ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG
TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số kiến thức cơ bản khi tìm hiểu
“Nhân vật trong tác phẩm văn học”
Lĩnh vực: Ngữ văn
Cấp học: Trung học cơ sở
Tên tác giả: Bùi Thị Vân
Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh
Chức vụ: Giáo viên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
2
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
Văn học cũng như nghệ thuật nói chung tồn tại thông qua tác phẩm.
Không thể nói đến nghệ thuật hội hoạ,nghệ thuật âm nhạc,nghệ thuật sân
khấu,nếu như không có những bức tranh, những bản nhạc, những vở diễn …
Cũng vậy, không thể nói đến văn học nếu không có những bài thơ, những truyện
ngắn, những tiểu thuyết. Tác phẩm văn học là tế bào của đời sống văn học. Nó
không chỉ là kết quả sáng tạo của nhà văn mà còn là đối tượng tiếp nhận của bạn
đọc, đối tượng khảo sát của nghiên cứu văn học, đối tượng phân tích của giảng
dạy văn học. Tác phẩm văn học được cấu thầnh bởi nhiều yếu tố như các chi
tiêt, tình tiết, hình ảnh, ngôn từ, cốt truyện, nhân vật... Một trong những yếu tố
phải kể đến nhân vật. Nhân vật văn học có thể được gọi thành tên như Sọ Dừa,
Thạch Sanh, LụcVân Tiên, Thuý Kiều … Nhưng có khi chỉ là cách xưng hô tôi,
chàng, thiếp …, có khi chỉ là một con vật như Cóc, Ếch ... Như vậy nhân vật
trong tác phẩm văn học là gì? Chúng ta sẽ có câu trả lời trong phần sau của đề
tài.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình làm bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì, ở môn
ngữ văn nhiều năm qua, học sinh làm bài văn liên quan về nhân vật văn học
trong tác phẩm văn học còn rất nhiều hạn chế. Bài làm của học sinh thường sơ
sài, chung chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề; có bài chỉ
viết được 7 đến 8 dòng là hết, có nhiều em không nắm được đặc điểm nhân vật
trong tác phẩm và vị trí của nhân vật trong tác phẩm là gì, nhân vật có vai trò gì
trong tác phẩm. Mà nhân vật văn học trong tác phẩm văn học là những con
người hay sự vật mang cốt cách của con người được xây dựng bằng các phương
tiện của nghệ thuật ngôn từ nếu các em khôngđược hướng dẫn thì khó làm tốt
các dạng bài kiểm tra mà liên quan đến nhân vật. Thực trạng ấy làm cho đội ngũ
thầy cô giáo chúng ta phải trăn trở, phải suy nghĩ, mà nguyên nhân chính là học
sinh không nắm rõ được các vấn đề liên qua đến nhân vật trong tác phẩm. Do đó
chúng ta cần phải có cách dạy như thế nào để giúp cho việc học của học sinh có
hiệu quả hơn và ngày càng tiến bộ, đó là vấn đề mà thầy cô giáo cần phải quan
tâm và chú trọng.
II. MỤC ĐÍCH, LÝ DO CHỌN DỀ TÀI
3
Từ những cơ sở trên đây tôi nhận thấy việc tìm hiểu nhân vật văn học
trong việc dạy - học môn Ngữ văn là rất quan trọng đối cả thầy và trò. Nhân vật
văn học không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng chủ đề tác phẩm mà còn là nơi tập
trung các giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Thành bại của một đời
văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật trong tác
phẩm ấy như thế nào. Vì vậy tôi chọn đề tài Một số kiến thức cơ bản khi tìm
hiểu “Nhân vật trong tác phẩm văn học”để giúp các em làm sáng tỏ những điều
trên.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, THỜI GIAN ÁP DỤNG
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh THCS, có thể áp dụng ở các khối lớp.
- Thời gian áp dụng từ Học kì II năm học 2020-2021 đến Học kì I năm
học 2021- 2022.
VI. KHẢO SÁT THỰC TẾ
Thực trạng khi chưa thực hiện đề tài này chỉ có 50,6% học sinh (trong số
khảo sát điều tra) cho rằng khi học về tác phẩm chúng em nắm kiến thức về
nhân vật và vai trò của nhân vật trong tác phẩm còn mơ hồ, nhiều khi còn chưa
chính xác. Nhận diện về nhân vật chưa rõ ràng, phân biệt nhân vật văn học với
những nhân vật thuộc loại hình nghệ thuật khác không đúng.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để việc dạy-học môn Ngữ văn nói chung phân môn Văn nói riêng được
tốt thì người giáo viên phải là người có trình độ chuyên môn tốt. Một tiết giảng
văn tốt phải là một tiết sau khi học, học sinh năm được và hiểu nội dung bài học.
Đặc biệt trong phân tích tác phẩm thì việc tìm hiểu về nhân vật trong tác phẩm
lại là một khâu không kém phần quan trọng.
I. NHÂN VẬT VÀ VỊ TRÍ CỦA NÓ TRONG TÁC PHẨM
Văn học bao giờ cũng là chuyện của con người. Nói đến nhân vật văn học
là nói đến con người được nhà văn miêu tả, thể hiện trong tác phẩm. Nhân vật
văn học có khi là con người có tên như Thạc Sanh, Lý Thông, Thuý Kiều, chị
Dậu, … có khi không có tên như những Người em út, Anh thanh niên, Cô kĩ sư,
thằng bán tơ, những kẻ nịnh thần …; có khi là một hiện tượng nào đó của thiên
nhiên mang nội dung biểu tượng Thần sông, ông Bụt, bà Tiên … Nhân vật có
thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau nhất. Đó có thể là những
4
người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, tiểu sử như
thường thấy trong tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những người thiếu hẳn
những nét đó, nhưng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người
trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ
tình.
Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì nó là hình thức cơ bản để qua đó
văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Văn học chỉ tái hiện được đời
sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như tấm gương của cuộc đời.
Chức năng của nhân vật là khái quát những qui luật của cuộc sống của con
người, thể hiện những hiểu biết, những ước mơ và kỳ vọng về con người. Nhà
văn sáng tạo nên nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hộinhất định và quan
niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát các
tính cách, số phận con người và các quan niệm của chúng.
Tính cách, trong ý nghĩa rộng nhất, chung nhất là sự thể hiện các phẩm
chất xã hội - lịch sử của con người qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm
chất tâm sinh lý của họ. Tính cách có một hạt nhân là sự thống nhất của cá tính
và cái chung xã hội, lịch sử; nhưng người ta chỉ gọi là tính cách những người mà
sự thống nhất kia biểu hiện một cách nổi bật các phẩm chất xã hội - lịch sử của
nó.
Tuy nhiên, tính cách là một hình tượng xã hội – lịch sử xuất hiện trong
hiện thực khách quan. Do đó chức năng khái quát của nhân vật cũng mang tính
chất lịch sử. Trong thời cổ đại, khi nhiệm vụ của xã hội con người là chinh phục
thiên nhiên, khai phá địa bàn cư trú, tạo dựng dân tộc, chống ngoại xâm, thì xuất
hiện các nhân vật thần thoại như Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ
đẻ ra trăm trứng, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, …
Ứng với xã hội phân hoá giai cấp trên cơ sở chế độ tư hữu, nhân vật văn
học lại khái quát các tính cách đối kháng về mặt phẩm chất. Đó là những nhân
vật cổ tích với các tính cách người giàu, kẻ nghèo (Cây tre trăm đốt), người ác
người thiện, có ý nghĩa xác định những chuẩn mực giá trị quan trọng trong quan
hệ xã hội giữa người với người (Tấm Cám, Thạch Sanh).
Nhân vật văn học trong dân gian nói chung, do đặc điểm truyền miệng
thường mang nội dung tính cách cô đọng, đơn giản mặc dù có giá trị khái quát
cao và bền vững. Nhân vật văn học viết ngay từ đầu có khả năng khái quát tính
5
cách một cách đầy đặn, nhiều mặt, chi tiết, (chẳng hạn nhân vật anh hùng ca của
Hôme). Theo Hêghen, Asin trong Iliat đã khái quát một tính cách đa dạng, nhiều
mặt: yêu mẹ Têlit, khóc thương số phận Brêđêit khi nàng bị cướp đi, dám nổi
giận chống Agamennông khi danh dự bị xúc phạm. Asin vui tươi dũng cảm,
thương bạn, đồng thời chàng cũng rất nóng nảy, hung hăng, hay hằn thù, tàn bạo
với kẻ thù. Nhưng chàng kính trọng người già ngay khi người đó là cha của kẻ
thù mình. Hêghen cho rằng có thể nói đó là một con người và mỗi nhân vật loại
đó là một thế giới riêng biệt, linh động. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, ta cũng
bắt gặp nhiều nhân vật cụ thể, sinh động nhiều mặt như vậy. Chẳng hạn như
Hạng Vũ quyết đoán, liều lĩnh trong trận Cự Lộc, khảng khái cao thượng trong
bữa tiệc ở Hồng Môn và nghĩa khí, đượm tình bi tráng trong bước “mạt lộ” ở
Cai Hạ. Mỗi nhân vật như vậy đều mang những tính cách có ý nghĩa, có giá trị
xuất hiện trong thời của nó. Những nhân vật khái quát nổi bật những tính cách
có ý nghĩa phổ biến sâu xa sẽ là những nhân vật điển hình. Tuy nhiên, không
phải nhà văn nào trong tác phẩm nào cũng xây dựng được những hình tượng của
mình. Một hình tượng chỉ được gọi là hình tượng điển hình khi hình tượng ấy
khái quát được những nét, những tính cách con người, những tư tưởng, những
hiện tượng có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội lại được miêu tả qua những chi
tiết cụ thể sinh động hấp dẫn. Điển hình là một khái quát cao của sáng tạo nghệ
thuật. Theo Trường Chinh, “Điển hình trong nghệ thuật là những nét, những tính
cách cơ bản nhất, bản chất nhất và nổi bật nhất trong đời sống xã hội được tập
trung biểu hiện và nâng cao qua sự sáng tạo của nghệ sĩ, nhưng chung quy nó
vẫn là cuộc sống”.
Như vậy, nói đến điển hình là nói đến chất lượng phản ánh và sức tác
động của hình tượng. Điển hình văn học là sự thể hiện nổi bật nhất những vấn đề
bản chất nhất của đời sống. Tuỳ những mức độ thành công của nhà văn khi xây
dựng hình tượng mà người ta nói đến chi tiết điển hình …
Điển hình là một sáng tạo mà tiền đề của nó là nguồn hiện thực bên ngoài
được nó phản ánh. Theo cách hiểu truyền thống, điển hình được cấu tạo sao cho
phản ánh được một loại hiện thực nào đó, khái quát được các hiện tượng khác
nhau về đời sống. Điển hình hoá đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn những nét,
những tính cách quan trọng và có ý nghĩa lớn trong hiện thực. Nhà văn phải phát
hiện ra những chi tiết. Những quan hệ có ý nghĩa tiêu biểu, đồng thời phải xây
dựng những hình tượng nghệ thuật sinh động nổi bật.
6
Điển hình hoá cho phép nhà văn được vân dụng các tình tiết ly kỳ, thậm
chí có vẻ bề ngoài phi lý nữa, nhưng thông qua các chi tiết ấy mà nêu bật được
bản chất của sự vật. Thí dụ việc nhà văn Vũ Trọng Phụng miêu tả hành động của
tên Nghị Hách đòi mua gánh rạ của cô gái nông dân để nhồi vào lốp ô tô tưởng
như vô lý, song nó lại góp phần nói lên bản chất đê tiện của những tên địa chủ
thời ấy.
Nói tới điển hình hoá trong nghệ thuật là nói tới vốn sống phong phú, nói
tới tư tưởng, tình cảm lớn và tài nghệ cao cường của nhà văn. những cái vốn ấy
càng nhiều bao nhiêu thì việc điển hình hoá trong nghệ thuật của người nghệ sĩ
càng có giá trị sâu sắc bấy nhiêu.
Như vậy để phân tích được nhân vật ta cần phải biết nhân vật ấy có vai
trò vị trí như thế nào trong tác phẩm
II. LOẠI HÌNH NHÂN VẬT VĂN HỌC
Nhân vật trong văn học là một hiện tượng đa dạng và phong phú. Mỗi giai
đoạn lịch sử, nhân vật trong văn học lại được thể hiện gắn liền với một quan
niệm nhất định. Ví dụ nhân vật trong thần thoại khác với nhân vật trong truyền
thuyết và cổ tích. Nhân vật trong văn học cổ điển khác với nhân vật trong văn
học lãng mạn và hiện thực. Tuy nhiên, nếu đặt trong cái nhìn hệ thống cũng có
thế thấy thế giới nhân vật muôn màu muôn vẻ ấy nằm trong những kiểu loaị
nhất định. Ở đây chỉ xin nêu một số kiểu loại chính thường gặp trên các bình
diện nội dung tư tưởng, kết cấu- cốt truyện, thể loại cấu trúc mà thôi.
Các loại nhân vật thường được miêu tả trong tác phẩm
1. Từ góc độ kết cấu - cốt truyện có thể chia ra nhân vật chính, nhân
vật phụ, nhân vật trung tâm
Trong tác phẩm văn học thường có một hay nhiều nhân vật. Các tác phẩm
tự sự và kịch trường có nhiều nhân vật. Trong trường hợp đó, không phải mọi
nhân vật trong tác phẩm đều có vai trò như nhau trong kết cấu và cốt truyện.
Nhân vật chính đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt
của cốt truyện. Đó là con người liên quan đến các sự kiện chgủ yếu của tác
phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Nhân vật chính của
Truyện Kiều là Thuý Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Hoạn Thư, Tú Bà,
Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến. Đó là những người tham gia vào những sự kiện chính
7
của tác phẩm. ở truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là Chí Phèo và Bá Kiến. Ở
các tác phẩm lớn có nhiều tuyến cốt truyện, số lượng nhân vật rất đông, chẳng
hạn Thuỷ Hử gồm hơn 400 nhân vật, 108 anh hùng, số lượng nhân vật chính lên
đến hàng chục, Chiến tranh và hoà bình của L. Tônxtôi gồm hơn 570 nhân vật,
nhân vật chính cũng lên tới hàng chục.
Nhân vật chính được khắc hoạ đầy đặn hơn, có tiểu sử, có nhiều tình tiết,
nhưng cái chính là thể hện tập trung đề tài và chủ đề tác phẩm.
Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thấy nổi lên những
nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm từ đầu đến cuối. Về mặt ý nghĩa. Đó là
nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của
tác phẩm. Đó là Thuý Kiều trong Truyện Kiều, chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô
Tất Tố …
Ngoài nhân vật chính, nhân vật trung tâm còn có nhân vật phụ, nhân vật
phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ, bổ sung, nhưng
không thể coi nhẹ nhân vật phụ. Chúng chẳng những là một bộ phận không thể
thiếu của bức chân dung mà nhiều khi nhân vật phụ hàm chứa những tư tưởng
quan trọng của tác phẩm. Chẳng hạn thằng bán tơ trong Truyện Kiều, anh Hợi
trong Tắt đèn …
2. Từ góc độ nội dung tư tưởng, căn cứ vào phẩm chất nhân vật có
thể chia ra nhân vật chính diện và nhân vật phản diện
Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lý tưởng, các nhân
vật lại có thể chia ra làm nhân vật chính diện (còn gọi là nhân vật tích cực) và
nhân vật phản diện (còn gọi là nhân vật tiêu cực). Sự phân biệt nhân vật chính
diện và phản diện gắn liền với những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống xã
hội, hình thành trên cơ sở đối lập giai cấp và quan điểm tư tưởng.
Nhân vật chính diện và phản diện là những phạm trù lịch sử. Nhân vật
chính diện mang lý tưởng, đạo đức tốt đẹp của tác giả và thời đại. Đó là người
mà tác phẩm khẳng định và đề cao như những tấm gương về phẩm chất cao đẹp
của con người một thời; trái lại nhân vật phản dịên lại mang những phẩm chất
xấu xa trái với đạo lý và lý tưởng, đáng lên án phủ định. Như vậy, hai loại nhân
vật này luôn luôn đối kháng với nhau như nước với lửa.
Việc phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện đã có một lịch
sử lâu đời. Có những thể loại nói chung chuyên viết về nhân vật chính diện như
8
tụng ca, sử thi, bi kịch. Lại có những thể loại chuyên thể hiện nhân vật phản diện
như thơ châm biếm, truyện cười, hài kịch.
Ở văn học cổ Việt Nam cũng có sự phân biệt nhân vật chính diện và phản
diện như trong các truyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, trong các truyện cổ tích Tấm
Cám, Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt … Trong văn học viết, nhân vật chính diện
thường là các nhà nho, các bậc trượng phu tiết tháo coi thực hiện lý tưởng nhà
nho là lẽ sống của cuộc đời, những anh hùng giúp dân cứu nước như Lê Lợi
(Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi), Quang Trung (Hoàng Lê nhất thống chí- Ngô
Gia Văn Phái), những anh hùng hiệp nghĩa (Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu),
những người bình dân đấu tranh cho công lý xã hội như Ngọc Hoa (Phạm Tải –
Ngọc Hoa), Từ Hải (Truyện Kiều). Các nhân vật chính diện nói trên đều có
những nhân vật đối lập, là đối tượng lên án, phê phán của tác giả.
Là một hiện tượng lịch sử, nhân vật chính diện cũng có hình thái lịch sử
của nó. Trong văn học cổ đại, trung đại, trong văn học cổ điển chủ nghĩa, văn
học lãng mạn thời kỳ đầu của Gorki, nhân vật chính diện đều là nhân vật lý
tưởng hoặc ít nhiều đều mang tính chất lý tưởng. Nhân vật là hoá thân của lý
tưởng được gọi là nhân vật lý tưởng. Nhưng nhiều khi nhân vật được lý tưởng
hoá đều mang tính chất quy phạm và không tránh khỏi giản đơn, một chiều.
Chẳng hạn Lưu Bị tốt quá nhiều khi thành giả dối, Gia Cát Lượng tài quá lắm
khi như yêu tinh! ở đây cần phân biệt nhân vật chính diện theo chủ quan của nhà
văn và nhân vật chính diện theo quan diểm khách quan của đời sống. Chỉ khi lý
tưởng nhà văn phù hợp với xu thế tiến bộ, khách quan của lịch sử mới có điều
kiện xây dựng được hình tượng nhân vật tích cực thuyết phục.
Sự phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện không phải bao
giờ cũng rạch ròi, rõ nét. Trong những thời kỳ đối kháng xã hội, đối kháng giai
cấp, đối kháng tư tưởng quyết liệt, xuất hiện hai loại nhân vật này, thậm chí còn
tạo nên những tuyến đối lập. Chẳng hạn trong truyện kể dân gian, trong truyện
Nôm việc phân tuyên nhân vật là rất rõ. Một bên là Thạch Sanh, một bên là Lí
Thông; một bên là Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Tử Trực, Hớn Minh … ,
một bên là Võ Công, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, Đặng Sinh … (Lục Vân Tiên)
3. Xét từ góc độ thể loại có thể có nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân
vật trữ tình
9
Nhân vật tự sự là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự, chủ yêú
xuất hiện trong các tác phẩm tự sự như trong tiểu thuyết, truyện ngắn. truyện
vừa, truyện thơ. Đây là loại nhân vật có thể được miêu tả đầy đặn nhất, phong
phú nhất, ít bị hạn chế.
Nhân vật kịch là nhân vật được miêu tả theo phương thức kịch, chủ yếu
xuất hiện ở trong kịch. Vì kịch là để diễn bị hạn chế bởi không gian và thời gian
nên nhân vật kịch chỉ được miêu tả ở những khâu xung đột căng thẳng nhất. Do
đó nhân vật kịch giàu kịch tính, góp phần tạo nên tính kịch của vở kịch.
Các nhân vật có tính kịch trong tự sự là loại nhân vật gần gũi với nhân vật
kịch.
Nhân vật trữ tình là nhân vật được xây dựng theo phương thưc trữ tình,
trực tiếp thể hiện cảm xúc, ý nghĩ trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình thường xuất
hiện dưới dạng phiến đoạn trong nhiều thể loại khác nhau như thơ trữ tình, bút
kí, tuỳ bút … nhưng chủ yếu là trong thơ trữ tình và thường gọi là “cái tôi trữ
tình”.
Trên đây là một số kiểu loại nhân vật thường gặp. Cách phân chia ra các
kiểu loại khác nhau ở trên là tương đối. Trong thực tế không phải bao giờ cũng
phân định nhân vật một cách rạch ròi như vậy được.
Tuy nhiên với việc phân chia nhân vật ra các kiểu loại cho phép nắm bắt
dễ dàng. Và từ đó tiến hành phân tích nhân vật cũng thuận lợi hơn. Chẳng hạn
không thể phân tích nội tâm của các nhân vật trong Tấm Cám bởi do không phải
là nhân vật tính cách mà là nhân vật chức năng. Hay cũng sẽ sai lầm nếu phân
tích các nhân vật trong văn học hiện thực lại không chú ý đến tâm lí, nội tâm
nhân vật …
III. CÁC PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG TIỆN VÀ BIỆN PHÁP THỂ
HIỆN NHÂN VẬT
Như đã nói, nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật, miêu tả bằng
ngôn ngữ. Các phương thức thể hiện nhân vật hết sức đa dạng. Văn học đa dạng
đến đâu, các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. Ở đây
chỉ nói những điều chung nhất.
Trước hết nhân vật được miêu tả bằng chi tiết. Đó là những biểu hiện mọi
mặt của con người mà người ta có thể căn cứ để nhận biết về nó.
10
Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, cả hành động,
tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm. Văn học cũng dùng chi tiết để mô
tả ngoại cảnh, môi trường đồ vật xung quanh con người.
Nhân vật còn được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện. Các mâu
thuẫn, xung đột bao giờ cũng có tác động làm nhân vật bộc lộ cái phần bản chất
sâu kín nhất của nó (chẳng hạn sự áp bức của bọn cai lệ và người nhà lý trưởng
làm bật lên cái nét quật khởi tiềm tàng giấu kín bên trong người phụ nữ con mọn
vốn hiền lành, nhịn nhục như Chị Dậu ở trong Tắt đèn của Ngô tất Tố hay sự
gặp gỡ với Thị Nở bỗng làm cho Chí Phèo trở nên hiền lành, lương thiện).
Nhưng nhân vật thường bộc lộ mình nhiều nhất qua hành động và nội
tâm. Sự suy nghĩ của chị Dậu khi phải bán con, bán chó, hành động trả nắm bạc
trước mặt quan phủ đã nói lên tính chất của người phụ nữ nông dân, hay sự
giằng xé nội tâm đau đớn của lão Hạc sau khi phải bán đi con chó Vàng- kỉ vật
của con trai lão.
Có thể miêu tả nhân vật một cách trực tiếp qua ngôn ngữ trần thuật của
nhà văn, nhưng cũng có thể miêu tả gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người
xung quanh đối với nhân vật (Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn
Thành Long). Nhân vật còn được thể hiện bằng các phương tiện kết cấu, bằng
các phương tiện ngôn ngữ, bằng các phương thức miêu tả riêng của từng thể
loại.
Sự thể hiện nhân vật văn học bao giờ cũng nhằm khái quát một nội dung
đời sống xã hội và một quan niệm của nhà văn về một loại người nào đó trong
xã hội. Vì vậy, hình thức thể hiện của nhân vật phải được xem xét trong sự phù
hợp với nhân vật. Phương thức biện pháp thể hiện đối với nhân vật chính, nhân
vật phụ, nhân vật chính diện và nhân vật phản diện không thể giống nhau.
Đối với nhân vật chính, nói chung nhà văn dùng toàn bộ cốt truyện sử
dụng các sự kiện, hành động trọng yếu, nét bút sắc cạnh. Đối với nhân vật phụ,
các sự kiện, chi tiết không thể làm che mờ nhân vật chính. Đối với nhân vật
chính diện nhà văn thường dùng các biện pháp khẳng định, đề cao, thi vị hoá,
lãng mạn hoá, tô đậm các hành động tốt đẹp. Đối với các nhân vật phản diện,
người ta thường dùng các biện pháp vạch mặt, tố cáo, châm biếm, mỉa mai, lố
bịch hoá.
11
Đối với việc khắc hoạ nhân vật tính cách, việc mô tả tâm lý, cá tính đóng
vai trò cực kỳ quan trọng. Ở đây các nhà văn chú ý đến các chi tiết thể hiện đời
sống bên trong, các trạng thái cảm xúc, các quá trình tâm hồn của nhân vật: tâm
trạng của bé Thu trước giờ chia tay ông Sáu lên đường trở lại căn cứ trong
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, qua đó thể hiện tình yêu thương ba sâu
sắc của bé Thu dành cho ba của mình.
Việc mô tả đồ vật, môi trường cũng là phương tiện quan trọng để thể hiện
tâm lý nhân vật. Chẳng hạn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tả vầng trăng - mặt
biển - tiếng đàn cũng là để phác hoạ tâm trạng của Thuý Kiều (Kiều ở lầu
Ngưng Bích - Truyện Kiều của Nguyễn Du); Nam Cao cũng là nhà văn sử dụng
tài tình các chi tiết của ngoại giới để khắc hoạ tâm lý nhân vật (Lão Hạc)
Đối với nhân vật tính cách, ngôn ngữ nhân vật cũng là biện pháp miêu tả
tâm lý. Nhà văn nhiều khi không chỉ khai thác nội dung ý nghĩa của lời nói mà
còn qua lời nói để góp phần bộc lộ tính cách nhân vật (thí dụ ngôn ngữ của Kim
Trọng khác hẳn với ngôn ngữ Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều).
Có thể nói phương tiện xây dưng nhân vật cũng như các biện pháp xây
dựng nhân vật rất phong phú. Sự đa dạng và loại hình nhân vật cũng đòi hỏi có
những phương thức miêu tả phỳ hợp. Tìm hiểu thế giới phong phú và đa dạng
của nhân vật là cần thiết bởi lẽ qua đó sẽ hiểu được nội dung nghệ thuât mà nó
khái quát.
Tóm lại, nhân vật là hình thức văn học để phản ánh hiện thực. Hình thức
ấy rất đa dạng nhằm thể hiện các khía cạnh vô cùng phong phú của cơ sở. Việc
hình dung sự đa dạng của nhân vật là rất cần thiết để đi sâu tìm hiểu những nội
dung phong phú đó trong di sản văn học nhân loại cũng như sự phong phú của
văn học xã hội chủ nghĩa ngày nay.
VI. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Sau một thời gian nghiên cứu và giảng dạy đề tài này, khảo sát điều tra
cho thấy kết quả có tới 75,8% HS hiểu và nắm được những vấn đề liên quan đến
nhân vật văn học mà các em đang được học. Sau khi áp dụng đề tài này tôi nhận
thấy trong các tiết học văn học sinh đã hứng thú hơn. Các em đã năm chắc hơn
các kiến thức về nhân vật, đặc biệt năm nay tôi áp dụng đề tài này cho học sinh
lớp 9E là lớp có nhiều học sinh yếu thì các các em đac có nhiều tiến bộ hơn.
12
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên đây là nhưng ý kiến có thể là mang tính chất chủ quan của riêng cá
nhân người viết đã đúc kết được trong qua trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Do
điều kiện thực tế và thời gian nên Đề tài không tránh khỏi khiếm khuyết, tôi rất
mong đựơc sự nhận xét, góp ý từ cấp trên, Ban Giám hiệu và đồng nghiệp để đề
tài này ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Khuyến nghị
Hàng năm Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện nên phổ biến rộng rãi các đề
tài sáng kiến có tính ứng dụng cao cho tất cả giáo viên trong huyện được học tập
trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn và có điều kiện áp dụng những
sáng kiến hay vào trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn của mình ./.
Xin chân thành cảm ơn!
Đan Phượng, Ngày 22 tháng 02 năm 2022
Người viết
Bùi Thị Vân
13
C. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ SGK Ngữ văn lớp 6, 7, 8, 9.
2. Lí luận Văn học tập 2 NXB Giáo dục, 1987 - Trần Đình Sử, Phương
Lựu, Nguyễn Xuân Nam.
14
MỤC LỤC
Số
thứ
tự
Nội dung
Trang
1
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
2
I. Cơ sở khoa học của vấn đề
1
3
II. Mục đích, lí do chọn đề tài
2
4
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, thời gian
áp dụng
2
5
V. Khảo sát thực tế
2
6
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
7
I. Nhân vật và vị trí của nó trong tác phẩm
2
8
II. Loại hình nhân vật văn học
5
9
III. Các phương thức, phương tiện và biện
pháp thể hiện nhân vật.
9
10
IV. Kết quả thực hiện
11
11
C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
11
- Xem thêm -