Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số kĩ năng rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4...

Tài liệu Skkn một số kĩ năng rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4

.DOC
20
64
89

Mô tả:

Đề tài: MỘT SỐ KĨ NĂNG RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4 Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Thọ Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bồng Sơn A. MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề 1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết Tiếng Việt là môn học cơ bản trong chương trình tiểu học. Trong đó phân môn tập đọc chiếm vị trí quan trọng. Tập đọc - đọc diễn cảm góp phần tích luỹ kiến thức nhiều mặt, đa dạng phong phú. Bởi lẽ, đọc diễn cảm là một hình thức đọc có tính đặc thù, nhằm rèn luyện kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh. Khi đọc diễn cảm, người đọc chuyển văn bản “viết” thành văn bản “âm thanh” một cách trung thực, nhằm truyền đến cho người nghe không chỉ nội dung thông tin mà còn cảm nhận được giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của văn bản. Một người đọc diễn cảm tốt tức là người đó đã truyền thụ được một phần nội dung và cảm xúc của bài đọc tới người nghe mà chưa cần đến giảng giải. Đối với học sinh, khi đọc diễn cảm các bài đọc trong chương trình, các em sẽ được tiếp thu với ngôn ngữ nghệ thuật và cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn chương. Với nhiều năm giảng dạy các môn học của lớp 4, tôi thấy trong phân môn Tập đọc có nhiều dạng bài, nhiều thể loại văn bản khác nhau. Các thể loại văn bản đó rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất gần gũi với các em học sinh thuộc lứa tuổi. Vậy làm thế nào để giúp các em hiểu được nội dung, ý nghĩa của từng loại văn bản và phản ánh một cách trung thực, đầy đủ thông qua giọng đọc là một vấn đề mà chúng ta những người làm công tác giáo dục đã và đang quan tâm....Chính vì thế với kinh nghiệm của bản thân, năm học này tôi xin được trình bày “Một số kĩ năng rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4” nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm trong học sinh nói riêng và nâng cao chất lượng môn Tiêng Việt nói chung. 2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới. 2.1. Ý nghĩa: Giải pháp mới này không những có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giúp học sinh trung bình, yếu đọc đúng, đọc chính xác văn bản để hiểu nội dung một cách thấu đáo các bài đọc trong chương trình SGK lớp 4 mà còn giúp cho học sinh khá, giỏi cảm thụ được vẻ đẹp của những tác phẩm trong và ngoài sách. Từ đó giúp học sinh 1 phát triển khả năng cảm thụ văn học của bản thân. Giúp GV có cái nhìn sâu hơn khi dạy môn tập đọc đặc biệt là tiến trình rèn đọc diễn cảm cho học sinh. 2.2. Tác dụng: Giải pháp thành công sẽ mang lại hiệu quả đáng kể, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, vẻ đẹp của Tiếng Việt. Góp phần nâng cao chất lượng môn Tập đọc trong lớp nói riêng và chất lượng Tiếng Việt cả tổ 4 nói chung. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Tìm hiểu những vấn đề lý luâ nâ liên quan đến đề tài. - Tìm hiểu thực trạng dạy học ở tiểu học. - Những điều chỉnh- đề xuất biê ân pháp rèn luyê nâ kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trong giờ tâ âp đọc. - Thực nghiê âm dạy học. II. Phương pháp tiến hành 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm giải pháp của đề tài 1.1. Cơ sở lý luận: Thực hiện theo Chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học: - Căn cứ Quyết định số 16/ 2006/ QĐ - BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Căn cứ vào chương trình sách giáo khoa hiện hành. Môn tập đọc giúp các em có kĩ năng nghe tốt, đọc thông, viết thạo, đọc đúng, giúp các em hiểu được nội dung văn bản. Đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Ngoài ra môn tập đọc còn có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục tình cảm cho HS của lứa tuổi Tiểu học. Qua môn Tập đọc các em được tiếp xúc với những áng thơ, áng văn hay được chọn lọc dạy trong chương trình. Học sinh được tiếp xúc với thế giới muôn hình muôn vẻ ở xung quanh qua nghệ thuật ngôn từ. Từ đó làm cho HS cảm nhận được vẻ tinh túy của thế giới đó bằng ngôn ngữ Tiếng Việt. Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các ký hiê âu văn tự thành âm thanh. Vì vâ ây, chất lượng của đọc thành tiếng trước hết được đo bằng hai phẩm chất: Đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó cũng là hai kĩ 2 năng đầu tiên của đọc. Khi đọc diễn cảm mục đích của người đọc là làm rõ nghĩa các kí tự, làm rõ nô iâ dung và mục đích thông báo của văn bản và đó cũng là kĩ năng của đọc diễn cảm mà Tập đọc 4 hiện nay đang yêu cầu. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Thực tế, trong nhiều năm giảng dạy khối 4 tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh giữa các lớp chưa đồng đều. Đa số các em chỉ mới đọc đúng, số học sinh biết đọc diễn cảm còn rất ít (thậm chí nhiều em chưa biết cách đọc diễn cảm hoặc còn xem nhẹ hoạt động này); số học sinh đọc chưa lưu loát và sai lỗi vẫn còn. Giọng đọc của học sinh còn nhỏ; nhiều em chưa nắm được nội dung của bài đọc nên khi đọc, tôi thấy các em chưa bộc lộ được cảm xúc của bài đọc qua giọng đọc hoặc nếu có thì chỉ mang tính chất bắt chước giáo viên hoặc bạn bè. Một điều đáng nói là phần lớn học sinh khi đọc một tác phẩm còn đọc tuỳ tiện theo chủ quan không có thói quen ngắt giọng đúng chỗ, lựa chọn ngữ điệu đọc phù hợp để từ đó biết cách phối hợp tư thế, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trong khi đọc. 2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp. Trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu bản thân đã tổ chức thực hiện như sau: Sau khi nhận lớp, tôi đã ổn định chung tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh và lựa chọn, đặc biệt là kĩ năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng: 1. Học sinh biết đọc diễn cảm 2. Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát 3. Học sinh đọc nhỏ, lí nhí, ấp úng, ngọng,... Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập đọc để các em nắm được chủ đề chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về cách tìm hiểu nội dung của bài học. Hướng dẫn mỗi em có một quyển vở để ghi lại những câu trả lời theo từng câu hỏi ở sách giáo khoa cũng như nội dung các bài đã học qua. * Sự chuẩn bị của học sinh Trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi cũng như tập tìm hiểu nội dung bài, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh. 3 Trong các năm qua tôi đã dành nhiều thời gian cho đề tài nghiên cứu này. B. NỘI DUNG I. Mục tiêu: Giúp HS biết đọc, biết tư duy để tạo được sự sinh đô nâ g, hứng thú, sôi nổi để lôi cuốn sự chú ý của các em vào cách luyê ân đọc sao cho có hiê âu quả hơn. Khi dạy tâ âp đọc cho học sinh lớp 4 vấn đề không phải chỉ là dạy cho học sinh đọc to, rõ ràng mà còn phải dạy cho học sinh đọc đúng, lưu loát, ngắt, nghỉ, hạ giọng, cao giọng, đọc nhớ, đọc nhanh, ngoài ra còn giúp các em hiểu và cảm thụ tốt bài học đó thì học sinh mới đọc hay, đọc diễn cảm được bài đọc đó, phải hiểu được bài đọc đó nói lên cái gì? và các em học được gì qua mỗi bài học đó. Các em có đọc diễn cảm hay một đoạn thơ, một đoạn văn các em mới cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ, bài văn đó và qua đó các em mới áp dụng vốn kiến thức của mình để viết văn hay. Làm bài tập luyện từ và câu tốt, học tốt các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn... chính là góp phần nâng cao chất lượng của bộ môn Tiếng Việt. II. Mô tả giải pháp của đề tài 1. Tính thuyết minh mới Từ việc tìm hiểu các nguyên nhân cùng với những nhận xét rút ra qua kết quả khảo sát thực tế, tôi đã tiến hành dần từng biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên để giúp HS nâng cao chất lượng đọc diễn cảm. Cụ thể: 1.1. Trong giờ tập đọc 1.1.1. Yêu cầu học sinh đọc đúng, đọc lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa các bài đọc Muốn đọc diễn cảm một tác phẩm trước hết đòi hỏi các em cần phải biết đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm đó. Vì khi đọc đúng, các em sẽ phát âm chính xác các từ ngữ, biết ngắt nghỉ giọng đúng chỗ trong từng câu, từng đoạn để giúp người nghe hiểu đúng nghĩa các từ ngữ cũng như các câu văn của bài đọc. Còn khi các em nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc sẽ giúp các em biết nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm và tự xác định được giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hay cả bài đọc đó. Hơn nữa, có hiểu thấu đáo nội dung và ý nghĩa của bài đọc thì các em mới có những cảm xúc thực để truyền đạt được những tâm tư tình cảm hay ý đồ của tác giả được ẩn chứa trong từng câu, từng chữ của bài đọc đến với người nghe. Vì thế, 4 đây là một yếu tố rất quan trọng, là cơ sở ban đầu của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho các em. + Việc giúp các em luyện đọc đúng, lưu loát tôi thực hiện chủ yếu ở bước luyện đọc. Trong quá trình đọc, tôi thường gọi các em thuộc đối tượng 1 và 2 đọc trước; sau đó yêu cầu các em tiếp tục giúp đỡ, kèm cặp các bạn đọc còn chậm, chưa lưu loát tiến đến đọc đúng và lưu loát hơn. + Việc giúp các em nắm nội dung, ý nghĩa của bài đọc được tiền hành chủ yếu ở bước tìm hiểu bài. Sau khi hướng dẫn các em khai thác nội dung các câu hỏi trong SGK tôi đã nêu thêm một vài câu hỏi mở để giúp các em hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của bài học đó. 1.1.2. Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài. Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung, ý nghĩa bài đọc. Tôi yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn văn nhằm "thăm dò" khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh. Qua kết quả đọc của học sinh, tôi dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tìm ra cách đọc hợp lí. Trong mỗi tiết học, giáo viên là người giúp các em nắm vững nội dung bài, những từ ngữ gợi tả bằng cách đặt câu hỏi, gợi mở, dẫn dắt, từ đó các em sẽ cảm thụ và rung động trước cái hay, cái đẹp của bài văn. Có có thụ sâu sắc nội dung bài mới chuyền được ngữ điệu, cảm xúc của tác phẩm đến người nghe. Đối với các bài văn, bài thơ có thể yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ, hình ảnh có giá trị nghệ thuật trong bài. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh giải nghĩa các từ đó bằng các biện pháp: định nghĩa, bằng trực quan (tranh, ảnh…), bằng ngữ cảnh cụ thể… VD: Bài “Hoa học trò”, TV4, tập 2. Với từ “đỏ rực” trong hình ảnh “một góc trời đỏ rực”- để giải nghĩa được từ này, trước hết tôi cho các em quan sát tranh. Từ hoạt động quan sát , các em có được nhận xét về màu sắc, đặc điểm, tính chất của hoa phượng nở rộ với số lượng rất nhiều. Từ đó, các em dễ dàng giải thích được “đỏ rực” có nghĩa là: đỏ thắm, tươi tắn và tỏa sáng ra xung quanh. * Bài “Chú Đất Nung”- TV4, tập 1; Với HS vùng Nam Bộ gia đình các em chưa phải dùng đống rấm để giữ lửa, cũng không quen sử dụng từ “cời”. Vì vậy tôi phải 5 giải nghĩa từ “đống rấm” dựa vào chú giải sách giáo khoa, song cũng cần nói thêm tác dụng của đống rấm, ông Hòn Rấm; rồi tìm từ đồng nghĩa “khều” để giải nghĩa từ “cời” (gạt vật vụn: tro, than ra bằng que) Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu rõ nghĩa của từ, chúng ta cần giúp học sinh hiểu rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật, cảm nhận được những giá trị nổi bật, những điều tế nhị sâu sắc, đẹp đẽ của từ ngữ, câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ, câu chuyện… - Khi hướng dẫn đọc cần lưu ý hướng học sinh tìm những câu văn quan trọng nêu ý của toàn đoạn hoă âc bài. Ví dụ câu: “Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!” ngay câu đầu của bài đã thể hiê ân nô âi dung bao trùm của bài : Giới thiê âu về vẻ đẹp của con chuồn chuồn nước mà những câu sau sẽ diễn giải cho điều đó. Trong tìm hiểu nô iâ dung của bài cần chú ý tìm ra, và khai thác giá trị của những từ “Đắt”, từ “Chìa khoá ” của bài để bâ ât lên nô âi dung. Ví dụ trong đoạn thơ: “Bè đi chiều thầm thì Gỗ lượn đàn thong thả Như bầy trâu lim dim Đằm mình trong êm ả”. ( Bè xuôi sông La – TV4) Các từ láy “ thầm thì”, “ thong thả”, “lim dim”, “êm ả” dùng rất “đắt”, có giá trị đă âc tả mô tâ buổi chiều êm ả, thơ mô âng thanh bình của dòng sông La. Hay các hình ảnh ẩn dụ: “nụ ngói hồng”, “hoa lúa trô”, “khói nở xoà như bông” Hiê ân lên trong cảnh “đạn bom đô nát” gợi tả cảnh tái thiết đất nước trong mô ât ngày mai thắng trâ nâ . Tinh thần lạc quan tin tưởng sáng bừng vần thơ: “ Trong đạn bom đô nát Bừng tươi nụ ngói hồng Đồng vàng hoa lúa trô Khói nở xoà như bông ( Bè xuôi sông La – TV4). Ngắt giọng đúng và hay là đích của dạy đọc và cũng là mô tâ trong những phương tiê ân để dạy tiếp nhâ nâ , chiếm lĩnh văn bản. Việc phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật là một trong những phần quan trọng trong việc cảm thụ bài văn. Vì vậy, ngay từ khi tìm hiểu bài giáo viên cần bổ sung cho 6 các em hiểu biết thêm về các biện pháp tu từ như: biện pháp so sánh , nhân hoá và dấu hiệu nhận biết, tác dụng của các biện pháp đó. Đồng thời, các em cần tìm ra sự tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ. Ta cần đọc kỹ, lắng nghe xem bài văn gây cho ta cảm xúc gì? ( cảm xúc về âm thanh, giai điệu? về đường nét, màu sắc ? về nhịp điệu cuộc sống? về tâm tư, suy nghĩ của tác giả? về con người cảnh vật được miêu tả?... ). Muốn có được những cảm nhận đó, các em cần có một trí tưởng tượng phong phú, một khả năng nhận diện cảm xúc nhậy bén … giáo viên chính là người phát hiện và bồi dưỡng những khả năng này ở các em. * Hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp cái hay của bài thơ ( thể hiện qua những hình ảnh gợi tả, biện pháp tu từ …) các em sẽ có được niềm cảm thông sâu sắc bởi đã hoà mình được vào dòng cảm xúc của tác giả. Từ đó các em không chỉ đọc đúng mà còn có thể truyền tải được cả tình cảm của tác giả trên cơ sở mình cảm nhận được. Tóm lại: Tìm được cái gì đó trong quá trình tìm hiểu bài làm mình cảm xúc, tức là các em đã cảm thụ được bài văn trên cơ sở hiểu được nội dung của đoạn, của bài. Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của đoạn, của bài và sẽ thể hiện được nội dung của đoạn, của bài thông qua giọng đọc mà ta gọi là đọc diễn cảm. 1.1.3. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm. Trước khi hướng dẫn HS đọc diễn cảm tôi phải xem bài Tập đọc đó là văn bản nghệ thuật hay là phi nghệ thuật. Đối với văn bản nghệ thuật thì mới hướng dẫn đọc diễn cảm, còn đối với các văn bản khác thì chỉ hướng dẫn luyện đọc lại. Đồng thời, trong thực tế, không phải giáo viên nào cũng biết đọc diễn cảm nên giọng đọc mẫu của giáo viên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, nó không những giúp các em cảm nhận được ngay từ đầu cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà còn tạo hứng thú trong suốt giờ học của các em. Chính vì thế, khi dạy, tôi yêu cầu các em xác định bài đọc đó có phải là văn bản nghệ thuật hay không? Còn khi tiến hành đọc diễn cảm, tôi luôn nhắc các em phải biết thể hiện rõ ngữ điệu, trường độ, cao độ của giọng đọc trong từng bài. Đối với mỗi bài đọc, tôi luôn khuyến khích các em tự trình bày giọng đọc hay nhất thông qua ngữ điệu, độ to nhỏ, trầm bổng hay nhanh chậm của âm thanh, câu, từ. Vì thế, sau khi các em tìm hiểu bài xong, tôi đã tiến hành luyện đọc diễn cảm cho các em theo quy trình : + Đọc nối tiếp từng đoạn trong bài. 7 + Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (thường là những đoạn tiêu biểu và khó đọc nhất trong bài đọc) + Đọc mẫu (giáo viên hoặc học sinh giỏi) + Yêu cầu học sinh nêu giọng đọc phù hợp cho đoạn trên. + Luyện đọc diễn cảm theo nhóm. + Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp. Với quy trình trên, tôi thường giao việc cụ thể cho từng đối tượng HS như sau : - Với các em thuộc đối tượng 1 (những HS đọc hay): Tự đọc để phát hiện cách đọc; nêu giọng đọc phù hợp nhất và tiến hành đọc diễn cảm đoạn đó. - Với các em thuộc đối tượng 2 (những HS đọc đúng): Nêu chỗ ngắt nghỉ giọng cho câu văn (đặc biệt trong câu văn dài) hay nhịp điệu của dòng thơ, câu thơ ; nêu các từ ngữ cần nhấn giọng để bước đầu biết đọc diễn cảm. - Với các em thuộc đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát, còn chậm): Đọc đúng các từ ngữ thường phát âm sai, nêu được một số từ ngữ cần nhấn giọng để luyện đọc trôi chảy (trường hợp này chỉ dừng lại ở luyện đọc đúng, không yêu cầu đọc diễn cảm). Trong quá trình soạn bài, tôi đã phân loại các văn bản nghê thuật trong chương trình Tập đọc lớp 4 thành 3 thể loại cơ bản sau :Văn xuôi; Thơ và Truyện - kịch. Ở mỗi thể loại, tôi hướng dẫn cách đọc diễn cảm khác nhau. * Đối với thơ Ngoài sắc thái giọng đọc và cách nhấn giọng, tôi thường hướng dẫn các em biết lựa chọn nhịp điệu cho từng dòng thơ, câu thơ trong các khổ thơ. Tuỳ theo nội dung của từng bài để tôi hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Ngoài việc chọn một đoạn tiêu biểu để hướng dẫn các em đọc diễn cảm, tôi còn cho các em tự chọn và luyện đọc đoạn thơ mà các em yêu thích để tạo hứng thú, sự thoải mái và tránh bị gò ép khi học tập ; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học sinh. Khi hướng dẫn đọc thơ,hướng dẫn ngắt nhịp phải tính đến nghĩa, chứ không đọc theo áp lực của nhạc thơ. Nếu không lưu ý về nghĩa thì sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân đối về mă ât âm thanh khi đọc từng câu thơ. Với thơ 4 tiếng, thường ngắt nhịp 2/2, với thơ 5 tiếng ngắt nhịp 2/3 hoă âc 3/2, thơ 7 tiếng ngắt nhịp 3/4 hoă âc 4/3, thơ lục bát sẽ được ngắt nhịp chẵn 2/2/2 vì vâ ây sẽ dẫn đến ngắt nhịp sai do không hiểu nghĩa của từng dòng thơ đối với mô ât số dòng thơ cụ thể. Ví dụ chọn cách ngắt: 8 Bè đi/ chiều thầm thì Gỗ/ lượn đàn thong thả. ( Bè xuôi sông La –TV4) Mà không ngắt: Bè đi chiều/ thầm thì. Để tạo ra 3 că âp chủ – vị làm cho hai câu thơ sống đô nâ g hơn với nhiều đối tượng đựơc miêu tả, nhiều hoạt đô nâ g và không hạn chế thời gian “Bè đi” vào buổi chiều mà tạo sự kết hợp bất thường “chiều thầm thì”, cho thời gian cất lên thành lời. Cũng như vâ ây, ta chọn cách ngắt “Sông La/ ơi sông La” để “ơi” được ngân dài tha thiết, mà cách ngắt 3/2 không được hay như thế. Ví dụ: Dạy bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” (TV4- tập 2) Vì bài này độ dài của các đoạn gần bằng nhau nên sau khi tìm hiểu bài xong, tôi hỏi: + Bài thơ này có mấy đoạn ? + 2 đoạn - Gọi HS đọc nối tiếp bài thơ. - 2 HS đọc, mỗi em 1 đoạn. + Em thích nhất là đoạn nào ? Vì sao ? + 2- 3 HS nêu kết hợp giải thích. - Tổ chức luyện đọc diễn cảm. ( nhắc HS chú ý chỗ nhấn giọng, nhịp - Đọc diễn cảm đoạn đã chọn theo một trong các hình thức sau : . Đọc cá nhân. thơ, giọng đọc phù hợp với đoạn đã chọn) . Đọc theo nhóm ngẫu nhiên trong tổ. . Đọc theo nhóm ngẫu nhiên trong lớp - Tổ chức thi đọc diễn cảm kết hợp đọc + 2 HS (hoặc nhóm) thi đọc đoạn. thuộc lòng trước lớp. + 1- 2 em đọc thuộc lòng => NX, ghi điểm; Tuyên dương. * Dưới lớp bình chọn bạn đọc hay nhất. Cụ thể: " ...Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan/ đừng rời lưng mẹ Mẹ giã gạo/ mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng/ giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi/ má em nóng hổi Vai mẹ gầy/ nhấp nhô làm gối 9 Lưng đưa nôi/ và tim hát thành lời." * Đối với các bài thơ thuộc thể thơ tự do, nhịp thơ không ổn định nên tôi luôn nhắc các em phải dựa vào ý thơ giữa các dòng để ngắt đúng nhịp từng dòng thơ hoặc đọc theo cách vắt dòng (tức là đọc liền mạch với các dòng sau) * Đối với văn xuôi Hướng dẫn các em xác định về sắc thái giọng đọc, biết lựa chọn cách ngắt nghỉ giọng và nêu được những chỗ cần nhấn giọng phù hợp trong từng câu của đoạn. Tuỳ theo nội dung từng câu hay của cả đoạn để lựa chọn các yếu tố trên sao cho phù hợp, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh được giọng đọc của bản thân khi đọc. Ngoài việc khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, tôi còn cho các em tìm hiểu thêm về giá trị nghệ thuật trong đoạn cần đọc diễn cảm để các em dễ dàng tìm đúng giọng đọc cho đoạn đó. - Khi dạy đọc câu văn dài, cần hiểu rõ nô iâ dung để hướng dẫn ngắt, nghỉ, nhấn giọng, ngừng giọng, hạ giọng, lên giọng, kéo dài giọng thể hiê ân tình cảm của bài. Ví dụ thể hiê ân sự hồi hô pâ , căng thẳng:“ Bỗng/ từ trên cây cao gần đó/ mô ôt con sẻ già có bô ô ức đen nhánh lao xuống như hòn đá/ rơi trước mõm con chó.” (Con sẻ – TV4) Thể hiê ân giọng ngạc nhiên thán phục: “Ôi chao !/ Chú chuồn chuồn nước/ mới đẹp làm sao !”. ( Con chuồn chuồn nước – TV4 Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa học trò” ( Tiếng Việt 4 - tập 2, trang 43) Ở bước tìm hiểu bài, tôi đặt các câu hỏi: + Vẻ đẹp của hoa phượng có gì đặc biệt? (câu hỏi 2 SGK) + Màu hoa phượng thay đôi như thế nào theo thời gian? (câu hỏi 3 SGK) Sau đó, tôi mới đặt câu hỏi: Tại sao tác giả lại gọi hoa phượng là “hoa học trò” (câu hỏi 1 SGK). Tiếp đó, tôi nêu thêm một số câu hỏi dành cho HS khá, giỏi giúp các em tìm hiểu về giá trị nghệ thuật có trong đoạn đầu để thấy hết vẻ đẹp đặc biệt của hoa phượng. + Đoạn đầu, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả vẻ đẹp của hoa phượng? ( so sánh, điệp ngữ) + Hãy nêu những hình ảnh so sánh (So sánh là những tán hoa lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau) 10 + Tác giả sử dụng điệp ngữ nào? (Điệp ngữ: không phải, cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực) + Những biện pháp đó có tác dụng gì? (giúp người đọc hình dung và nhấn mạnh rõ hơn vẻ đẹp của cả chùm hoa phượng, cả cây phượng) + Để nhấn mạnh được vẻ đẹp ấy, đoạn này, ta cần đọc như thế nào? (giọng nhẹ nhàng, nhấn giọng những từ được dùng một cách ấn tượng để tả vẻ đẹp của hoa phượng: không phải, cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực, muôn ngàn con bướm thắm) Tôi chọn đoạn 1 để hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Tôi tiến hành như sau : - Gọi 3 HS đọc nối tiếp toàn bài văn. - 3 HS đọc nối tiếp ; Cả lớp đọc thầm - Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (đoạn - 1 HS đọc to (HS khá, giỏi); Lớp theo dõi. 1) Treo bảng phụ và gọi HS đọc mẫu. + Để đọc hay đoạn này, em cần đọc - Nêu các từ cần nhấn giọng, chỗ ngắt với giọng như thế nào ? hơi sau các cụm từ (ĐT2 + 3) ; nêu -Thống nhất giọng đọc cho đoạn này : giọng đọc phù hợp nhất cho đoạn (ĐT1). đọc với giọng nhẹ nhàng, cảm hứng ca ngợi và nhấn giọng các từ gợi tả, - Chú ý lắng nghe. gợi cảm. (có thể đọc mẫu lại ) - Luyện đọc diễn cảm theo nhóm - Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp Nhận xét, ghi điểm;Tuyên dương HS. - Đọc theo nhóm đôi (2’) - 3- 4 HS thi đọc ( theo từng cặp cùng nhóm đối tượng đọc); Dưới lớp nhận xét và bình chọn bạn đọc hay nhất Cụ thể đoạn này đọc như sau : Phượng không phải một đoá, không phải vài cành; phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chi là một phần tử của cả xã hội thắm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến n ững tán hoa lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm/ đậu khít nhau * Đối với truyện- kịch 11 - Với thể loại này, khi hướng dẫn đọc diễn cảm thì trước hết tôi giúp các em phân biệt rõ giữa lời kể và lời các nhân vật, giữa lời các nhân vật với nhau; phân biệt nhân vật chính - phụ để các em thể hiện tốt lời nói, ngữ điệu theo từng tuyến nhân vật nhằm tăng giá trị biểu cảm của tác phẩm. Đồng thời, tổ chức đọc diễn cảm theo cách phân vai kết hợp với sự phụ trợ của nét mặt, ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ,…cho từng nhân vật. Vì vậy, trong quá trình rèn đọc, tôi yêu cầu các em nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm, nhận biết được tính cách của từng nhân vật,…để xác định giọng đọc phù hợp với từng nhân vật trong câu chuyện hay đoạn kịch. - Khi tổ chức đọc diễn cảm loại bài này, tôi đã kết hợp gọi cả ba đối tượng học sinh cùng tham gia đọc, như: + Đối tượng 1 và 2 (những HS đọc đúng, đọc hay) : các em nhập vai những nhân vật có tính cách mạnh mẽ ; vai người dẫn chuyện hay những vai có lời thoại dài, cần thể hiện nhiều cảm xúc. + Đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát và còn chậm): các em nhập vai một số nhân vật có tính cách trầm, nhẹ nhàng hoặc những vai có lời thoại ngắn, đơn giản nhằm tạo hứng thú học tập cho các em và giúp các em có cơ hội được bộc lộ, từ đó các em sẽ cố gắng rèn đọc dần dần ở những bài sau. Ví dụ: Dạy bài “Người ăn xin” (Tiếng Việt 4- tập 1) * Luyện đọc : - Tổ chức cho các em đọc nối tiếp từng đoạn hay toàn bộ đoạn kịch theo phân vai. Khi các em đọc lời đối thoại các nhân vật trong đoạn kịch thì tôi nhắc các em cần phải: + Phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động của nhân vật. + Thể hiện đúng tình cảm, thái độ của các nhân vật qua lời nói và tình huống truyện. - Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với nội dung từng đoạn. (Đoạn kể và tả hình dáng của ông lão ăn xin đọc với giọng chậm rãi, thương cảm). Nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm. - Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với từng nhân vật. Cụ thể : Lời cậu bé: giọng xót thương ông lão Lời ông lão : xúc động trước tình cảm chân thành của cậu bé 12 - Hướng dẫn các em cách đọc diễn cảm đoạn kịch theo phân vai. * Đọc diễn cảm : + Đọc từng đoạn - 3 HS đọc nối tiếp đọc 3 đoạn của bài + Đọc diễn cảm đoạn : - HS luyện đọc diễn cảm theo cách phân "Tôi chẳng biết làm cách nào… nhận vai được chút gì cuả ông lão." ( 2 nhóm thực hiện ) Lớp NX và bình chọn nhóm thể hiện hay nhất => NX, ghi điểm; Tuyên dương. * Bài: " Khuất phục tên cướp biển" Trong bài đọc có hai nhân vật chính là bác sĩ Ly - một người nhân hậu, điềm đạm nhưng nghiêm nghị, cương quyết và tên cướp biển - tên chúa tàu hung hãn, dữ tợn. Trước khi HS đọc diễn cảm tôi yêu cầu các em tìm hiểu kĩ bài để thể hiện giọng của nhân vật thông qua tính cách. Trong bài cùng là câu hỏi nhưng trong đoạn đối thoại sau, tính cách của hai nhân vật thể hiện khác nhau hoàn toàn. "... Chúa tàu trừng mắt nhìn bác sĩ, quát: - Có câm mồm không? ( giọng đọc thể hiện sự hung hãn của tên cướp biển khi đập tay xuống bàn quát bác sĩ Ly) Bác sĩ điềm tĩnh hỏi: - Anh bảo tôi phải không? ( giọng tự tin, điềm tĩnh nhưng hết sức nghiêm nghị ) Khi tên chúa tàu cục cằn bảo /phải/, bác sĩ nói: - Anh cứ uống rượu mãi như thế thì đến phải tống anh đi nơi khác. Cơn giận của tên cướp thật dữ dội. Hắn đứng phắt dậy, rút soạt dao ra, lăm lăm chực đâm. Bác sĩ Ly vẫn dõng dạc và quả quyết: - Nếu anh không cất dao, tôi quyết làm cho anh bị treo cổ trong phiên tòa sắp tới. ( giọng bình tĩnh, cương quyết ) 13 Cũng theo như qui trình của luyện đọc diễn cảm tôi hướng dẫn các em đọc phân vai theo nhóm - mỗi tổ cử 1 nhóm để thể hiện lai câu chuyện - Cuối cùng là HS tự bình chọn tìm ra nhóm thể hiện giọng phù hợp nhất. Như vậy, để rèn cho các em đọc diễn cảm có hiệu quả, trong các giờ Tập đọc tôi luôn cho các em xác định bài đọc đó thuộc thể loại nào, từ đó các em sẽ định dạng cho mình về cách thể hiện cảm xúc đối với bài đọc đó một cách tốt nhất, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho các em. Hơn nữa, vì thời gian luyện đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc rất ít nên để đáp ứng cho nhiều đối tượng học sinh được đọc diễn cảm, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em luyện đọc thêm các tiết học buổi chiều. 1.1.4. Tổ chức các hình thức rèn đọc diễn cảm cho học sinh. Trong quá trình lên lớp, để giúp các em luyện đọc diễn cảm có hiệu quả, đảm bảo thời gian và tạo cho tất cả các em đều có cơ hội bộc lộ khả năng của chính mình, tôi đã thường xuyên tổ chức các hình thức đọc diễn cảm khác nhau. Và tuỳ theo từng bài, từng thể loại để tổ chức cho các em đọc diễn cảm một đoạn hay cả bài. Cụ thể : * Văn xuôi và thơ : - Đối với những bài mà giữa các đoạn có độ dài, độ khó tương đương nhau thì tôi cho các em tự chọn đoạn theo ý thích để luyện đọc diễn cảm. Trong quá trình luyện đọc, tôi thường tổ chức hình thức đọc cá nhân hoặc đọc theo nhóm ngẫu nhiên có cùng đoạn đọc. - Đối với các bài có đoạn dễ - đoạn khó; đoạn ngắn - đoạn dài thì tôi ấn định đoạn cần luyện đọc diễn cảm cho các em (thường là đoạn tiêu biểu nhất trong bài). Trường hợp này tôi thường tổ chức các hình thức đọc giống như quy trình nêu trên, gồm : cá nhân đọc mẫu, đọc theo nhóm đôi, thi đọc trước lớp. Nếu em học sinh đó đọc mẫu chưa đạt yêu cầu thì tôi sẽ đọc lại đoạn đó để định hướng cho tất cả các em có giọng đọc đúng và phù hợp với đoạn trên. * Truyện - Kịch : Nếu nội dung của câu chuyện, đoạn kịch đó ngắn thì tôi hướng dẫn các em luyện đọc cả bài. Ngược lại câu chuyện, đoạn kịch đó dài thì tôi chọn đoạn có lời thoại hay, nhiều câu văn dài, khó để hướng dẫn các em đọc diễn cảm và tổ chức hình thức đọc theo phân vai. Tuy nhiên không phải bài tập đọc nào cũng tổ chức đọc diễn cảm sau khi các em đã luyện đọc đúng và tìm hiểu bài. Có những bài tôi đã định hướng cách đọc diễn cảm cho các em ngay ở phần luyện đọc đúng như bài “Ga-vrốt ngoài chiến lũy”,.... Qua các hình thức tổ chức trên nhằm phát huy tính độc lập (đọc cá nhân), tính hợp tác (đọc 14 theo nhóm, đọc theo phân vai) và tính thi đua (thi đọc trước lớp) trong học sinh ; đồng thời giúp tôi phân loại các đối tượng đọc một cách dễ dàng, từ đó tôi tiếp tục có kế hoạch bồi dưỡng, giúp các em học ngày càng tiến bộ nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm nói riêng và chất lượng giảng dạy nói chung. 1.2. Ngoài giờ tập đọc: 1.2.1: Bồi dưỡng năng lực trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn. - Ngoài việc rèn đọc diễn cảm trong các giờ Tập đọc, tôi còn chú ý rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong các giờ học Lịch sử, Địa lý, Đạo đức, để các em biết cách đọc các loại văn bản nghệ thuật khác nhau. Ví dụ: Những bài Lịch sử kể về chiến công của ông cha ta thì đọc với giọng phấn khởi tự hào. Như bài: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng. Những bài Lịch sử kể lại diễn biến của các cuộc Khởi nghĩa như bài: Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lợc lần thứ nhất; Quang Trung đại phá quân Thanh, học sinh cần đọc với giọng mạnh mẽ thể hiện khí thế tiến công của quân và dân ta. Môn Địa lí đặc biệt những bài có nhiều số liệu cần đọc to, rõ ràng, nhấn mạnh ở những số liệu quan trọng.... - Trong buổi học thứ hai ( buổi học phụ đạo ) tôi thường dành một ít thời gian để đọc cho các em nghe một bài thơ, bài văn hay hoặc hướng dẫn cho các em rèn đọc thêm các bài văn, thơ từ vở Thực hành lớp 4. - Tôi đã phân loại chất lượng đọc của từng em, dành thời gian giúp đỡ, hướng dẫn các em cách đọc đúmg, đọc diễn cảm. - Tổ chức cho học sinh thi đọc trước lớp để các em tự đánh giá, cùng chọn ra bạn có sự tiến bộ để động viên, tuyên dương, làm gương cho cả lớp noi theo. Ngoài việc học trên lớp, tôi thường phát động học sinh mỗi tuần phải đọc một bài thơ hay một câu chuyện ở báo thiếu niên, để đến giờ sinh hoạt có thể đọc thơ hoặc kể chuyện cho cả lớp cùng nghe, tuyên dương những em học sinh có giọng đọc hay, kể chuyện hấp dẫn. 1.2.2: Tích lũy vốn hiểu biết từ cuộc sống và văn học. 15 - Khi đọc sách không chỉ đọc to, lưu loát mà còn phải diễn cảm một bài thơ, một đoạn văn, phải chăm chú quan sát, lắng nghe để tìm ra cái âm thanh của sự vật, cái đẹp của thiên nhiên và cuộc sống quanh ta. - Khi nói - viết phải thành câu, đủ ý, tập dùng từ ngữ đúng và nói hay, làm cho ý,câu rõ và sinh động hơn. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong cảm thụ văn học, chính vì thế trong quá trình dạy các môn Luyện từ - câu, Tập làm văn, các tiết sinh hoạt tập thể,...tôi luôn chú ý sưa sai, nhắc nhở kịp thời khi các em viết, đọc, giao tiếp với mọi ngưới xung quanh. - Tập cho học sinh diễn đạt thành văn xuôi từ bài thơ, thành bài hát từ bài thơ,...( như bài Nàng tiên ốc; Khúc hát ru,...) đẻ các em bộc lộ cảm xúc của bản thân qua cảm thụ của chính mình. Ngoài ra để thể hiện tốt một tác phẩm qua giọng đọc khi đọc cần phải có phương pháp và thái độ đọc đúng đắn - khi đọc cần tập trung tư tưởng cao, luôn suy nghĩ về những diều đang đọc - mới thấy được cái hay cái đẹp trong tác phẩm ấy. * Một số vấn đề giáo viên cần lưu ý khi rèn đọc diễn cảm cho học sinh: - Khi giao tiếp với học sinh người giáo viên Tiểu học luôn có thái đô â nâng đỡ, khích lê â, thông cảm, luôn luôn nhấn mạnh vào thành công của trẻ. Có khả năng biết kiềm chế khả năng đồng cảm với học sinh, khả năng làm viê âc kiên trì, tỉ mỉ, có khả năng biết tổ chức quá trình dạy học kết hợp với vui chơi. - Người giáo viên Tiểu học phải nắm được đă âc điểm của học sinh, hình dung thấy những khó khăn của các em khi học đọc để bình tĩnh trước những sai sót của các em khi đọc, không ca thán trước lỗi phát âm, những cách hiểu sai trong khi đọc, những lỗi tưởng như lạ lùng với người lớn nhưng lại là bình thường ở trẻ em. - Giáo viên cần chú ý luyê ân tâ pâ để có ngôn ngữ chuẩn, trong sáng, dễ hiểu, truyền cảm. Người thầy phải đọc được bài tâ pâ đọc đúng với giọng cần thiết, đúng với ý của văn bản nghĩa là phải tạo được hình mẫu đọc lí tưởng cho học sinh theo. - Khi dạy hiểu văn chương, giáo viên cần tôn trọng những cảm xúc, cảm nhâ nâ , suy nghĩ tuy còn thơ ngây, non nớt, nhưng rất riêng của học sinh, không gò ép các em hiểu theo cách duy nhất hoă âc nói theo lời lẽ của giáo viên. Tôn trọng cái riêng của học sinh trong giờ học, nên có những bài tâ pâ yêu cầu học sinh nêu những từ ngữ, hình ảnh, tình tiết mà mình thích nhất và cho các em tâ âp lý giải vì sao mình lại thích những từ ngữ, hình ảnh, tình tiết đó. Nên đưa ra các câu hỏi hay bài tâ âp có tính phản hồi, các câu hỏi “ Vì sao? Tại sao? “ để đánh giá cũng như kích thích sự suy nghĩ của học sinh. 16 - Giáo viên cần có khả năng tự xác định mục tiêu, nô âi dung dạy đọc, tự cảm nhâ nâ bài đọc, từ đó mới chủ đô nâ g tiến hành bài dạy để đạt được kết quả tốt của giờ học. - Để nâng cao chất lượng giờ dạy tâ pâ đọc cần tâ ân dụng không gian lớp học, sử dụng, các phương tiê ân dạy học như đồ dùng trực quan, các phiếu học tâ pâ , các băng hình, băng tiếng ... Vâ ân dụng đồng bô â các hình thức tổ chức dạy học như dạy học cá nhân, theo nhóm, tổ chức trò chơi,.. * Tóm lại: Để học sinh diễn cảm tốt một văn bản thì giáo viên phải thực hiện tốt khâu tìm hiểu nội dung văn bản đó thì việc rèn đọc diễn cảm mới đạt hiệu quả cao. 2. Khả năng áp dụng: 2.1. Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm có hiệu quả. Đề tài này tôi đã xây dựng, thử nghiệm qua nhiều năm giảng dạy và hoàn thành xong đề tài vào đầu năm học 2013 – 2014. 2.2. Có khả năng thay thế giải pháp hiện có. Với quá trình nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn giảng dạy, tôi thấy đây là một giải pháp có hiệu quả cao trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4. Kết quả đọc diễn cảm của học sinh bước đầu được nâng cao cả về chất lượng và số lượng. Khi các em hiểu được nội dung văn bản sẽ phát hiện cái hay, cái đẹp qua từng đoạn, từng bài của nhiều tác phẩm khác nhau, từ đó sẽ tạo cho học sinh thói quen tự tìm hiểu bài, tự tích lũy vốn kiến thức văn học và có thể trình bày tốt một bài viết cảm thụ ở một số câu thành ngữ, tục ngữ cũng như một đoạn văn ngắn. Qua đó, tôi thấy đây là việc làm thiết thực và hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng học tập toàn diện cho học sinh. 2.3. Khả năng áp dụng ở đơn vị hoặc trong ngành. Với giải pháp này có thể áp dụng đại trà trong nhà trường tôi đang công tác và các trường tiểu học khác. 3. Lợi ích kinh tế - xã hội 17 3.1. Lợi ích đến quá trình giáo dục, công tác Khi thực hiện các giải pháp này góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh về môn Tiếng Việt, ở phần kiểm tra kết quả giúp học sinh khẳng định thêm sự tin tưởng của mình vào bài làm. Việc vận dụng nó một cách thường xuyên đã rèn luyện cho học sinh óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ,...Trẻ có khả năng sử dụng, tiếp thu các nguồn thông tin một cách nhanh chóng để cùng giao tiếp và học tập... Giải pháp này tác động mạnh mẽ trong giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương,... gây hứng thú trong việc học nhất là đối với các em khá giỏi và nhạy bén. 3.2. Chất lượng, hiệu quả giáo dục : * Điểm Đọc: Qua khảo sát 27 học sinh của lớp 4C năm học 2013-2014. Kết quả cụ thể: ĐIỂM ĐỌC Giỏi SL KSCL Đầu năm Khá % 0 T. Bình Yếu SL % SL % SL % 7 25.9 14 51,9 6 22,2 Giữa HK I 5 18,5 16 59,3 6 22,2 0 Cuối HK I 11 40,7 13 48,1 3 11,1 0 Giữa HK II Cả năm Kết quả cho thấy các giải pháp trên rất phù hợp với học sinh, giúp các em có cảm thụ sâu sắc hơn nội dung bài và có thói quen chuẩn bị bài tốt trước khi đến lớp. C: KẾT LUÂÂN 1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp. 18 Qua nghiên cứu, thực hành dạy đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc cho học sinh lớp 4 theo chương trình và sách giáo khoa mới tôi nhận thấy: Để có một giờ dạy Tập đọc nói chung và phần Rèn đọc diễn cảm nói riêng được “ Nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả ”, theo tôi mỗi giáo viên chúng ta cần: - Phải đủ tự tin - Am hiểu đầy đủ nội dung kiến thức, kĩ năng của từng loại bài văn, bài thơ cần truyền thụ. - Biết kích thích, khêu gợi tư duy độc lập, phát huy hết năng lực tìm tàng của mỗi bản thân học sinh. - Trong từng tiết dạy người giáo viên phải có khả năng ứng xử sư phạm tốt, luôn tạo không khí sôi nổi thân mật giữa thầy và trò. - Không có con đường nào khác để dẫn đến giờ tập đọc cũng như việc Rèn đọc diễn cảm thành công là sự phấn đấu của bản thân, sự rèn luyện đầu tư nghiên cứu để thiết kế bài giảng có chất lượng, phù hợp với đối tượng của lớp mình. - Giáo viên thường xuyên quan tâm, uốn nắn để kĩ năng đọc – nói và trả lời của học sinh. Đánh giá, nhận xét và tuyên dương kịp thời để khích lệ việc học tập. Để từ đó, các em có lòng say mê hơn trong học tập. 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp. - Kết quả đọc hiểu của HS bước đầu được nâng cao cả về chất lượng và số lượng. Qua đó, tôi thấy đây là việc làm thiết thực và hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng học tập toàn diện cho học sinh. - Học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong giờ học. Các em có ý thức tự giác trong việc tự phát hiện, tìm tòi nội dung kiến thức mới. Mặt khác, các em còn thi đua đọc hay, đọc đúng và đọc hiểu để từ đó có điều kiện giao tiếp và học giao tiếp. Qua tìm tòi, nghiên cứu và vận dụng một số giải pháp Rèn đọc diễn cảm cho học sinh đã nêu trên, tôi thấy chất lượng đọc diễn cảm của các em ngày càng được nâng cao. Dạy cho học sinh đọc tốt, hiểu sâu người giáo viên sẽ tiếp thêm một phương tiện để các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương và cuộc sống. Từ đó vốn tri thức của các em giàu hơn và chính là nền tảng vững chắc để học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp trên. 3. Đề xuất, kiến nghị. 19 3.1. Đối với Phụ huynh: - Mua đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh. - Thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình, nhất là phần luyện đọc và soạn bài. 3.2. Đối với giáo viên: - Giáo viên phải chuẩn bị kĩ bài soạn trước khi lên lớp. Cần chú ý luyê ân tâ âp để có ngôn ngữ chuẩn, trong sáng, giọng đọc truyền cảm. - Hê â thống câu hỏi trong SGK cần bổ sung những câu hỏi mang tính chất phản hồi nhằm khắc sâu kiến thức, kích thích sự tìm tòi sáng tạo cho học sinh. - Làm tốt công tác bồi dưỡng giáo viên dưới nhiều hình thức, cung cấp tài liê âu, sách giáo khoa, sách tham khảo. 3.3. Đối với Nhà trường: - Tạo điều kiê ân tốt nhất về cơ sở vâ ât chất, thiết bị dạy học phục vụ cho hoạt đô nâ g day – học. -Tổ chức các buổi giao lưu, thi đọc hay, đọc diễn cảm để động viên phong trào rèn đọc cho học sinh. - Tổ chức hội thảo, chuyên đề trong tổ chuyên môn để phân tích thống nhất điều chỉnh phương pháp đổi mới cho phù hợp với nhận thức của học sinh trong trường. Trên đây là một vài kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc kết được trong suốt quá trình giảng dạy ở chương trình lớp 4. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của quý đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để tôi có thêm những kinh nghiệm cho chuyên môn cũng như phương pháp sư phạm giúp tôi phục vụ cho ngành được tốt hơn./. Bồng Sơn, ngày 2 tháng 3 năm 2014 Người viết Nguyễn Thị Thanh Thọ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất