SKKN: MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY BIỂU THỨC CHỨA CHỮ Ở TOÁN
4
PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Việc dạy học toán ở các trường tiểu học nước ta đã có một quá trình phát triển
lâu dài, với sự cố gắng chung của đội ngũ giáo viên, các phương pháp dạy học đã
vận dụng và thường xuyên được cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nhà
trường tiểu học, việc làm đó đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu
học.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học toán ở tiểu học là dạy trên cơ sở tổ
chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Cụ thể là giáo viên là người tổ chức và hướng dẫn hoạt động của học sinh , mọi học
sinh đều hoạt động học tập phát triển năng lực của cá nhân. Nói chung là giáo viên
nói ít, giảng dạy ít, làm mẫu ít nhưng lại thường xuyên làm việc với từng nhóm học
sinh hoặc từng học sinh. Với cách làm như vậyđòi hỏi giáo viên phải biết cách tổ
chức các hoạt động của học sinh, đồng thời phải không ngừng nâng cao chuyên
môn, nghiệp vụ để có thể đáp ứng kịp thời những tình huống có thể xảy ra trong
quá trình hoạt động học tập của học sinh. Nhờ cách dạy học như vậy mà giáo viên
nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó có thể giúp học sinh phát triển năng
lực, sở trường của cá nhân. Mọi học sinh đều phải hoạt động, phải độc lập suy nghĩ
và làm việc tích cực. Tổ chức được cách như vậy thì không cần đặt ra các biện
pháp để “giữ trật tự” mà tưng học sinh vẫn tập trung vào các hoạt động học tập.
Cáh học này tạo cho học sinh thói quen làm việc tự giác, chủ động, không rập
khuôn, biết tự đánh giá, và đánh giá kết quả học tập của mình, của các bạn đăch
biệt là tạo cho học sinh có niềm tin trong học tập.
Trong quá trình dạy học giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt
động học tập dưới sự trợ giúp đúng mức và đúng lúc của giáo viên, của sách giáo
khoa và đồ dùng dạy học toán để từng học sinh (hoặc nhóm học sinh) tự phát hiện,
1
tự giải quyết vấn đề của bài học để từ đó tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có thể
vận dụng được kiến thức đó trong luyện tập thực hành.
Để phù hợp với quá trình nhận thức và các giai đoạn học tập sâu ở tiểu học, khi
dạy học môn toán ở lớp 4. Giáo viên chgủ động lựa chọn vận dụng hợp lý các
phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh phù
hợp với điều kiện lớp học và khả năng nhận thức của từng đối tượng học sinh, bước
đầu bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn kỹ năng vận dụng vào thực tiễn đảm bảo sự
cân đối hài hoà giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Từ thực tế hiện nay ở trường tiểu học để góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học môn toán ở tiểu học. Tôi đã rút ra một số kinh nghiệm về “Kinh nghiệm dạy
biểu thức chứa chữ ở Toán 4”
II. Mục đích nghiên cứu
Việc chọn kinh nghiệm về “Hướng dẫn học sinh lớp 4 về biểu thức chứa chữ
theo phương pháp dạy học tích cực”nhằm giúp học sinh đổi mới cáh học theo tinh
thần chủ động, tích cực, giúp học sinh có điều kiện học tập tốt hơn, tự phát hiện và
tự giải quyết vấn đề của bài học. Từ đó nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và
học môn toán ở trường tiểu học.
III. Kết quả cần đạt
…
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
-
Tài liệu BDTX chu kỳ 3 cho giáo viên tiểu học
-
Sách giáo khoa, sách giáo viên lớp 4 môn toán
-
Thực nghiệm trên lớp 4A trường tiểu học THTH
V. Phương pháp nghiên cứu
-
Phương pháp trực quan
-
Phương pháp thực hành luyện tập
-
Phương pháp gợi mở, vấn đáp
-
Phương pháp giảng giải, minh hoạ
2
PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Phương pháp dạy học toán là cáh thức tổ chức hoạt động học toán cho học sinh.
Việc tổ chức giờ học toán thành các hoạt động là định hướng đổi mới phương pháp.
Dạy học trong đổi mới giáo dục phổ thông là dạy học sinh tự tìm tòi, phát hiện kiến
thức mới, là dạy cách học cho học sinh. Giáo viên căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ
năng trong chương trình được trình bày trong sách giáo khoa để thiết kế các hoạt
động và tổ chức học sinh tham gia, thực hiện nhiệm vụ học tập, giúp các em hình
thành kiến thức qua chính các hoạt động đó. Giáo viên không áp đặt, thông báo
kiến thức có sẵn mà tổ chức hướng dẫn học sinh tìm tòi, phát hiện, tự chiếm lĩnh
kiến thức. Giáo viên tổ chức sao cho mọi học sinh đều được tham gia hoạt động
học, sao cho học sinh tháy mình phát hiện, tìm ra kiến thức chứ không phải nhìn
vào sách giáo khoa hay nghe giáo viên thông báo kết quả có sẵn trong sách giáo
khoa. Giáo viên hướng dẫn để học sinh sử dụng vốn hiểu biết của mình để hình
thành kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, động viên học sinh tập suy nghĩ, quan
sát, diễn đạt, thực hiện hoạt động học tập theo cách riêng của mình.
Khi dạy hình thành kiến thức mới, giáo viên giúp học sinh tự phát hiện vấn đề
của bài học, giúp học sinh huy động những kiến thức và kinh nghiệm đã tích luỹ
được để tự mình (hoặc cùng các bạn trong nhóm) tìm cách giải quyết vấn đề, tự
lĩnh hội nội dung kiến thức. Trong dạy học việc hướng dẫn học sinh tự tìm tòi
chiếm lĩnh kiến thức mới rất cần thiết, nó có vai trò quan trong trong quá trình hình
thành và phát triển tư duy toán học của học sinh bởi vì: Quá trình tự tìm tòi, khám
phá sẽ giúp học sinh tính chủ động, sáng tạo đồng thời giúp học sinh hiểu sâu, nhớ
lâu kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến thức đó hoặc có góp phần cùng với
bạn tìm tòi khám phá xây dựng kiến thức đó và tự đánh giá được kiến thức của
mình. Khi gặp khó khăn, chưa giải quyết được vấn đề. Học sinh tự đo được thiếu
sót của mình về mặt kiến thức, về mặt tư duy và tự rút kinh nghiệm. Khi tranh luận
với các bạn, học sinh cũng tự đánh giá được trình độ của mình so với các bạn để tự
rèn luyện điều chỉnh. Trong quá trình học sinh tìm tòi, khám phá giáo viên biết
3
được tình hình học tập của học sinh về mức độ nắm kiến thức từ bài học cũ, vốn
hiểu biết, trình độ tư duy, khả năng khai thác mối liên hệ giữa những yếu tố đã biết
với những yếu tố phải tìm. Học sinh tìm tòi, khám phá sẽ rèn được tính kiên trì
vượt khó khăn và một số phẩm chất tốt của người học toán như tự tin, suy luận có
cơ sở coi trọng tính chính xác, tính hệ thống.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong chương trình toán 4, không phải bài nào với sự gợi mở của giáo viên, học
sinh cũng tự phát hiện và giải quyết được vấn đề, mà đôi khi tuỳ thuộc từng phần,
từng đối tượng học sinh, người giáo viên phải chuyển tải kiến thức mới dưới hình
thức giới thiệu và được học sinh công nhận hoặc yêu cầu học sinh thực hiện một
bước nào đó. Vấn đề đặt ra là giới thiệu dẫn dắt thế nào để học sinh lĩnh hội kiến
thức mới một cách tự nhiên, không gò ép mà vẵn đạt được mục tiêu bài học.
Trong toán 4 biểu thức chứa chữ được giới thiệu theo mức độ: biểu thức chứa
một chữ; biểu thức chứa hai chữ ; biểu thức chứa ba chữ. Cách viết, cách đọc biểu
thức chứa chữ cũng tiến hành như biểu thức số. Khi cho mỗi chữ một giá trị số thì
việc tính giá trị số của biểu thức được tiến hành như tính giá trị của biểu thức số.
Mỗi dạng kiến thức giáo viên cần hướng dẫn học sinh sao cho phù hợp. Khi dạy
“giới thiệu biểu thức chứa một chữ” (sách giáo khoa trang 6) cần giúp học sinh tự
nhận biết được biểu thức có một chữ thông qua ví dụ để đưa ra tình huống ;đi từ
trường hợp cụ thể đến biểu thức 3 +a
Chẳng hạn ;
Lan có
3
Mẹ cho thêm
……………………..
Lan có tất cả
……………………..
Hình thành biểu tượng về biểu thức có chứa một chữ
Gọi học sinh tự cho các số khác nhau ở cột “mẹ cho thêm” và ghi được biểu thức
tính tương ứng ở cột “Lan có tất cả”
4
Giáo viên nêu vấn đề : Nếu cho thêm a quyển vở thì Lan có tất cả bao nhiêu
quyển vở (3+a quyển vở).
-
Giới thiệu: 3+a là biểu thức có chứa một chữ, ở đây là chữ a
-
Học sinh lấy ví dụ về biểu thức có chứa một chữ,chẳng hạn: 3+b; x+5;…
-
Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh chơi trò chơi vài lượt. 3 học sinh, 1
em lấy thẻ chữ, một em lấy thẻ số, một em lấy thẻ có dấu phép tính gắn lên bảng
cài để được biểu thức có chứa một chữ .
-
Học sinh trả lời, (nhận xét) những biểu thức đó có điểm gì giống nhâu?
người ta gọi chúng là gì? (giống nhau gồm số, dấu tính và một chữ. Được gọi
chung là biểu thức có chứa một chữ).
*Tính giá trị của biểu thức có chứa một chữ:
Giáo viên hỏi và viết bảng: Nếu a=1 thì 3+a=?
+ Nếu a=1 thì 3+a= 3+1=4. Khi đó 4 là giá trị của biểu thức 3+a
+ Yêu cầu học sinh làm tương tự với trường hợp khác: với a=4;5;7;…
Từ đó giáo viên dẫn dắt học sinh tự nêu được. Mỗi lần thay chữ a bằng một số ta
tính được một giá trị của biểu thức 3+a.
Với hai bài “biểu thức có chứa hai chữ” và “biểu thức có chứa ba chữ” có thể
hướng dẫn tương tự theo các bước:
-
Nhận biết biểu thức chứa chữ .
-
Giá trị của biểu thức chứa chữ và cách tính giá trị của biểu thức đó.
Với cách dạy như trên tôi thấy học sinh học tập sôi nổi hơn, phát huy được tính
tích cực của học sinh, học sinh chủ động nắm được kiến thức. Giáo viên chỉ là
người tổ chức hướng dẫn, học sinh vận đụng được để làm bài tập.
III. Mô tả nội dung
Thực nghiệm: dự kiến kế hoạch dạy học bài: “Biểu thức có chứa hai chữ”
(Toán 4/tuần 7)
5
Bài : “Biểu thức có chứa hai chữ”
I/. mục tiêu:
Giúp học sinh:
-
Nhận biết được “biểu thức có chứa hai chữ”, giá trị của biểu thức có chứa
hai chữ.
-
Biết cách tính giá trị của biểu thức có chứa hai chữ theo các giá trị cụ thể của
từng chữ.
II/. Các hoạt động dạy học chủ yếu:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động 1:
Hoạt động của học sinh
Tổ chức cho học sinh ôn lại cách tính
giá trị của biểu thức có chứa một chữ
qua bài tập sau:
Điền vào bảng trống trong bảng sau:
a
428 6512 832 16512
a+127
a-425
Học sinh nhắc lại cách tính
ax7
a: 4
theo các giá trị cụ thể của từng chữ.
Giáo viên chữa bài, nhận xét
Học sinh thực hiện làm bài tập
cho điểm.
Hoạt động 2:Giới thiệu biểu
thức có chứa hai chữ
a.
biểu thức có chứa hai chữ
-
giáo viên yêu cầu học sinh đọc
bài toán ví dụ. Cả lớp theo dõi.
-
H: Muốn biết cả hai anh em câu
được bao nhiêu con cá ta làm thế nào?
-
Hai anh em cùng câu cá.Anh
câu được…con cá.Em câu được …
con cá. Cả hai anh em câu được…con
cá?
Giáo viên tổ chức cho học sinh
6
chơi trò chơi câu cá.
-
Ta thực hiện phép tính cộng số con cá
Giáo viên yêu cầu từng cặp 2 của anh câu được với số cá của em
bạn học sinh 1 người là anh, 1 người câu được.
là em đi câu cá.
-
Học sinh nghe phổ biến cách
-
Giáo viên gọi lần lượt từng cặp chơi và thực hành chơi.
nêu số cá đã câu được của mỗi người
và trả lời câu hỏi.
Chẳng hạn: Anh câu được 4 con cá.
Từng cặp học sinh báo cáo kết
Em câu được 2 con cá. Hai anh em câu được mấy con cá.
-
quả đi câu cá.
Giáo viên nghe học sinh trả lờp
Anh câu được 4 con cá, em câu
viết vào cột số cá của anh là 4, số cá -
của em là 2. Viết 4+2 vào cột số cá của được 2 con cá thì hai anh em câu
hai anh em.
được
Giáo viên nêu vấn đề: Nếu anh câu
4+2 con cá
được a con cá, em câu được b con cá
thì số cá của hai anh em câu được là
bao nhiêu con cá?
- hai anh em câu được a+b con cá
-
Học sinh theo dõi và nhắc lại.
7
-
Giáo viên giới thiệu: a+b là
biểu thức có chứa hai chữ.
-
-Qua các ví dụ học sinh nhận
thấy đợc biểu thức có chứa hai chữ
gồm có dấu tính và hai chữ.
b./ giá trị của biểu thức có chứa hai
chữ.
- giáo viên hỏi và viết bảng: Nếu a=4; -
Học sinh nêu được
b=2 thì a+b bằng bao nhiêu?
-
Nếu a=4; b=2 thì a+b= 4+2=6
H: 6 là giá trị của biểu thức nào?
-
Vậy 6 là giá trị của biểu thức
-
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm a+b
giá trị với các trường hợp còn lại.
-
-
H: Khi biết giá trị cụ thể của a -
Học sinh tìm
Ta thay các số vào chữ a và b
và b, muốn tính giá trị của biểu thức rồi thực hiện tính giá trị của biểu
a+b ta làm thế nào?
-
thức.
H: Mỗi lần thay số bằng chữ a
và b bằng các số ta tính được gì?
Hoạt động 3: luyện tập thực
-
hành
Ta tính được một giá trị của
Mục tiêu: học sinh vận dụng kiến biểu thức a+b
thức vào làm bài tập
Bài 1: Gọi 1 Học sinh đọc nội dung
bài tập
H: Bài tập yêu cầu chúng ta làm gì?
-
Giáo viên yêu cầu học sinh làm
bài tập
-
Gọi 2 học sinh lên bảng làm
-
Giáo viên nhận xét cho điểm.
-
Học sinh đọc
-
Tính giá trị của biểu thức: c+d
-
Học sinh tự làm
8
Bài 2: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc
đề bài, sau đó tự làm bài tập.
-
a. Nếu c=10 và d=25 thì giá trị
-
yêu cầu cả lớp nhận xét.
-
Giáo viên nhận xét, chốt lại kết c+d là c+d= 10+25=35
quả đúng.
của biểu thức
-
3 học sinh lên bảng làm bài. cả
Bài 3: Giáo viên treo bảng số như lớp làm bài vào vở bài tập. Đối chiếu
phần bài tập sgk
-
so sánh kết quả.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu
nội dung trong bảng.
-
Giáo viên yêu cầu học sinh làm -
bài tập
Học sinh đọc đề bài
-
Học sinh nêu
-
1 học sinh lên bảng làm ,cả lớp
-
yêu cầu cả lớp nhận xét.
-
Giáo viên nhận xét, chốt lại kết làm vào VBT
quả đúng.
Bài 4: Tiến hành tơng tự bài 3
Hoạt động 4; Củng cố dặn dò
-
Giáo viên yêu cầu học sinh lấy
một ví dụ về biểu thức chứa hai chữ
Giáo viên yêu cầu học sinh lấy ví dụ về giá trị của biểu thức trên
-
Học sinh làm vào VBT
4 học sinh nêu biểu thức của
Giáo viên nhận xét các ví dụ mình nghĩ được trước lớp. Ví dụ a:b;
12+a-b;…
của học sinh.
-
Giáo viên tổng kết giờ học
-
Học sinh tự thay các chữ trong
biểu thức bằng số sau đó tính giá trị
của biểu thức.
Học sinh chú ý lắng nghe
IV. Kết quả nghiên cứu
9
Qua tiết dạy thực nghiệm tôi thấy. Thực hiện phương pháp dạy học tích cực thu
được kết quả tương đối khả quan. Giúp các em học sinh tìm tòi, khám phá phát
hiện và tự chiếm lĩnh được kiến thức. Qua trò chơi toán học giúp các em học tập
thoải mái, nhẹ nhàng, tạo ra hứng thú học tập cho các em. Đồng thời gắn liền với
thực tế gần gũi với cuộc sống thực, với đời sống hàng ngày của học sinh.
Kết quả bài làm của học sinh qua phần luyện tập thực hành:
Bài
Số HS làm đúng
%
Số HS làm đúng và đủ
Bài 1
27/27
100%
23/27
85,2%
Bài 2
27/27
100%
25/27
96,3%
Bài 3
27/27
100%
24/27
%
88,9%
Qua giờ học này học sinh nắm vững cách thay các chữ trong biểu thức bằng số
sau đó tính được giá trị của biểu thức.Khi dạy đến bài biểu thức có chứa ba chữ tôi
thấy khi hình thành biểu thức, tính giá trị biểu thức tôi thấy học sinh học nhẹ
nhàng, học sinh hoạt động tích cực, nắm vững được kiến thức.
Ngoài ra các em biết vận dụng kiến thức đã học về biểu thức chứa chữ làm tốt
các bài tập được nêu dưới nhiều hình thức khác như:
a. Giá trị của biểu thức a+b là 1245. Tính b, nếu: a=789; a=456;…
b. Tìm x; y (là thành phần chưa biết của phép tính)
X+2=7; Xx3=18; X:7=14; 289:X=2; Xx2+3=9
c. Tìm X là số tự nhiên, biết: X<5; X+3<6; Xx8<32; 15:X<6
d. Điền số thích hợp vào ô trống:
+4=15;
-3=9;
8-
=1; 2+
<4;
13<
<17
* Tự đánh giá SKKN:
+ Thành công:
Giáo viên đã vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học trong quá
trình dạy giáo viên thực hiện lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được làm việc
10
nhiều, tự tìm tòi, phát hiện chiếm lĩnh tri thức, dưới sự dẫn dắt điều khiển, hướng
dẫn, tổ chức hợp lý của giáo viên.
Giáo viên truyền thụ tri thức rõ ràng đúng trọng tâm, kiểm tra được học sinh, lôi
cuốn học sinh vào giờ học một cách tích cực và nghiêm túc.
+ Hạn chế:
Một số học sinh khi tham gia trò chơi còn lúng túng, làm bài tập kết quả đúng
nhưng trình bày chưa khoa học.
11
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Qua kinh nghiệm “Hướng dẫn học sinh lớp 4 về biểu thức chứa chữ theo
phương pháp dạy học tích cực” với bài thực nghiệm “ biểu thức có chứa hai chữ”.
Đây là một phương pháp tốt, nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh phù hợp
với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, thực hiện
được mục đích của dạy học là học sinh, là sự phát triển của các em, lấy lợi ích của
các em làm đích và tổ chức quá trình dạy học làm sao để cho các em tự tìm ra kiến
thức. Dạy học theo phương pháp này đã loại bỏ được những phương pháp hạn chế
tính tích cực của học sinh, loại bỏ được cách làm việc thầy giảng, trò ghi nhớ, trò
làm người minh hoạ cho thầy, trò phải thừa nhận kiến thức. Phương pháp dạy học
này tạo điều kiện tối đa để cá thể hoá đối tượng dạy học và khuyến khích để học
sinh tự tìm tòi, phát hiện, chiếm lĩnh nội dung mới của bài học.
Khi thực hiện phương pháp dạy học này việc chuẩn bị bài của giáo viên đóng vai
trò quan trọng. Giáo viên phải xác định rõ: Dạy cái gì? Dạy ai? Dạy nội dung này
để làm gì? Dạy như thế nào? Muốn dạy thành công một giờ dạy, trước hết giáo
viên phải nắm chắc nội dung cần dạy, nắm vững kiến thức, hiểu được ý đồ của sách
giáo khoa, hiểu đối tượng học sinh thì có thể đưa ra phương pháp thích hợp và
chuẩn bị tổ chức hoạt động cho học sinh học tập hiệu quả. Những hoạt động học
cho học sinh nhằm phát huy vốn kinh nghiệm, vốn kiến thức sẵn có của các em,
những điều gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của các em, các em tham gia hoạt
động một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hứng thú.
Khi đó học sinh là nhân vật trung tâm, học sinh phải được hoạt động, tự tìm tòi
phát hiện kiến thức, giáo viên chỉ là người hướng dẫn tổ chức các hoạt động cho
học sinh. Ngoài ra giáo viên phải làm trước tất cả những gì học sinh sẽ phải làm
trong giờ học, lên lớp giáo viên sẽ tránh được sai lầm đáng tiếc và các tình huống
bất ngờ không xử lý kịp.
II. Kiến nghị
12
…
Do điều kiện và khả năng có hạn, sáng kiến kinh nghiệm không tránh khỏi
những thiếu sót mong các bạn đồng nghiệp góp ý, bổ sung.
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết
13
- Xem thêm -