Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả...

Tài liệu Skkn một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả

.DOC
27
1934
153

Mô tả:

MỤC LỤC Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………. 2 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… 2 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài……………………………………... 3 3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………. 3 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu……………………………………… 4 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 4 II. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………. 5 1. Cơ sở lý luận........................................................................................ 5 2.Thực trạng............................................................................................ 5 2.1 Thuận lợi- khó khăn........................................................................... 6 2.2 Thành công- hạn chế........................................................................... 7 2.3 Mặt mạnh- mặt yếu............................................................................. 8 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…............................................ 8 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra........ 9 3. Giải pháp, biện pháp.......................................................................... 10 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp...................................................... 10 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp....................... 10 3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp............................................ 20 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp......................................... 20 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu........... 21 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.......................................................................................................... 22 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ................................................... 22 1. Kết luận................................................................................................ 22 2. Kiến nghị.............................................................................................. 23 1 I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lý do chọn đề tài. Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng: “Cái hay bao giờ cũng được nảy sinh và tồn tại trên cơ sở của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất phát và là sự thể hiện ở cấp độ cao của chuẩn mực ngôn ngữ”. Các môn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các tri thức. Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về cái đúng còn phải vươn tới chuẩn mực của cái hay. Cái hay tạo nên sự khác biệt, dấu ấn của tác phẩm. Chất liệu để tạo nên cái hay của tác phẩm văn học chính là các hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể hiện trước hết ở năng lực sử dụng hệ thống ngôn ngữ sao cho có hiệu quả cao nhất. Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngôn ngữ, các quy tắc chính tả còn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi chính tả trong quá trình học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm. Như chúng ta đã biết chữ quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt Nam, gìn giữ và viết đúng chính tả là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và còn là trách nhiệm của mỗi người Việt yêu nước, yêu sự trong sáng của tiếng Việt. Thực trạng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của cộng đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Thế nhưng một thực trạng đáng buồn trong trường tôi hiện nay là có rất nhiều học sinh viết sai chính tả. Một bài văn của học sinh trung bình cũng như học sinh giỏi đều mắc lỗi chính tả. Đã không ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi không thể nào đọc được...”. Thậm chí một số học sinh không chú ý gì về lỗi chính tả khi làm bài, lâu ngày thành thói quen có hại khó sửa chữa được. 2 Là một giáo viên dạy Ngữ văn nên tôi rất quan tâm đến việc phát hiện lỗi chính tả trong nói và viết của học sinh và tìm nhiều giải pháp giúp các em khắc phục. Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả và đạt được những kết quả khả quan, muốn được chia sẻ với đồng nghiệp. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài này. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục tiêu: Căn cứ từ thực tiễn của việc dạy và học nói chung và việc học phân môn Ngữ văn nói riêng thì để đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết và người đọc hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ thống qui tắc về cách viết cho các từ của một ngôn ngữ. Vì vậy vấn đề rèn luyện để nâng cao chất lượng viết đúng chính tả là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người giáo viên. Chính vì lẽ đó tôi muốn đưa ra một số biện pháp để giúp các em giảm bớt lỗi chính tả, nắm chắc được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em không còn nhầm lẫn giữa các từ này với từ khác khi nói và viết. Từ thực trạng trên tôi mong muốn đề tài sẽ là giải pháp tối ưu nhằm giảm tối đa số học sinh viết sai lỗi chính tả trong quá trình học và thi cử, đồng thời tạo cho các em có lòng say mê học tập và làm việc có kế hoạch một cách cụ thể, có ý chí vượt khó vươn lên và tự tin trong học tập. 2.2. Nhiệm vụ: Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân các lỗi đó để tìm ra biện pháp khắc phục. Vận dụng nguyên tắc trong chính tả để hình thành kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh. Dạy học theo phương pháp đổi mới kết hợp với rèn chính tả trong quá trình hướng dẫn học sinh hoạt động theo nhóm. 3. Đối tượng nghiên cứu 3 Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Áp dụng đối với học sinh 6a1, 6a2, Trường THCS Lê Đình Chinh nhằm giúp các em hoàn thiện hơn về chữ viết đặc biệt là hạn chế về lỗi chính tả. Để thực hiện được ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tôi đã vạch ra một số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đề ra, tôi đã xây dựng nhóm phương pháp như sau: 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, tư liệu có liên quan đến đề tài. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp luyện tập thực hành: Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn. Chỉ có thông qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết đúng chính tả một cách có hiệu quả. - Phương pháp giao tiếp: Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có ý thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Phương pháp phân tích ngôn ngữ : Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn, tùy theo từng địa phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ hiểu, không sử dụng thuật ngữ khó hiểu đối với học sinh. - Phương pháp quan sát : Đây là phương pháp mà đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị một số đồ dùng học tập và một số câu hỏi nhằm giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu quả. - Phương pháp điều tra, thống kê kết quả: 4 Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng giai đoạn. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Nghe, nói, đọc, viết là bốn kỹ năng rất quan trọng đối với bộ môn Ngữ văn. Rèn nét chữ cho HS không chỉ là công việc ngày một ngày hai, cũng không phải một thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành công đối với các em. Mà đó là một quá trình nỗ lực tự bản thân học sinh cố gắng rèn luyện, có người hướng dẫn là các giáo viên dạy môn Ngữ văn, sự giám sát nhắc nhở của các thầy cô giáo bộ môn cùng phối hợp với phụ huynh của học sinh mới tạo nên sự thành công ấy. Tục ngữ xưa đã nói: “Nét chữ nết người”, công việc rèn nét chữ cho các em không phải kết quả thu được là vở sạch chữ đẹp mà còn rèn luyện đức tính kiên trì, nhẫn nại, không bỏ cuộc giữa chừng cho các em. Đó là đức tính mà mỗi con người muốn thành công không thể không có. Hơn thế nữa, một học sinh khi ra đời, làm bất cứ một công việc gì cũng cần đến công việc viết lách. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi công nghệ thông tin phát triển không ngừng các em có thể nói rằng chữ xấu thì có thể đánh máy, song không thể viết đúng nếu như các em không hiểu luật, và các quy tắc chính tả. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đi sâu vào vấn đề có thể xem là vấn nạn không chỉ ở học đường mà của toàn xã hội khi các biển quảng cáo, các bản tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng sai nhiều lỗi chính tả một cách ngớ ngẩn. 2. Thực trạng Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác. Trong thực tế, khi giảng dạy tôi đã phát hiện có những học sinh mắc sai lỗi chính tả rất nhiều, có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài kiểm tra. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi không hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Ngữ văn cũng 5 như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè nhút nhát. Do đó để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, người giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, nội dung để khai thác. Điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu đầu tư xây dựng phương pháp dạy và học, phân nhóm đối tượng học sinh nhằm giúp học sinh tích cực hoạt động học tập. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của môn Ngữ văn, xuất phát từ thực trạng dạy và học trong chương trình Ngữ văn 6, qua nghiên cứu khả năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề vì lí do đó tôi đã cố gắng thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi đến như vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6”. Với mong muốn nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy, đồng thời giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp. 2.1. Thuận lợi - khó khăn 2.1.1. Thuận lợi: - Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở tiểu học. - Sĩ số lớp vừa, không quá đông thuận lợi cho việc theo dõi quá trình rèn luyện của các em. - Nhà trường quan tâm sâu sắc trong việc chỉ đạo tạo điều kiện về chuyên môn, cũng như cơ sở vật chất. - Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ giáo viên trong quá trình nghiên cứu. - Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh. - Là một giáo viên, bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi, năng động trong công tác, nhiệt tình trong công việc, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2.1.2. Khó khăn: 6 - Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em cần phải có người nhắc nhở. - Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả. - Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em. - Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận không nhỏ học sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư duy trong khi nói và viết … - 100% học sinh là con em địa phương gốc Quảng Nam nên ảnh hưởng rất nhiều trong ngôn ngữ nói và viết. - Đây là năm đầu tiên nhà trường thí điểm thực hiện mô hình trường học mới VNEN nên việc tổ chức và giảng dạy theo chương trình đổi mới còn gặp rất nhiều khó khăn. 2.2. Thành công - hạn chế 2.2.1. Thành công: Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp mà đã nêu trong đề tài và nhận thấy học sinh đã có những tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em đầu năm thường sai nhiều lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi; những em sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi... Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả bước đầu và việc “giúp học sinh khắc phục lỗi chính tả” là một quá trình lâu dài, song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình làm đã bước đầu mang lại hiệu quả khả quan. 2.2.2. Hạn chế: Do tỉ lệ học sinh đều là con em địa phương có gốc Quảng Nam nên việc sử dụng ngôn ngữ địa phương dường như chiếm 99%. Vì vậy mà việc phát âm như thế nào thì viết như thế ấy là điều không thể tránh khỏi. Nên tôi nghĩ rằng để khắc phục được lỗi chính tả cho học sinh không chỉ là ngày một, ngày hai mà đòi hỏi một quá trình tương đối dài. 7 2.3. Mặt mạnh - mặt yếu 2.3.1. Mặt mạnh: Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm hiểu và nắm bắt được những khó khăn và sai sót của các em khi viết chính tả rất thuận lợi. Việc tham dự các buổi hội thảo chuyên đề, hội giảng của trường, của Phòng giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu tìm tòi nâng cao kiến thức, kĩ năng thực hành sư phạm. Từ đó vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của HS. 2.3.2. Mặt yếu: Các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn luyện viết chính tả, khi viết các em còn lơ là, không tập trung vào bài viết, lâu ngày thành thói quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc viết hoa thì các em trả lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết hoa. Phụ huynh chưa thực sự quan tâm do mãi làm kinh tế nên ít quan tâm đến con em mình. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Như chúng ta đã biết tình trạng người Việt chúng ta, đặc biệt là học sinh trong nhà trường trong những năm gần đây, việc viết sai lỗi chính tả là rất nhiều cụ thể chúng ta có thể thấy trên sách, báo, cũng như trong các bài kiểm tra thi cử của học sinh, phần lớn người viết thường mắc vào những lỗi như lẫn lộn giữa các phụ âm đầu: phụ âm ch và tr, x và s, d và gi, g và gh, ng và ngh; các vần : au và ao, iu và iêu, ưu và ươu; các phụ âm cuối: t và c, ng và n, đặc biệt là lẫn lộn giữa các dấu thanh trong đó hai dấu mà học sinh mắc nhiều nhất là dấu hỏi và dấu ngã. Ngoài ra, học sinh còn mắc vào một lỗi nữa là viết hoa tùy tiện. Đó là một thực trạng đáng báo động và cần phải được xã hội và nhà trường quan tâm một cách thích đáng. Những lỗi chính tả mà học sinh mắc phải như nêu ở trên cũng có những nguyên nhân của nó. Tôi có thể liệt kê ra đây một số những nguyên nhân cơ bản sau: học sinh 8 không nắm được các quy tắc chính tả, do cách phát âm của người địa phương mà đa số là tiếng Quảng Nam dẫn đến một bộ phận học sinh phát âm như thế nào viết như thế đó, học sinh ít đọc, ít quan tâm tới sách báo, nhưng chủ yếu vẫn là học sinh thiếu ý thức rèn luyện trong khi viết. Ngoài những nguyên nhân trên tôi nhận thấy một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng dẫn đến việc sai chính tả của học sinh là do một bộ phận giáo viên còn thiếu quan tâm đến các lỗi chính tả của học sinh. Với tình hình như vậy, bản thân chúng ta là những giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn phải có trách nhiệm trước việc học sinh viết sai lỗi chính tả, vì vậy cần phải đưa ra những biện pháp, phương pháp để khắc phục tình trạng trên. Có như thế thì việc viết sai chính tả mới khắc phục, mới giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng mà còn là công cụ tư duy của một dân tộc nói chung và mỗi học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nói riêng. Ngôn ngữ đồng thời là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của một nên văn hóa dân tộc góp phần tạo nên và thể hiện ra bản sắc của nền văn hóa ấy. Hiện nay, vấn đề làm sao viết cho đúng tiếng Việt đang là vấn đề cần bàn luận trong nhà trường hiện nay. Không chỉ dừng lại ở học sinh cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông mà có thể nói là hầu như phần đa người Việt gần như phải chấp nhận “chung sống” vời tiếng Việt viết sai. Trong thực tế khi lỡ viết sai một câu tiếng Anh, tiếng Pháp, nhiều người cảm thấy bứt rứt, mang nặng mặc cảm đốt nát. Trong khi viết sai tiếng Việt, thậm chí sai một cách trầm trọng thì họ lại xem đó là chuyện bình thường và còn ngụy biện cho những cái sai của mình là phong cách hay là sự sáng tạo. Điều đó dẫn đến thói quen coi thường văn bản, xem nội dung đại khái quan trọng hơn ngôn ngữ. Việc viết sai tiếng Việt còn do ảnh hưởng của những thói quen, tập quán của từng vùng miền. Vì thế mà ngay trên chính quê hương của người Việt thì việc viết sai lỗi chính tả là điều không thể tránh khỏi. Từ thực trạng trên, đồng thời cũng xuất phát từ tình hình thực tế của Trường Trung học cơ sở Lê Đình Chinh nằm ngay ở trung tâm Xã Quảng Điền, đa số học sinh 9 là con em nông thôn nên việc sử dụng tiếng phổ thông trong quá trình học tập còn hạn chế, bởi từ nhỏ các em vốn sử dụng tiếng địa phương có gốc Quảng Nam thành thục nên khi nói thế nào các em viết thế ấy là điều không thể tránh khỏi. Chính vì thế bản thân tôi đã xác định việc giáo dục ý thức viết đúng chính tả là một trong những nhiệm vụ quan trọng được tiến hành có kế hoạch, chiến lược cụ thể để phát triển toàn diện học sinh về mọi mặt. Trước thềm nông thôn mới và đồng thời để xây dựng Trường THCS Lê Đình Chinh đạt chuẩn quốc gia thì việc giáo dục học sinh khắc phục lỗi chính tả cũng là việc làm hết sức cần thiết, có thể lồng ghép vào các tiết bộ môn sẽ tạo điều kiện để học sinh sửa chữa và rèn luyện về chữ viết tốt hơn. Đồng hành với những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết vấn đề này như thế nào để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất là điều mà những người làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công tác này không thể thiếu sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục Gia đình - Nhà trường Xã hội. 3. Giải pháp, biện pháp: 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của trường tôi hiện nay, tôi nhận thấy rằng nếu chỉ dùng sách giáo khoa, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các yêu cầu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sai lỗi chính tả ở học sinh THCS mà đặc biệt hơn là học sinh lớp 6. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh mắc phải, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các em nắm được các quy tắc chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em, hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc viết sai. Mặc dù đề tài này không có gì mới mẻ nhưng tôi mong rằng nó sẽ góp phần làm thay đổi kĩ năng của các em khi viết cũng như khi phát âm. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Như vậy, việc khắc phục, uốn nắn chữ viết cho học sinh thật là khó khăn mà còn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình không có những tiết luyện 10 viết, lại mỗi môn một thầy dạy cho nên không có thời gian để sửa và luyện chữ cho học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho nên việc luyện chữ viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cô giáo chúng ta. Vì thế người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ viết cho học sinh trong từng tiết học và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Để thực hiện được ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tôi đã vạch ra một số biện pháp nhằm giúp các em thay đổi thói quen viết sai lỗi, đồng thời giúp các em hình thành kĩ năng rèn chữ khi viết cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp. Cụ thể theo từng bước như sau: * Thống kê lỗi: Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau: - Về thanh điệu: Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao. Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành… - Về âm đầu: Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây: + c/k: Céo cờ… + g/gh: Con gẹ , gê sợ… + ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc… + ch/tr: Cây che, chiến chanh… + s/x: Cây xả , xa mạc… + v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ… 11 Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả - Về âm chính: Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây: + ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học… + ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ… + iu/êu/iêu: chìu chuộng, cây niu… + oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp… + ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm… + im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm… + ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp… + ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới… + ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác… + um/uôm: nhụm áo, ao chum… + ưi /ươi: trái bửi… + ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu - Về âm cuối: Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây: + an/ang: cây bàn, bàng bạc… + at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc… + ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin… + ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo… + ân/âng: hụt hẫn, nhà tần… 12 + ât/âc: nổi bậc, nhất lên… + ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển… + êt/êch: trắng bệt… + iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc… + ut/uc: chim cúc, bão lục… + uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm… + uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc… + ươn/ương: lươn bổng, sung sướn * Kiểm tra, phân loại: Vấn đề chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không chỉ là mối lo chung của mọi người làm nghề dạy học. Việc dùng vở luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết. Tôi đã dựa vào vở luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho các em. Đồng thời tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi. Năm học 2015-2016 tôi được phân công dạy lớp 6A1, 6A2 với tổng số học sinh là 70 em. Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm ba nhóm chính: Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp, rõ ràng, không sai lỗi chính tả hoặc có một hai lỗi không đáng kể (có 20 em chiếm 28,5 %). Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả (có 35 em chiếm 50%). Hầu hết trong nhóm này các em đều mắc phải một số lỗi cơ bản như chữ viết cẩu thả, tuỳ tiện, sai quy tắc chính tả và không hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm. Nhóm 3: Còn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ âm, không rõ chữ dẫn đến tình trạng không đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ (có 15 em chiếm 21,5%). Qua thống kê lỗi và phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ ghi chép của giáo viên. Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ thể và phù hợp với từng đối 13 tượng. Dựa vào vở luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết theo từng tuần và yêu cầu học sinh mua thêm một vở ô-li để luyện văn và luyện viết nhằm giúp các em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. Các vở này tôi kiểm tra một tháng một lần gồm hai bài (trong vở ô-li tôi đã ra đề về nhà cho các em làm). Đối với học sinh ở nhóm 1 không chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ viết mà còn chú ý đến nội dung, chất lượng của bài viết. Đối với số học sinh ở nhóm 2 tôi cho thêm một tháng một bài luyện viết và tập trung các em học một buổi trong một tháng để uốn nắn, sửa chữa chữ viết tỉ mỉ hơn đối với nhóm 1. Riêng nhóm 3 mỗi tuần tôi cho thêm một bài viết chính tả về nhà để học sinh rèn luyện thêm để sửa chữa tỉ mĩ hơn với nhóm 1 và 2. Đồng thời tôi đề nghị phụ huynh học sinh cần theo dõi hàng ngày về việc học tập của các em ở nhà để có các biện pháp kịp thời uốn nắn các em. * Các biện pháp thực hiện cụ thể: - Giới thiệu kiểu chữ: Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải cho các em nắm được kiểu chữ, dáng chữ cách viết thường cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã được học nhiều nhưng khi nghe vấn đề này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen tính cẩu thả và ít để tâm vào việc luyện chữ viết sao cho đẹp. Đầu tiên tôi giới thiệu cho các em về cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ đứng và kiểu chữ nghiêng. Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho thuận tay và hợp ý thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ đó không được tuỳ tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy sẽ làm xấu chữ viết. - Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả: Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như: 14 Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi… Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô… Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh ngã: - Trong + ấy = trỏng. - Trên + ấy = trển - Cô + ấy = cổ - Chị + ấy = chỉ - Anh + ấy = ảnh - Ông + ấy = ổng - Hôm + ấy = hổm - Bên + ấy = bển Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ: “Em Huyền mang nặng, ngã đau Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào” 15 Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại). Ví dụ: Bổng  Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…  Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…  Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ… Trầm:  Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã  Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…  Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo… + Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh… Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch… Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân. - Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh: 16 + Đối với học sinh: Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại đoạn văn đó trong thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để cùng phát hiện lỗi của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Trong buổi học này học sinh nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 học rất vất vả nhọc nhằn bởi lâu nay các em viết theo kiểu tuỳ hứng và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời trong buổi học đầu tiên này tôi kể cho các em nghe một số mẩu chuyện về tác hại của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả dẫn đến người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng bài kiểm tra kém… để các em thấy rõ tầm quan trọng của chữ viết. Từ đó các em có ý thức uốn nắn, sửa chữa và rèn luyện chữ viết của chính mình. Qua đó cho học sinh thấy “nét chữ là nết người” để các em phải cẩn thận tránh cẩu thả trong khi viết chữ. Vấn đề rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh trung học cơ sở chủ yếu là luyện ở nhà dưới sự hướng dẫn của thầy. Vì thế ngay trong kỳ họp phụ huynh đầu tiên của lớp, tôi trao đổi về tình hình chữ viết của học sinh cùng với ý định luyện chữ của tôi và đề xuất với họ một ngày dành chút ít thời gian quan tâm nhắc nhở các cháu học tập và luyện chữ, và việc luyện chữ phải luyện vào một thời gian nhất định có thời gian biểu rõ ràng cho các cháu. Việc làm này được tất cả các phụ huynh đồng tình ủng hộ. Trong buổi học thứ nhất, sau khi hướng dẫn và luyện viết một phần ở lớp, tôi giao bài cho các em viết vào vở luyện viết và vở luyện văn ở nhà để hôm sau thu chấm. Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau đó cho các em đổi bài cho nhau để chấm và kiểm tra lỗi chính tả của bạn. Riêng với các bạn nhóm 1 tôi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn và cách làm cũng như với nhóm 2 và nhóm 3 nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả nội dung đoạn văn. Cứ một tuần, các em chép một bài trong vở luyện viết mà tôi đề ra và cứ hai tuần cho các em làm một bài văn từ dễ đến khó. Đầu tiên là cho viết một đoạn văn và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tôi thu vở chấm một tháng hai lần. Riêng nhóm 3 tôi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia đình cùng với sự kiểm tra chặt chẽ của giáo viên. Sau một tháng đầu khi chấm bài và xem vở ghi bài của các em 17 tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài kiểm tra chất lượng đầu năm. Cụ thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ viết, giảm được sự cẩu thả tuỳ tiện trong khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong đó, số học sinh ở nhóm hai tôi đã chọn được năm em vào nhóm một. Số còn lại tuy viết đã có phần khá hơn song lỗi vẫn còn nhiều. Riêng nhóm 3 tiến triển rất chậm. Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ thế theo thói quen và quy định của tôi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh thuộc đối tượng ở nhóm hai, tôi vẫn yêu cầu các em học thêm một tháng một buổi, nhóm 3 mỗi tuần thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. Ngoài ra, đối với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài để củng cố kiến thức và ôn luyện về chữ viết. Muốn chữ viết của các em ngày càng tiến bộ thì điều chủ yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp thời, khen, chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết cho các em. Việc chấm chữa bài cho các em là một công việc rất vất vả vì đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì người giáo viên cần phân bố thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà tôi đã cố gắng thực hiện việc chấm chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các em luyện viết và làm bài, sửa lỗi nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Số học sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tôi rất mừng bởi những công sức mà cô và trò đã bỏ công luyện tập. Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “phải” và “cấm” như sau:  Phải: (1) Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét. (2) Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng. (3) Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng. 18  Cấm: (1) Viết hoa tuỳ tiện. (2) Viết thiếu nét nguệch ngoạc. Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ viết tôi đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn những bài lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi kiểm tra chặt chẽ việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ có hình thức phạt phù hợp. Chính vì vậy mà các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu luyện chữ, thể hiện ở chỗ chữ ít lỗi và rõ ràng hơn. Vì phần lớn các em đều rất ngại viết đi viết lại nhiều lần. Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức phạt phù hợp đối với những học sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em làm trên bảng, khi chữa bài bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể thiếu được việc chữa lỗi về chữ viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em nhận xét. Chữ viết của bạn đã đẹp và cẩn thận chưa? Bài làm có mắc lỗi nào không? Muốn sửa những lỗi đó, ta phải sửa bằng cách nào? Từ đó học sinh nhận thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho chính mình. + Đối với giáo viên: Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp nghĩa là: Phát âm chuẩn tiếng phổ thông vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ dẫn đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và phát âm chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào việc đọc và phát âm của các em, nếu em nào đọc sai tôi sẽ uốn nắn luôn. Cùng với việc làm đó, tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng địa phương các em hay mắc phải để chú ý sửa cho các em ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông đợi/ trông đợi; sâu đó/ sau đó; lông lanh/ long lanh…và chú trọng sửa những lỗi này để khi các em viết bài các em chú ý và có thể sửa được những lỗi mà mình mắc phải. Để rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ người giáo viên khi viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong các bài luyện tập tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu kiểm tra những lỗi của 19 bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận biết được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối cùng tôi thu bài viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết lại như lần trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng cách: Trong một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 yêu cầu sửa chữ thiếu nét mới yêu cầu sang lỗi khác… Việc này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả trong giờ học chính khoá trên lớp. Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa kết hợp luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa chữa cho phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh. 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Rèn cho học sinh viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu dài. Nó quyết định chất lượng học tập và tỉ lệ học sinh lên lớp cao hay thấp; nó không những giúp các em học tốt mà còn góp phần “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”. Mặt khác, học sinh viết đúng chính tả thì chắc chắn chữ viết cũng sẽ đẹp hơn; khi chấm bài, giáo viên sẽ có tâm lí thoải mái phấn chấn hơn. Nhưng nếu chỉ dùng các phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học thông thường; nếu chỉ cho học sinh làm các bài tập có sẵn trong SGK thì không thể khắc phục được lỗi chính tả ; đặc biệt là lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Tôi tin rằng mỗi thầy cô giáo sẽ có những cách làm khác nhau, sẽ có những kinh nghiệm rèn chính tả hiệu quả. Nhưng theo tôi, muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng chính tả thì cần phải: Giáo viên phải nắm được các quy tắc chính tả, phát âm chuẩn tiếng phổ thông, tìm hiểu rõ nguyên nhân sai lỗi chính tả của học sinh. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu và hiểu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để từ đó có những biện pháp thích hợp nhất giúp các em hạn chế tối đa lỗi chính tả. Tích cực tìm tòi, sáng tạo áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để áp dụng nội dung chuyên đề một cách phù hợp với khả năng của học sinh và tình hình thực tế ở trường, lớp. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan