SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC"
0
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn sáng kiến
1. Lý do khách quan
1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những thành
tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội nhập với thế giới của
Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách học và
phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Với xu thế thay đổi mô hình giáo
dục theo hướng hiện đại thì trường học phải thay đổi môi trường giáo dục. Mọi tài
nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung vào việc tạp lập một môi trường
học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại sẽ cung cấp tối
đa khả năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi giáo viên chỉ hướng
dẫn kĩ năng, phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông tin chính là cốt lõi của
phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt lõi trên, công nghệ thông
tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu.
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như công
dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính toàn cầu
(Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được. Chính vì vậy,
ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ thông tin &Truyền thông
(ICT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email mà
nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri thức
1
nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa nửa vòng
trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong đó cũng có gần
như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử
(elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các diễn đàn (forum), các mạng xã hội
(social network), các công dân điện tử (blogger),…
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ với
nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời sống và
công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát, có thể chia sẻ
các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc phụ huynh trên cả
nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các giáo viên có thể chia sẻ
các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên
khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các
mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học tập và thi cử.
Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến công
cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm
quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy
mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta
nói riêng - thế giới nói chung.
1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông tin
vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước
đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy,
học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo
2
dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất
lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có
sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công
cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm
thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học
tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin học vào
trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin học để làm
quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao
trong các cấp tiếp theo.
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra chủ
đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành
học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới
phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất
cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.
2. Lý do chủ quan
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công nghệ
thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhưng
tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích lợi của việc ứng
dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong việc ứng dụng CNTT
trong dạy học.
3
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục nhận
được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng hộ của
giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng vẫn còn gặp
nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả đúng với vai trò
của nó.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và
học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường
ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành. Mặc dù
hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn cao, tuy vậy
vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về phương pháp thuyết
trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là việc ứng ứng dụng CNTT
trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở các trường hầu hết thông qua
các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên, còn mang tính hình. Để thúc đẩy
việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý giáo dục tại các trường tiểu học, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện
pháp Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học”.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
4
1. Cơ sở pháp lý
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng dụng và
phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. Chỉ thị 29
nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một bước
chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy,
học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất
cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như một công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh:
Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay đến năm
2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông giai đoạn
2005 - 2010 của ngành.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng CNTT vào
giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”.
2. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT)
là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và
phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở
Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP
kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
5
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về CNTT
đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường học, áp
dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở thành hiện
thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng
giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một
nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước.
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để
chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn
chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các giáo viên
không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian
chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ
phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng
bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của phương pháp
multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo
án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả
gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng
thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự
6
với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ
nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá nhân
giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh
sinh động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy ứng dụng
CNTT. Một số tiết dạy có ứng dụng CNTT thì thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt
cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực. Còn một
số tiết dạy thì nội dung không nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên, chưa chắt lọc
được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc chưa biết khai thác
thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat, . . .
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu cầu.
Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó.
Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy tính
phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường được trang bị
một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lý hồ
sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm
năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn của công nghệ thông tin, mà
một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết
7
học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như: Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo
đức v.v...
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết
các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các lãnh đạo
trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo án
điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học sử
dụng Powerpoint, Violet,... thường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các cuộc
thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần mềm. Đa số các trường
học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy
bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất nhiều,
phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website đào tạo trực
tuyến, các phần mềm multimedia dạy học,... Trên thị trường có thể dễ dàng lựa chọn và
mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho đến luyện thi đại học.
Tuy nhiên, các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất nhiều cố gắng về mặt hình
thức và nội dung song sự giao tiếp giữa máy với người chắc chắn không thể bằng sự giao
tiếp giữa thầy với trò...
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các tiết
giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được hiệu quả,
vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây dựng rất lớn (vài
chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau được. Nó thậm chí còn có
thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ
cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy...
8
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT trong
dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy tính), và Elearning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết
bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ truyền tải
kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính
như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà giáo
viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có thể trao
đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình thức Elearning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học tập của
mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào d ạy v à
học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình th ức h ỗ tr ợ cho giáo viên, l ấy ng ười d ạy
làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên l à hình thức h ọc
hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là người hỗ trợ. Tuy
nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái ni ệm n ày, trong đó có không ít các
chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm trong đường h ướng ch ỉ đạo. Vì
vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và E-learning để có th ể
hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT
E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa Người học có thể học riêng rẽ, học ở
trên những hình thức cơ bản của một nhà hoặc ở nơi làm việc. E-learning
9
lớp học thông thường
khai thác được tối đa sức mạnh của thế
giới Internet: khả năng phổ biến rất
cao (có thể 1 bài giảng hàng triệu
người học), hay có khả năng cập nhật
các thông tin mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi
trang bị cho lớp học máy tính, máy lớp học phải là một phòng máy tính
chiếu và các thiết bị multimedia.
nối mạng Internet, mỗi học sinh và
giáo viên phải có máy tính riêng và
những phần mềm chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được
cả những thế mạnh của phương pháp Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài
dạy học truyền thống (dựa trên giao giảng điện tử, hầu như không có giao
tiếp thầy-trò) và khai thác được tiếp thầy trò.
những ưu thế của các công nghệ hiện
đại (ví dụ những bài giảng điện tử).
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, Phù hợp hơn với giáo dục Đại học,
vì là ở giáo dục phổ thông, giáo viên Sau đại học và những người đã đi làm.
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả
lại học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả
năng để làm chủ được quá trình học
tập của mình.
Đây là phương pháp mà các giáo Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
10
viên ở Việt Nam hay dùng phổ biến Việt Nam. Mới chỉ có một số trường
hiện nay như dùng Powerpoint, ĐH có hệ thống E-learning riêng như
Violet để thiết kế bài giảng và dạy ĐH Sư phạm HN, ĐH Xây dựng HN,
học dùng máy chiếu. Những kết quả ĐH Cần Thơ,...
thu được là rất đáng kể.
III. Một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học
1. Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ bản
nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường.
Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ biến
nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách
giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy đỡ vất vả
bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với cách soạn và giảng
bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
-
Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
-
Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán : Phần
mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, …..)
-
Biết cách truy cập Internet.
-
Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các ảnh
động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
-
Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
11
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công
nghệ
thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay không?
Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà các yêu cầu
khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được các yêu cầu trên
thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các bạn đồng nghiệp tự
thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử tưởng tượng xem nếu một
người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ có bật máy tính lên và chọn cho
mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ có biết được tài liệu của mình nằm
ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi
khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi không dùng nữa?..... Nghĩa là dù ít hay nhiều thì
cũng phải sử dụng được máy tính theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày
lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên màn
chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần mềm
PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003, hiện nay đã có PowerPoint
trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy tính. Ngoài ra có
các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ), GraphCalc (Toán), PhotoFrameShow
(xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) …..Nếu chỉ dừng ở mức độ soạn thảo
những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định dạng về màu sắc, font chữ tôi
nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ có làm như thế thì
chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007)
và cũng như một số phần mềm kể trên lúc đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của
phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ: với môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của
quân ta và địch, thay vì giáo viên thuật lại các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây
giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn
12
các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào…
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho bài
giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các hiệu ứng
đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh, ..) được thiết lập có
thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ hay hình ảnh kia,
hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng chữ hay hình ảnh xuất
hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên (GV) đưa ra bài toán trắc
nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay PowerPoint hay Violet sẽ làm
được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm
được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả năng tư duy của học sinh (HS).
Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị
đến đâu GV giảng đến đó, làm cho thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài
sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh họa. Có
thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình ảnh của các
vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên thế giới,……Nếu chỉ trình bày
xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy giáo án điện tử. Hiện tại những hình ảnh
minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối nhiều trên Internet mà
hiện tại nhà trường đều đã có mạng Internet , tôi nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ một chút thời
gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh, đoạn phim cần minh họa cho bài
giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên phải
biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin. Tuy nhiên không phải hình ảnh nào
cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó
13
ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sửa ảnh …. Nói tóm lại để có được một
GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là
một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với
Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ nét, độ lớn trên
màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ có một tiết học thoải
mái và sôi động.
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một không
khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe giảng và tư
duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người dạy phải có một
kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu PowrPoint để trình
bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ thuật đã được đề cập là các
phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế được vai trò chủ đạo của
người thầy trong giờ lên lớp.
2. Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài giảng
ứng dụng Công nghệ thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt ra là
việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng thế nào cho
đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng dụng
CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường mang một tư
tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày những gì mình nói và
14
viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế giáo viên
chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài.
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó) là
nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng. Tùy
theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa một cách
hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây
dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh
để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính
thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu ý về số lượng chữ, màu sắc,
kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muồn trình bày một cách
rõ ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ
không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm
thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên
có thể in ra một bảng để vừa giảng vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên. Chúng ta hãy
nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng là tất cả
nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ chứa văn bản,
hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng?
Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho
các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới ra trường có thể nhớ hết nội dung đã chuẩn
bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy thì vấn đề
trên sẽ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục kiến thức cần
trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày sau ? Vấn đề nào
trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó
15
GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày hết nội dung nhưng thời
gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp đề cương này cùng với việc trình bày trên
các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy này.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT
thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên
màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt
kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để
học sinh có thể quan sát được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án
trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình
diễn.
- Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập
trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ
màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi
dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
- Về Font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục có
vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn chế
dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
-
Về
cỡ
16
chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho nhiều
người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.
- Về trình bày nội dung trên nền hình:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái qua
phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường
là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Các
dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu
không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh
hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử
dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta mong muốn.
- Trình chiếu giáo án:
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong
mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích
hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà
nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau
đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ ghi nhớ hơn.
* Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu, nội
dung, tiến trình bài giảng.
- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính tích
cực của học sinh.
17
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định, có
tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu nhằm
phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi trường tương
tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
3. Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng
có ứng dụng Công nghệ thông tin
Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử dụng
bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu (projector),...
Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì
nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ,
mô hình,...) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video...). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử
được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng
một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng
tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển,
nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy
học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên,
không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy
- trò, chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều
hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển
tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
18
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết
dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học
truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách duy nhất
là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các bài giảng cho
riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành thạo một vài
công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm các tư liệu qua
mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét...
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng
trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình ảnh
động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh sửa được
các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên tập lại các đoạn
phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v... đặc biệt rất khó có
thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả những việc này đòi hỏi
phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt
được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT” khi
các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên giáo viên
thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ như sử dụng
Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần như đọc lại nội dung
đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu quả tiếp thu khi phải đồng
thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút vào những hiệu ứng chữ chạy
nhảy và âm thanh kèm theo.
19
- Xem thêm -