuộc sống. Từ đó học sinh lớp tôi không sợ, không ghét phân môn Tập làm văn nữa mà các em dần dần yêu thích nhiều em đã say mê môn học này. 9 Bên cạnh đó, tôi luôn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh một cách bền vững nhất. Trước hết, tôi giúp các em cảm nhận một sự vật, một sự việc, một con người bằng tư duy tình cảm và lí trí. Thông qua hình ảnh đẹp, câu văn hay, những từ chìa khóa… trong các đoạn, bài văn, bài thơ (qua môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn…) tôi đã giúp các em nhận ra cái đẹp tự nhiên hiển hiện rõ ràng hoặc ẩn giấu của cuộc sống làm cho cuộc đời có nhiều người tốt đẹp, có đạo đức và các em cũng tự rút ra cho mình bài học sâu sắc nhất từ cách giao tiếp, ứng xử đối với gia đình, bản thân, bè bạn, giúp các em biết cách đối nhân xử thế. Biết cảm thông, biết bày tỏ tình cảm cần có của một con người như tình yêu thiên nhiên cỏ cây hoa lá, biển trời, núi đồi…tình làng nghĩa xóm, trân trọng con người dù họ lành lạnh, xinh xắn, đáng yêu hay tàn tật, xấu xí. Các em biết yêu thương gia đình, quý mến bạn bè, thương yêu loài vật… Ví dụ: Khi dạy về văn tả cảnh tôi hướng dẫn, gợi ý giúp các em nhận ra vẻ đẹp của cảnh vật xung quanh mình, mặc dù những cảnh vật đó rất gần gũi với các em như: Tả cảnh buổi sáng (buổi trưa, buổi chiều) trong vườn cây (hoặc trong công viên, đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). Tả cơn mưa, tả ngôi trường, tả ngôi nhà, tả một cảnh đẹp ở địa phương em, tả cảnh sông nước...nhưng qua những câu văn, hình ảnh đẹp các em đã biết thổi hồn vào cảnh vật làm cho cảnh vật thân thiện và như là bạn của con người. Hay khi dạy văn tả người như: Tả người thân trong gia đình; tả thầy, cô giáo; tả một người bạn của em… các em cũng hiểu được nỗi vất vả của cha mẹ, thầy cô, …hiểu được tính nết đáng yêu, đáng học tập của các bạn,… Từ đó các em bộc lộ bày tỏ tình cảm đối với những cảnh, những người mà các em chọn tả. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả cao thì giáo viên cần có kĩ năng sống tốt, và biết vận dụng linh hoạt kĩ năng sống vào trong từng bài giảng mỗi ngày cho học sinh, mỗi năm cho một lứa học sinh. Giáo viên cần có suy nghĩ sâu sắc, chính xác mà cụ thể dễ hiểu, những lời nói chân thành, sinh động giàu sức thuyết phục cao về bài học, những cách ứng xử hợp với tâm lí lứa tuổi, những lời nói thực sự đi đôi với việc làm của mỗi giáo viên sẽ góp phần đào tạo ra những con người có tâm hồn nhạy cảm, trong sáng, lương thiện, có thể chất khoẻ mạnh, có tri 10 thức dồi dào, hiểu biết rộng rãi, phân biệt rạch ròi tốt xấu. Đây cũng chính là mục tiêu mà Giáo dục hướng tới để đào tạo ra lớp người có đủ đức, tài gánh vác trọng trách của đất nước trong thời đại hiện nay. Vì vậy, bản thân tôi đã không ngừng học tập, tu dưỡng rèn luyện để có một tâm hồn nhạy cảm, vốn kiến thức uyên thâm và có kĩ năng sống tốt để nắm bắt được tâm lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn gần gũi, tận tình với các em. Đôi khi phải đóng một lúc cả ba vai: là cô, là mẹ, là chị và đôi lúc là bạn của các em để giáo dục kĩ năng sống một cách dễ dàng và hiệu quả nhất. Từ những cách làm trên tôi đã giúp học sinh yêu thích môn học và có kĩ năng sống tốt. Nhờ đó mà các em thấy được cái hay, cái đẹp của cảnh vật, của con người. Tạo cho các em tâm lí phấn khởi tự tin, thể hiện được những gì mình đã thấy, đã yêu, đã thích bằng ngôn ngữ chân thành của các em. Vì vậy mà khả năng giao tiếp của học sinh lớp tôi được nâng lên rõ rệt, góp phần không nhỏ trong phong trào: Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Và các em cũng làm tốt công tác tuyên truyền, hợp tác với mọi người xung quanh để bảo vệ thiên nhiên tươi đẹp, bảo vệ tài nguyên quý báu của quốc gia. Đây cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ chúng ta cần lồng ghép, tích hợp trong giảng dạy để bảo vệ môi trường, bảo vệ biển, hải đảo quê hương…Hơn nữa qua những việc làm trên đã góp phần tích cực trong việc đánh giá học sinh theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT (Học sinh tham gia nhận xét, đánh giá bạn bằng những từ, những câu, những lời nhận xét thật chính xác, xuất sắc của các em). 2. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả. Ở lớp 4 các em đã học: Thế nào là văn miêu tả? (TV4-tập 1- trang 140). Các em đã biết miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy. Lên lớp 5, tôi đã giúp học sinh hiểu thêm: Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó người viết dùng ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại hình ảnh chân dung của đối tượng miêu tả với những đặc điểm nổi bật cả về hình thức bên ngoài lẫn những phẩm chất bên trong nhằm giúp người tiếp nhận có 11 những hiểu biết và rung cảm, cảm nhận về đối tượng đó như được trực tiếp tiếp xúc với đối tượng thông qua các giác quan của mình. Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo. ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mô phỏng, là tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa bằng hình ảnh… chứ không phải là kể lể. Văn miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi con người. * Chẳng hạn, khi nhìn thấy một bầu trời đầy sao, Vích- to Huy-gô thấy nó giống như một cánh đồng lúa chín, ở đó người gặt đã bỏ quên lại một cái liềm con là vành trăng non. Mai-a-cốp-xki thì lại thấy những ngôi sao kia như những giọt nước mắt của người da đen. Còn đối với Ga-ga-rin thì những vì sao là những hạt giống mới mà loài người vừa gieo vào vũ trụ. (TV5 - Tập 1- trang 160). Đối với nhà văn Nam Cao thì vành trăng và ánh sao lại được nhìn nhận, được cảm nhận theo một cách hoàn toàn khác: Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng đầy sao, trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn . Còn với Trần Đăng Khoa thì trăng được cảm nhận một cách tinh tế bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ, rất hồn nhiên trong sáng: Trăng hồng như quả chín/ Lơ lửng mà không rơi… Trăng tròn như mắt cá/ Chẳng bao giờ chớp mi; Trăng tròn như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời. Như vậy, cũng là vầng trăng, là bầu trời mỗi người sẽ cảm nhận theo cách riêng của mình, đó là những gì người khác không thấy hoặc chưa thấy. Với học sinh, mỗi bài tập làm văn là sản phẩm của từng cá nhân các em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt… thái độ đúng đắn của giáo viên là tôn trọng sự độc lập sự suy nghĩ sáng tạo đó nếu nó không biểu lộ những lệch lạc. 12 Nhà văn Phạm Hổ đã nói: “Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với cái chân thật”. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tùy ý. Vì vậy để giúp học sinh tả đúng, tả hay thì trước hết tôi thường yêu cầu các em phải tả chân thật, tôi đã uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng. Ví dụ: Đối với đề bài tả người thân trong gia đình em. Hay tả thầy cô giáo. Tôi đã giúp các em nhận ra rằng: mỗi người có một đặc điểm riêng biệt không thể mẹ của ai cũng da trắng, tóc dài… Hay cô giáo nào cũng giống cô giáo nào… Từ đó học sinh lớp tôi đã biết lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu, đặc sắc của người mình sẽ tả để đưa vào bài viết. Do đó lớp tôi có bao nhiêu học sinh thì c ó bấy nhiêu bài viết khác nhau. Mỗi bài viết đều mang nét khác biệt, đặc sắc theo cảm nhận riêng của từng em. 3. Giúp học sinh tích lũy vốn từ, làm giàu tưởng tượng và lựa chọn từ ngữ trong làm văn miêu tả. +)Tích lũy vốn từ: Vốn từ miêu tả có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc làm văn miêu tả. Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn: Giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo, xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô giáo cung cấp… Đầu tiên tôi giúp các em tích lũy vốn từ ngữ miêu tả qua các bài Tập đọc, nhiều bài Tập đọc là các bài miêu tả hay của nhà văn, nhà thơ. Số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài đó phong phú, cách sử dụng rất sáng tạo. Như các bài Tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV 5 - Tập 1 - Trang 10); Bài: Sắc màu em yêu (TV 5 - Tập 1 - Trang19, 20 ), Bài: Đất Cà Mau (TV5 Tập 1 - trang 89, 90). Các em có thể tìm thấy rất nhiều từ chỉ màu sắc và những hình ảnh mà các sắc màu gợi ra. Như lúa chín vàng xuộm; Nắng vàng hoe; Mía vàng xọng, tàu đu đủ, lá sắn héo: vàng tươi, lá mít: vàng ối, con gà, con chó vàng mượt…; áo mẹ, đất đai, gỗ rừng: màu nâu; đồng bằng, rừng núi, biển, bầu trời: màu xanh ... 13 Hay bài: Tiếng đàn ba - la - lai - ca trên sông Đà (TV 5 - Tập 1 - Trang 69), Bài Kì diệu rừng xanh (TV5 - Tập 1 - Trang 75); Bài Chuyện một khu vườn nhỏ (TV5 - Tập 1 - Trang 102, 103); Bài Mùa thảo quả (TV5 - Tập 1 - Trang 113); Bài Hạt gạo làng ta (TV5 - Tập1 - Trang139); Bài Về ngôi nhà đang xây (TV5 - Tập 1 - Trang 148)... Các em cũng thấy được cách dùng từ đặc sắc, những liên tưởng thú vị và các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá trong các bài Tập đọc...Ví dụ: “…Những cái nấm như cái ấm tích. Mỗi chiếc nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì. Tác giả cảm giác mình là người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những người tí hon. Đền đài, miếu mạo, cung điện của họ lúp xúp dưới chân”(Kì diệu rừng xanh TV5 - Tập 1 - Trang 75 ); “…Cây hoa ti gôn thích leo trèo, cứ thò những cái râu ra theo gió mà ngọ nguậy như những cái vòi voi bé xíu…” (Bài Chuyện một khu vườn nhỏ TV5 - Tập 1 - Trang 102, 103). Tôi cũng đã khuyến khích các em lập sổ tay từ ngữ miêu tả, để ghi chép lại các từ ngữ khi nhận được. Sau mỗi bài tập đọc lựa chọn một vài từ ngữ miêu tả hoặc câu văn miêu tả đặc săc ghi vào sổ. Thỉnh thoảng các em giở sổ ra xem lại, đọc lại nhất là khi chuẩn bị cho tiết tập làm văn.Với yêu cầu này học sinh lớp tôi làm rất tốt nhiều em thích thú, say mê sưu tầm những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp trong các bài Tập đọc và trong Báo Đội các em đọc hàng ngày. Ở chuyên mục Tiếng Việt phong phú, Tiếng Việt giàu đẹp (trong Báo Đội) nhiều học sinh lớp tôi đã tích cực sưu tầm và học thuộc nhiều từ ngữ, câu văn đặc sắc và vận dụng trong quá trình học tập. Tôi đã hướng dẫn các em ghi chép các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề cụ thể như: Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe; vuông vắn; nhỏ nhắn; xinh xắn; đo đỏ... Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: oai vệ; rón rén; lặc lè; nhanh thoăn thoắt; chậm chạp; ì ạch; tinh nhanh; ranh mãnh… Các từ thường dùng trong miêu tả người: Tả em bé: mịn màng; mũm mĩm; mập mạp; chập chững; bập bẹ; mếu máo; hau háu; ngộ nghĩnh; bướng bỉnh; nghịch ngợm…,Tả cụ già: nhăn nheo; hom hem; dò dẫm; bỏm bẻm; móm mém; lẩm cẩm; 14 run rẩy…Các từ thường được dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt; mơn mởn; rung rinh; um tùm; khẳng khiu; rực rỡ; mỡ màng; vàng úa; xơ xác; lác đác… Ngoài ra các tiết học Luyện từ và câu đã giúp các em hiểu rõ nghĩa của từ và mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm cụ thể. Khi các em tìm từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm. - Ví dụ: Trong bài: Mở rộng vốn từ: Thiên nhiên(TV5-tập 1- Trang 87,88). Chỉ với một đoạn văn ngắn miêu tả về bầu trời mùa thu nhưng các em đã đưa ra những từ ngữ, hình ảnh thật độc đáo, sáng tạo: + Bầu trời xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao. + Bầu trời được rửa mặt sau cơn mưa. + Bầu trời xanh biếc. + Bầu trời buồn bã. + Bầu trời trầm ngâm. Nó nhớ đến tiếng hót của của bầy chim sơn ca. + Bầu trời ghé sát mặt đất… - Với yêu cầu của bài: Tổng kết vốn từ. (TV5 - tập 1 - Trang 151, 152). Các em đã tìm được rất nhiều từ miêu tả hình dáng của người: + Miêu tả mái tóc: đen nhánh, óng ả, đen mượt, mượt mà, xơ xác, lơ thơ, dày dặn, hoa râm, muối tiêu, bạc phơ… + Miêu tả đôi mắt: hai mí, một mí, bồ câu, đen láy, hiền hậu, mơ màng.... + Miêu tả khuôn mặt: trái xoan, vuông vức, thanh tú, chữ điền, tròn, phúc hậu, bầu bĩnh…. + Miêu tả làn da: trắng trẻo, hồng hào, rám nắng, bánh mật, mịn màng, ngăm đen, đen giòn, nhăn nheo, …. + Miêu tả vóc người: vạm vỡ, mập mạp, cân đối, dong dỏng, tầm thước, thon thả, mảnh khảnh…. Tôi cũng khuyến khích các em sử dụng từ láy, từ tượng hình, tượng thanh để miêu tả cho bài văn sinh động. +) Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: Theo tôi tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về 15 đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi với ta hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những nét tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với mình và cả những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn, đẹp hơn, sống động và gần gũi với con người hơn. Vì vậy trong quá trình dạy tập làm văn tôi đã giúp học sinh của mình tưởng tượng bằng cách: Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng. Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh. So sánh đối tượng miêu tả với các đối tượng khác tương đồng. Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng. Nhân hóa hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng. Dự đoán trước khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới. Liên tưởng về những điều mình đã biết, đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay. Và cuối cùng là cần ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng được để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình. Ví dụ : Khi tả cảnh sông nước, tôi hỏi các em: Chúng ta đã được học những bài thơ, bài văn nào miêu tả về cảnh sông nước? Nhiều em học sinh lớp tôi sẽ nhớ lại những bài viết về cùng đối tượng như: Bài Cửa Tùng (TV3 - Tập 1), Vàm cỏ Đông (TV3 - Tập 1), Bè xuôi sông La (TV4 - Tập 2); Dòng sông mặc áo (TV4 - Tập 2)…Từ đó tôi lại dẫn dắt các em nhớ đến những câu văn hay, với hình ảnh so sánh, nhân hóa đặc sắc và những cảm nhận rất chính xác và tinh tế của tác giả. Ví dụ: "Dòng sông mới điệu làm sao Nắng lên mặc áo lụa đào thiết tha Trưa về trời rộng bao la 16 Áo xanh sông mặc như là mới may... …Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ Dòng sông đã mặc bao giờ áo hoa... (Bài Dòng sông mặc áo TV4-Tập 2) Hay khi tả người thân của em. Các em có thể nhớ lại hình ảnh người bà trong bài Bà tôi của Mác-Xim Go- Rơ-Ki (TV5 - tập 1, trang 122, 123). Các em so sánh, liên tưởng sự khác nhau giữa một người bà ở nước ngoài và một người bà ở Việt Nam. Nếu tả mẹ các em nhớ lại những bài thơ, bài văn, những câu văn viết về mẹ mà các em đã được học như: “…Bao năm tháng mẹ bế chúng con trên đôi tay mềm mại ấy…”, “…Mẹ là ngọn gió của con suốt đời…”, “…Bình yêu nhất là đôi bàn tay mẹ, những ngón tay gầy gầy, xương xương…”. Từ đó các em lựa chọn được những nét đặc sắc để miêu tả làm cho bài văn sinh động, hấp dẫn người đọc hơn. Ngoài ra khi dạy các bài Tập đọc, sau khi tìm hiểu nội dung tôi đã yêu cầu học sinh tả lại vẻ đẹp của cảnh vật được thể hiện trong bài. Ví dụ: Khi dạy bài: Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà (TV5- tập 1- trang 69) Tôi yêu cầu học sinh dựa vào đoạn thơ: “…Lúc ấy…… Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà…”. Em hãy tưởng tượng và tả lại cảnh sông Đà trong đêm trăng kì diệu ấy. Mặc dù không tận mắt chiêm ngưỡng cảnh đẹp đó nhưng nhiều học sinh của lớp tôi đã miêu tả cảnh công trường sông Đà trong đêm trăng thật tuyệt vời. Hay sau khi học xong bài: Người gác rừng tí hon.(TV5-tập 1, trang 124,125) tôi yêu cầu học sinh: Hãy tưởng tượng và tả lại người bạn nhỏ trong bài. Bên cạnh đó khi dạy Tập đọc tôi cũng đã hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật và một số biện pháp nghệ thuật. Vì ở nhiều bài Tập đọc nhà văn đã dùng từ rất tinh tế, sáng tạo. Nhiều từ ở đó học sinh khó có thể hiểu được. Trong trường hợp đó tôi đã giúp học sinh huy động vốn hiểu biết của mình để phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới. Tôi thường gợi ý hướng dẫn các em tìm ra từ ngữ miêu tả đặc sắc nhất, từ chìa khoá để phân tích cái hay khi tác giả sử dụng chúng. Nhờ các từ đó mà bài văn bài thơ trở nên đặc sắc, để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng người đọc, người nghe. Vì vậy mà vốn từ của các em càng thêm phong phú. 17 +) Lựa chọn từ ngữ trong làm văn miêu tả. Có vốn từ rồi nhưng phải biết dùng chúng đúng lúc, đúng chỗ cho nên tôi luôn coi trọng việc lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt của các em. Tôi đã giúp các em thấy được mỗi chi tiết miêu tả thường chỉ có một từ ngữ, một hình ảnh thích hợp nhất. Do đó có tác dụng gợi hình, gợi cảm nhất. Một số học sinh lớp tôi ngay từ đầu đã nắm được những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp song nhiều em vẫn còn lúng túng khi chọn từ ngữ, hình ảnh đặc sắc để miêu tả. Những lúc đó tôi hướng dẫn các em so sánh các từ đó với từ đồng nghĩa với nó hoặc từ trái nghĩa với nó để tìm được từ hay nhất, cần dùng trong đoạn văn, bài văn. Bên cạnh các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện ở môn Tiếng Việt thì các môn học khác như : Địa lí, Lịch sử, Đạo đức đã góp phần không nhỏ trong việc viết nên những đoạn văn, bài văn hay của các em. Trong quá trình dạy các môn học này tôi cũng đã lồng ghép, đưa ra một số yêu cầu cụ thể đối với từng bài giúp các em khắc sâu kiến thức của bài học. Đồng thời phát huy được tính sáng tạo trong việc dùng từ diễn đạt của các em, ý đoạn của các em muốn thể hiện. Qua đây cũng hình thành cho các em bước đầu biết cách tổng hợp, chắt lọc nội dung kiến thức có liên quan giữa các môn học để làm tiền đề, nền tảng cho việc dạy học tích hợp liên môn ở cấp học trên mà nền Giáo dục nước nhà đang hướng tới. Ví dụ: Khi dạy bài: Em yêu Tổ quốc Việt Nam (Đạo đức lớp 5 - Bài 11). Tôi đã yêu cầu các em: Nếu em là hướng dẫn viên du lịch Việt Nam, em sẽ giới thiệu như thế nào với khách du lịch về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích lịch sử của nước ta mà em biết?... Một số em học tốt môn văn của lớp tôi có những bài thuyết trình rất hay được các đồng nghiệp và chuyên môn nhà trường ghi nhận. Hay khi dạy bài Việt Nam đất nước chúng ta (Địa lí lớp 5 trang 66). Hay bài Vùng biển nước ta (SGK Địa lí 5 trang 77, 78 , 79) các em quan sát những hình ảnh minh hoạ trong bài học kết hợp với các thông tin trong bài học và vốn hiểu biết của các em (vốn hiểu biết có được qua tích luỹ các năm học trước, qua ti vi, sách báo). Khi củng cố bài tổ chức cho các em thi nhau giũa các nhóm, các tổ chơi trò chơi "Tập làm hướng dẫn viên du lịch " giới thiệu với bạn bè trong nước và quốc tế về vẻ đẹp của đất nước, của vùng biển Việt Nam. Đặc biệt trong tình hình hiện nay nhiều học 18 sinh lớp tôi có những bài thuyết trình về tình yêu biển đảo, chủ quyền biển đảo và quyết tâm giữ gìn biển đảo của thế hệ các em làm cho tôi vô cùng xúc động và tin tưởng thế hệ tương lai sẽ làm tốt những việc mà hôm nay các em đã nghĩ tới. Đây cũng là niềm vui, niềm động lực lớn để bản thân tôi cố gắng hơn nữa trong công tác giảng dạy. Về phần các em sau khi tham gia trò chơi này đã rất mạnh dạn, tự tin hứng thú trong học tập, khả năng thể hiện ngôn ngữ nói của các em cũng được nâng lên rõ rệt. 4. Sự chuẩn bị cho giờ học của giáo viên – học sinh. a) Giáo viên: Giáo viên cần phải đọc kĩ đề , nắm vững mục đích yêu cầu trọng tâm của bài dạy, tự đặt mình vào một vài địa điểm, thời điểm khác nhau trong ngày (Đối với văn tả cảnh); nhập vai nhân vật (Tả người), để có hướng gợi ý cho học sinh miêu tả khác nhau, giúp các em sáng tạo khi làm bài, tránh rập khuôn máy móc. Ví dụ 1: Tả cảnh đồng lúa. + Em tả cánh đồng vào buổi sáng, buổi trưa hay buổi chiều. + Buổi sáng trên cánh đồng có gì đặc sắc? Những giọt sương mai còn đọng trên kẽ lá giống hình ảnh gì? + Buổi trưa ở trên cánh đồng khác buổi chiều trên cánh đồng như thế nào? + Em tả cánh đồng lúa xanh tươi đang thì con gái hay cánh đồng lúa chín vàng?... + Từ xa nhìn lại, cánh đồng lúa chín vàng mênh mông, bát ngát khiến ta liên tưởng đến hình ảnh gì? Ví dụ 2: Tả người thân trong gia đình. Trong gia đình em có nhiều người, nhưng người em chọn tả sẽ là ai? Vì sao em lại tả người đó? Người em miêu tả có đặc điểm gì nổi bật về hình dáng, tính tình...? Em có những kỉ niệm, ấn tượng sâu sắc gì về người em chọn tả?... Theo tôi, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn cho mình những hình thức gợi mở và một số từ ngữ trong ý chính để giúp các em sáng tạo với suy nghĩ của mình. b) Học sinh: 19 Để chuẩn bị cho tiết học sắp tới các em cần phải quan sát trước. Quan sát để phát hiện ra những chi tiết sinh động phong phú của sự vật ở từng lúc, từng nơi cụ thể, bằng những nét riêng biệt. Vì bước quan sát rất quan trọng là cơ sở để giúp các em tìm ý, tìm "cái để viết ra nội dung của bài văn". Để bước quan sát có kết quả tốt các em cần xác định được đối tượng và mục đích quan sát, quan sát là để tìm ý cho bài văn. Khi đã có đề tài các em chủ động quan sát sự vật để tìm ý. Trong cuộc sống hàng ngày do tiếp xúc, quan hệ với sự vật, các em đã tích luỹ được những hiểu biết chi tiết về sự vật đó. Ví dụ : Khi tả cánh đồng hay nương rẫy tôi đã dặn các em quan sát cánh đồng, nương rẫy mỗi khi có dịp. Có thể các em lên rẫy cà phê cùng bố mẹ, anh chị. Các em hãy quan sát kĩ xem cảnh vật ở đó như thế nào? Rừng cà phê mùa này như thế nào? xanh thẫm bạt ngàn, nở hoa trắng xoá, hương thơm nồng nàn hay rừng cà phê chín rộ sai trĩu quả ... Hay: Tả con đường từ nhà đến trường. Tôi dặn các em khi đi học (hoặc khi về) vừa đi vừa quan sát kĩ con đường (hình dáng, mặt đường, lề đường, cảnh vật hai bên đường,...) Nhớ lại hình ảnh con đường làng mà các em đã được đọc, các em sẽ thấy có những nét tả thật cụ thể, thật sinh động và hình ảnh con đường hiện ra thật đẹp: " Đường mềm như dải lụa Uốn mình dưới cây xanh " Con đường đến trường của các em như thế nào? Có giống con đường được miêu tả như trong bài không? Ven đường có hàng cây xanh, những dãy nhà cao tầng, những quán hàng tạp hoá hay có vườn cà phê mùa này đang nở bông trắng xoá, hương thơm nồng nàn. Hay khi dạy tả người, tôi đã hướng dẫn các em xác định rõ đối tượng cần miêu tả. Nếu tả người thân em sẽ tả ai? Tả mẹ, tả bố hay tả ông, bà,...? Mỗi người có những nét về ngoại hình, tính cách riêng biệt. Mỗi độ tuổi có những thói quen sinh hoạt, đặc điểm khác nhau. Vì vậy các em cần chuẩn bị bài thật chu đáo mới viết được một bài văn hay. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng