Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số biện pháp từng bước xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích c...

Tài liệu Skkn một số biện pháp từng bước xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực trong trường tiểu học

.DOC
13
99
76

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LỚP Ở TIỂU HỌC” Phần I: Lý do chọn đề tài Tập thể học sinh là môi trường quan trọng nhất của việc giáo dục học sinh. Vấn đề tập thể và cá nhân là một trong những vấn đề xã hội sắc nét nhất của thời đại hiện nay và là vấn đề quan trọng nhất của công tác giáo dục. Giáo dục tinh thần tập thể, xây dựng một tập thể lớp vững mạnh là nguyên tắc chủ đạo của người giáo viên chủ nhiệm. Bằng nguyên tắc này, người giáo viên phải xây dựng được cho học sinh ý thức, thói quen theo nguyên tắc: “Mọi người vì một người và một người vì mọi người”. Chính vì vậy, việc xây dựng ý thức tập thể, xây dựng một tập thể lớp là việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt đối với các em nhỏ lần đầu tiên đặt chân đến trường phổ thông. Nhiệm vụ của ngành giáo dục là đào tạo những con người phù hợp với sự phát triển của xã hội. Mẫu người mà xã hội yêu cầu chính là mục tiêu của giáo dục - đào tạo. Nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do đó “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với ý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Để thực hiện vai trò đó, công tác giáo dục học sinh không thể chỉ thông qua việc dạy học trên lớp mà còn phải tổ chức cho các em tham gia các hoạt động giáo dục, rèn luyện ý thức tập thể. Giờ sinh hoạt tập thể là một dạng hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đây là dịp thuận lợi để các em thực hiện các hoạt động và giao tiếp. Nhu cầu giao tiếp của học sinh tiểu học rất lớn. Nếu không đáp ứng được nhu cầu đó thì sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả giáo dục. Các nhà tâm lí học đã khẳng định rằng: “Nhân cách của trẻ được hình thành thông qua các hoạt động giao tiếp”. Do đó, cần tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động văn hoá xã hội, thể thao phù hợp với lứa tuổi và yêu cầu giáo dục toàn diện. Thông qua các hoạt động được tổ chức trong giờ sinh hoạt tập thể, các em thể hiện những hiểu biết, kinh nghiệm sống cũng như năng lực của bản thân mình trước tập thể lớp, vừa được tập thể đánh giá. Trẻ em lứa tuổi tiểu học vốn hồn nhiên, ní nhảnh, có tính tích cực hoạt động, có nhu cầu vui chơi, sống nhiều bằng tình cảm...Giờ sinh hoạt tập thể là khoảng thời gian thuận lợi để tổ chức các hoạt động bổ ích cho học sinh, trang bị cho học sinh một số nhận thức về tự quản, nâng cao kĩ năng tự quản trong các hoạt động tập thể. Đội ngũ cán bộ lớp được rèn luyện một số kĩ năng tự điều khiển các hoạt động tập thể như: biết bao quát lớp khi tiến hành các hoạt động, biết hướng dẫn lớp phát biểu ý kiến, biết tóm tắt ý kiến của tập thể. Tuy nhiên, nếu không kịp thời đổi mới, cải tiến nội dung các giờ sinh hoạt tập thể thì không động viên, khuyến khích được học sinh hoạt động tích cực, làm giảm hiệu quả của giờ sinh hoạt tập thể, giảm hứng thú hoạt động của học sinh... Phần II: Cơ sở khoa học và thực tiễn chọn đề tài Xuất phát từ đặc điểm tâm lí lứa tuổi lớp 1, suy nghĩ của các em còn non nớt, kinh nghiệm sống của các em ở trình độ thấp, ở học sinh lớp 1, tư duy cụ thể còn chiếm vai trò quan trọng, có tính hay bắt chước nên cung cấp cho học sinh những chuẩn mực đạo đức là viên gạch đầu tiên cho sự hình thành nhân cách người công dan, người chủ của ch tương lai. Từ những đặc điểm tấm sinh lí của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng cho ta thấy: mặc dù học sinh lớp 1 có nhu cầu hoạt động rất lớn và việc tổ chức các hoạt động bổ ích trong tập thể có tác dụng tốt cho việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ nhưng ở các em khả năng tự quản còn hạn chế. Các em tin vào bản thân nhưng niềm tin này còn mang tính cảm tính. Khả năng tự đánh giá của các em còn kém, điều này một phần là do kinh nghiệm sống của các em còn ít, các hoạt động các em tham gia bất cứ nhiệm vụ nào được giao mà không xem xét nhiệm vụ ấy có phù hợp với năng lực của bản thân hay không. Vì thế các em rất dễ gặp thất bại hoặc đạt hiệu quả chưa cao khi thực hiện các nhiệm vụ đó, từ đó các em dễ rơi vào trạng thái chán nản, bi quan, mất tinh thần. Hơn nữa trẻ có hứng thú cao với các hoạt động mới lạ nhưng hứng thú ấy lại không bền và chóng chán. Tình cảm của trẻ cũng dễ thay đổi, tính kiên trì khắc phục khó khăn của trẻ không cao. Vì vậy khi gặp khó khăn các em dễ chán nản, bỏ giữa chừng. Mặt khác, kĩ năng tự quản là một trong những kĩ năng cơ bản, cần thiết phải được hình thành ngay từ lớp 1. Từ đó sử dụng kĩ năng tự quản góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh và làm cơ sở để hình thành các kĩ năng khác, góp phần “Hình thành cho học sinh cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tổ chức trí tuệ, tổ chức các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học tập, bước vào cuộc sống lao động”. Đặc trưng cơ bản trong đời sống tình cảm của học sinh là các em rất dễ xúc động, tình cảm mang tính trực quan, cụ thể và giàu cảm xúc. Về tính cách, trẻ dễ có hành vi không chủ định, bột phát, và sống rất hồn nhiên. Hồn nhiên trong các quan hệ với người lớn, với thầy cô giáo, với bạn bè. Vì hồn nhiên nên các em rất cả tin: tin vào sách vở, tin vào người lớn và đặc biệt tin vào thầy cô giáo, tin vào khả năng bản thân. Tuy nhiên niềm tin này còn cảm tính, chưa có lí trí soi sáng. Về khả năng đánh giá và tự đánh giá: Học sinh lớp 1 tự đánh giá bản thân và đánh giá người khác còn mang nặng cảm tính, chưa biết căn cứ vào chuẩn để đánh giá. Học sinh thường coi thầy cô giáo là thần tượng, tự đánh giá mình và bạn bè dựa vào sự đánh giá của thầy cô giáo. Nhận thức của trẻ con còn cảm tính, khả năng phân tích tổng hợp chưa cao. Do đó khi đứng trước một nhiệm vụ nào đó, trẻ thường lúng túng trong việc xem xét đánh giá công việc một cách tổng thể để lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Trẻ có ít khả năng có thể lường trước các tình huống có thể xảy ra trong quá trình thực hiện vì còn thiếu trí tưởng tượng và kinh nghiệm. Từ những phân tích trên cho thấy: do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học nên kĩ năng tự quản lí các hoạt động tập thể của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng còn chưa phát triển toàn diện. Phần III: Biện pháp tiến hành Để làm tốt công trác xây dựng tập thể lớp, người giáo viên chủ nhiệm cần có quan niệm đúng đắn thế nào là tập thể , tập thể như thế nào thì có thể thực sự là phương tiện giáo dục học sinh tốt nhất. Chính vì vậy, mục tiêu của người giáo viên chủ nhiệm là phải xây dựng tập thể học sinh thành một tổ chức đặc biệt thống nhất, mọi người có tác dụng giáo dục đối với từng thành viên của tập thể lớp, không chỉ có mặt giáo dục về học tập mà còn bao gồm nhiều mặt, đặc biệt là việc hình thành các thói quen hành vi đạo đức tốt: mình vì mọi người. Là giáo viên chủ nhiệm lớp 1 nhiều năm, tôi nhận thấy các em học sinh lần đầu tiên tới trường con gặp nhiều bỡ ngỡ với mọi điều xảy ra xung quanh mình đặc biệt là các em chưa có ý thức sinh hoạt tập thể. Vì vậy người giáo viên cần có biện pháp thích hợp để hướng dẫn các em vào việc sinh hoạt tập thể. Biện pháp thứ nhất: Giáo viên đề ra yêu cầu Công tác chủ nhiệm của mỗi giáo viên đều bắt đàu từ những yêu cầu do giáo viên đề xuất. Việc đè xuất yêu cầu của mình đối việc hình thành tập thể lớp có ý nghĩa đặc biệt to lớn vì kết quả toàn bộ công tác sau này của người giáo viên sẽ phụ thuộc nhiều vào cuộc gặp mặt đầu năm giữa thầy và trò, với những yêu cầu có tính quyết định đối với học sinh. Muốn cho học sinh thực hiện những yêu cầu của minh, tôi phải chuẩn bị rất chu đáo, suy nghĩ kĩ càng để đề ra yêu cầu thật tuyệt đối và cương quyết định đối với học sinh. Muốn cho học sinh thực hiện những yêu cầu của mình. tôi phải chuẩn bị rất chu đáo, suy nghĩ kĩ càng để đề ra yêu cầu thật tuyệt đối và cương quyết nhưng phải là những yêu cầu vừa sức, hợp lí mà học sinh dễ dàng tiếp thu. Ví dụ: Tôi yêu cầu các em ở buổi đầu gặp mặt, hãy giới thiệu sơ qua về bản thân và gia đình, tự tìm ra một số bạn trong lớp gần nhà mình và hãy đến chơi với bạn. Đưa ra yêu cầu này (thời hạn 1 tuần), bước đầu tôi hình thành cho học sinh ý thức luôn quan tâm đến các bạn và công việc của những người thân trong gia đình. Tuy nhiên, khi đưa ra biện pháp này không phải 100% học sinh thực hiện tốt mà còn một số em chưa thực hiện được vì các lí do như: quá nhút nhát chưa dám trình bày ý kiến của bản thân trước cô và các bạn, hay trong gia đình có những điều mà các em mặc cảm như: bố, mẹ li dị, bố nghiện hút...hoặc gia đình nghèo, bố mẹ không làm to như bố mẹ các bạn khác, hoặc có những trường hợp bố mẹ không cho chơi với các bạn cùng xóm nên việc thực hiện biện pháp này có những khó khăn nhất định. Để khắc phục những khó khăn trên, tôi đã gần gũi động viên các cháu nhút nhát, tìm hiểu gia đình, hoàn cảnh các cháu thông qua bố mẹ các cháu để cùng họ động viên các cháu tập nói tại nhà, sau đó đến lớp tôi động viên các cháu mạnh dạn nói về mối quan hệ các thành viên trong gia đình, các mối quan hệ bạn bè, những suy nghĩ của các cháu về lớp. Tôi còn giao nhiệm vụ cho các cháu cạnh nhà sang chơi, giúp bạn tập giới thiệu về mình và có thể giới thiệu giúp bạn. Hay đối với những em có hoàn cảnh khó khăn, ngay buổi đầu tiên nhận lớp tôi đọc kĩ lí lịch để nắm sơ bộ hoàn cảnh và xuống tận gia đình thăm hỏi. ở lớp tôi luôn gần gũi trò chuyện để học sinh bộc bạch những suy nghĩ của mình, giảng giải cho cháu hiểu: nghèo, hoàn cảnh đặc biệt của gia đình (ly hôn) không có gì xấu bởi vì bên cạnh các con còn có rất nhiêù bạn bè, có cô giáo hết lòng thương yêu, giúp đỡ các con. và cô mong con học giỏi chăm ngoan để sau này có trình độ, có nghề nghiệp vững chắc thì ta sẽ thắng cái nghèo, làm cho cha mẹ vui lòng. Ví dụ 1: Cháu Trần Mạnh Tú là học sinh ngoan song rất nhút nhát ít nói không bộ lộ mình. Để giúy cháu hoà đồng cùng các bạn, mạnh dạn trong hoạt động của lớp, tôi thường xuyên trò chuyện cùng cháu. Trong giờ nghỉ, giờ học tôi luôn giúp cháu được đối thoại nhiều trong các buổi sinh hoạt lớp, các tiết tập nói. Đến nay, cháu đã rất hoạt bát nhanh nhẹn và tham gia mọi hoạt động của lớp. Ví dụ 2: Cháu Đỗ Tuấn Phong là học sinh ngoan song cháu khkông bao giờ chơi, nói chuyện với các bạn. Khi đề ra yêu cầu giới thiệu về gia đình, bè bạn để cùng học cùng chơi, cháu trả lời: “Con không có bạn vì mẹ con cấm không cho chơi với các bạn gần nhà” bằng thái độ rất buồn. Khi cháu trả lời như vậy, tôi rất thương và nói với cháu; “Bây giờ con là học sinh lớp 1 rồi, con thấy lớp mình có rất nhiều bạn yêu quý con, vậy ước mơ của con là gì?” Cháu nói: “Con thích có bạn.” Tôi trả lời: “Cô sẽ giúp con thực hiện ước mơ đó.” Tôi đã gặp và trao đổi và trao đổi với mẹ cháu về những suy nghĩ, ước mơ của cháu và cung cấp một số địa chỉ học sinh ở gần nhà cháu để bố mẹ cháu tạo điều kiện cho cháu tiếp xúc, gặp gỡ với các bạn. Từ dó cháu có chuyển biến tốt. Cháu cởi mở, vui vẻ hơn có nhiều bạn hơn nên có kết quả rèn luyện đạo đức cũng như văn hoá cao hơn. Khi đề ra yêu cầu đúng thời hạn quy định tôi nghiêm túc kiểm tra uốn nắn để hình thành thói quen thực hiện đúng mọi yêu cầu của giáo viên đề ra. Biện pháp thứ 2: Xây dựng mạng lưới tích cực Việc lựa chọn mạng lưới tích cực và hướng dẫn các em công tác có ý nghĩa quan trọngtrong việc xây dựng và đoàn kết tập thể học sinh trong lớp. Sự có mặt của hạt nhân nòng cốt (cán bộ lớp) ủng hộ những yêu cầu của giáo viên chủ nhiệm là đặc trưng của sự phát triển tập thể trẻ em. Việc này phải tiến hành ngay sau khi giáo viên đã đề ra những yêu cầu. Nhiệm vụ giáo dục quan trọng nhất của mỗi giáo viên bắt đầu làm công tác xây dựng tập thể trẻ em là lựa chọn được đúng đắn mạng lưới cán bộ tích cực , đáng tin cậy. Chính vì vậy, ngay từ buổi đầu, tôi đã ý thức được việc làm quen tốt đối với các em. Nhận xét, xem xét những học sinh nào được các bạn tin cậy nhất, lưu ý phát hiện khả năng đặc biệt của từng em để trao đổi tình hình, thái độ và tìm hiểu xem nguyện vọng của các em đó như thế nào để phân công phụ trách công tác thích hợp. Ví dụ: Việc lựa chọn lớp trưởng rất cần em có đầu óc quan sát tổng hợp được mọi hoạt động của lớp về mọi mặt nhưng khi chọn lớp phó thì tôi lại chú ý đến khả năng học tập nhiều hơn. Sau khi lựa chọn và giao nhiệm vụ, tôi luôn tôn trọng công việc của các em nhưng vẫn luôn giám sát, kiểm tra hướng dẫn các em đi đúng hướng và nhìn khi cùng trao đổi bình đẳng để tìm hiểu tình hình, thái độ, quan điểm công tác của mình với các em đó, cùng đi dến thống nhất cách tổ chức lãnh đạo lớp. Trong công tác phụ trách lớp của mình, giáo viên chủ nhiệm không những chỉ luôn luôn dựa vào mạng lưới tích cực này mà còn ủng hộ, củng cố uy tín của ban cán sự lớp trước các bạn bằng cách thường xuyên giúp đỡ các em, trao đổi ý kiến với các em, đặt cho các em nhiều vấn đề , giải quyết tự lập và dần dần đề xuất những yêu cầu cao hơn. Ví dụ: Lớp phó phụ trách học tập có thể đề nghị ý kiến của mình cho bạn kém chuyển chỗ ngồi để giúp đỡ bạn. Ghi nhận những ý kiến đề nghị của cán bộ lớp, song tôi luôn nhắc nhở cán bộ lớp thường xuyên theo dõi sự chuuyển biến về kết quả học tập của các bạn kém, nếu có tiến bộ thì động viên kịp thời, nếu không tiến bộ thì tôi cùng cán bộ lớp bàn bạc để tìm ra biện pháp thích hợp hơn. Ví dụ: Chuyển chỗ ngồi lần thứ hai cạnh bạn trưởng lớp hoặc lớp phó học tập để kiểm tra, giúp đỡ sát sao hơn hay phân công đôi bạn cùng tiến để giúp đỡ hoặc giao cho một nhóm học sinh giỏi cùng học cùng chơi, cùng giúp đỡ lẫn nhau. Khi nhận xét kết quả phấn đấu về mọi mặt của từng học sinh, tôi luôn tham khảo ý kiến của tổ trưởng và yêu cầu em đó có biện pháp thúc đẩy những mặt còn yếu hoặc tỏ lời khen ngợi tổ đã có ý thức giúp đỡ tổ viên sửa chữa những khuyết điểm. Để giáo dục ý thức trách nhiệm và thời gian trong công việc chung, hàng tháng tôi thường kiểm tra tất cả các nhiệm vụ đã phân công, mỗi cán bộ lớp phải báo cáo trước tập thể lớp mỗi tháng một lần để các bạn công nhận và góp ý kiến cho phần việc được phân công của từng người. Biện pháp thứ 3:Xây dựng uy tín cho cán bộ lớp Để công việc của cán bộ lớp đạt hiệu quả cao, tôi thấy cần xây dựng uy tín cho cán bộ lớp thông qua các mặt sau: a. Qua công việc: Khi đã giao việc cho từng cán bộ lớp, tôi phải hướng dẫn các em làm việc. Chẳng hạn như với lớp trưởng: Khi điều khiển các bạn xếp hàng dưới sân, càn phải biết quan sát xem hàng đã thẳng chưa, cần nhắc nhở bạn nào trong hàng nói chuyện riêng hoặc mất trật tự...ở trong lớp, khi cô vắng mặt, lớp trưởng phải thay cô nhắc nhở các bạn giữ trật tự, ghi tên những bạn không nghe lời cô giáo để kịp thời có biện pháp kỉ luật. Giờ sinh hoạt lớp, đây là việc khó nhất tôi thấy cần hướng dẫn lớp trưởng qua nhiều buổi sinh hoạt lớp. Dần dần sẽ hướng dẫn lớp trưởng tự viết và tổng kết trên mẫu đã có sẵn về nội dung sinh hoạt lớp. Chính việc để lớp trưởng điều khiển buổi sinh hoạt lớp, tôi thấy học sinh lớp tôi rất hào hứng trong các buổi sinh hoạt. Các em biết đấu tranh phê bình với các hiện tượng sai trái, nêu những khuyết điểm của bạn mà giáo viên có thể chưa nhận thấy. Vì thế tính tự giác của các em càng được nâng cao. Trong giờ sinh hoạt, nếu lớp trưởng phê bình học sinh nào thì cô giáo không nhắc lại lời phê bình đó nữa mà chỉ nhắc bạn có khuyết điểm sửa chữa. Như vậy cũng là một hình thức làm tăng uy tín của lớp trưởng. đối với hai lớp phó phụ trách hai mặt học tập và kỉ luật, tôi cũng hướng dẫn các em cách làm việc, theo dõi và giúp đỡ các em những vướng mắc khi thực hiện công việc được giao. Kiểm tra kết quả làm việc của các em một cách nghiêm túc. Ví dụ như kiểm tra sổ theo dõi thi đua, ghi tên các bạn mắc khuyết điểm về học tập, kỉ luật. Có như vậy học sinh trong lớp mới dần đi vào nề nếp, đảm bảo đầy đủ việc chuẩn bị bài ở nhà, nghiêm túc trong giờ học, giờ chơi, có tinh thần đoàn kết cao. Đối với bốn tổ trưởng, việc của các em cụ thể và chi tiết hơn. Tôi đã hướng dẫn các em nhắc nhở các bạn khi vi phạm nội quy của lớp và khi cô giáo nhắc nhở bạn nào về một trong những mặt theo dõi thi đua thì tổ trưởng sẽ đánh dấu mặt đó vào dòng tên của bạn bị phê bình. Cuối giờ học, tổ trưởng sẽ nộp lại sổ theo dõi thi đua cho cô giáo kiểm tra. b. Giúp cán bộ lớp khắc phục khuyết điểm: Đối với cán bộ lớp, để làm việc đạt kết quả cao như giáo viên yêu câu, các em phải gương mẫu. Tôi thấy cần phải kịp thời tuyên dương những cán bộ lớp nhiệt tình gương mẫu làm việc có hiệu quả. Nếu cán bộ lớp có khuyết điểm thì cũng cần phải phê bình để đảm bảo sự công bằng giữa các học sinh, phân tích khuyết điểm của cán bộ lớp để em đó rút kinh nghiệm khắc phục sửa chữa những khuyết điểm, nếu thấy có tiến bộ cũng tuyên dương. Không nên vì có khuyết điểm mà vội vàng thay cán bộ khác khiến các em hụt hẫng và gây tâm lí không vui, ảnh hưởng đến việc học tập của cá nhân em đó. c. Qua việc khen thưởng - phê bình: Vào giờ sinh hoạt lớp, sau phần làm việc của cán bộ lớp, với thái độ thật nghiêm túc, tôi thường khen ngợi tập thể đã biết nghe theo yêu cầu của cán bộ lớp, khen cán bộ lớp đã biết quán xuyến, bao quát lớp để giữ kỉ luật lớp tốt. Chính việc khen này đã động viên các em thực hiện tốt những qui định về nề nếp, kỉ luật và học tập do cô giáo qui định, làm tăng thêm uy tín của cán bộ lớp. Khi phê bình cá nhân hoặc tổ nào, tôi thường tìm hiểu kĩ sự việc xem em đó, tổ đó mắc khuyết điểm gì , có liên quan đến những ai...rồi phê bình với thái độ công bằng và nghiêm túc. Có như vậy học sinh mới thấy được khuyết điểm và sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đối với cá nhân xuất sắc và tổ xếp thứ nhất, tôi thưởng bằng hiện vật. Có thể chỉ là một quyển vở hoặc nhãn vở nhưng các em cảm thấy rất quý, rất vinh dự. Điều này có thể là một động lực giúp các em thi đua với nhau. d. Xây dựng và củng cố nếp làm việc: Điều cuối cùng, để công việc của cán bộ lớp đạt kết quả cao, tôi thấy cần phải thường xuyênrèn luyện tác phong và nề nếp làm việc cho đội ngũ cán bộ lớp. Mỗi tuần họp cán bộ lớp vào giờ ra chơi chiều ngày thứ sáu (khoảng 10 phút) để các tổ trưởng nhận xét tình hình của tổ: khen ai, chê ai, vì sao. Lớp phó bổ xung thêm. Sau đó nhận xét kết quả công việc của từng cán bộ lớp, động viên kịp thời để giúp các em làm việc tốt hơn, gương mẫu hơn, nhanh nhen hơn. chính việc rèn luyện tác phong và nề nếp cho đội ngũ cán bộ lớp này, tôi nhận thấy các em ngày càng nhanh nhẹn hơn, hoạt bát hơn, nói năng trôi chảy và mạnh dạn hơn. Khi nhận xét kết quả phấn đấu về mọi mặt của học sinh, tôi luôn tham khảo ý kiến của tổ trưởng và yêu cầu em đó có biện pháp thúc đẩy những mặt còn yếu hoặc tỏ lời khen gợi tổ đã có ý thức giúp đỡ thành viên của tổ sửa chữa khuyết điểm. Để giáo dục ý thức trách nhiệm và thời gian hứng thú trong công việc chung hàng tháng, tôi thường kiểm tra tất cả các nhiệm vụ đã phân công, mỗi cán bộ lớp phải báo cáo trước tập thể lớp mỗi tháng một lần để các bạn công nhận và góp ý kiến cho phần việc được phân công của từng người. Biện pháp thứ tư: Kết hợp với cha mẹ học sinh: Đối với cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp được coi là người đã được tập thể giáo viên cùng thay mặt nhà trường phụ trách chủ yếu công tác giáo dục học sinh. Ngay từ đầu năm, tôi đi sâu tìm hiểu hoàn cảnh từng học sinh như thế nào. nếu ảnh hưởng của gia đình có thuận lợi cho học sinh thì tôi tổ chức tuyên truyền nêu gương trong các buổi họp cha mẹ học sinh để cùng tham khảo và học tập.Nếu ảnh hưởng của gia đình có hại cho việc trao đổi, góp ý, để đi đên thống nhất việc giáo dục giữa gia đình, và giáo viên tôi luôn quan tâm, uốn nắn kịp thời để giúp đỡ các em phát triển những phẩm chất đạo đức tốt. Để cha mẹ học sinh trở thành những phương tiện giúp đỡ giáo viên hoàn thành nhiệm vụ giáo dục tập thể lớp, tôi đã yêu cầu rõ ràng đối với gia đình về mọi mặt như: chế độ làm việc hàng ngày, việc chuẩn bị bài lên lớp, việc khuyến khích các em lao động ở nhà và tham gia mọi hoạt động có tính chất tập thể, đặc biệt lưu ý đến việc giáo dục lòng nhân ái, ý thức tập thể cho học sinh. Việc kết hợp với tập thể cha mẹ học sinh để giáo dục tập thể học sinh giúp cho công tác chủ nhiệm của tôi đạt nhiều kết quả tốt như: - Lớp học là một tập thể thân ái, đoàn kết. - Được tập thể cha mẹ học sinh giúp đỡ, hỗ trợ, mọi phong trào của nhà trường đã được các cháu tham gia nhiệt tình, hứng thú. Cụ thể là: 100% học sinh tham gia các phong trào nhân đạo như mua tăm ủng hộ người tàn tật, góp quỹ tình thương, quỹ bạn nghèo được 368 000 đồng (cao nhất trường), tham gia phong trào kế hoạch nhỏ vượt chỉ tiêu quy định. - Các phong trào VSCĐ, thi giáo viên giỏi, thi học sinh giỏi, thi văn nghệ, thi sao nhi đồng giỏi đạt giải nhất...đều được sư quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của hội cha mẹ học sinh lớp. - Chính vì vậy, tôi luôn xây dựng được tập thể lớp trở thành tập thể tiên tiến. Biện pháp thứ năm: Đưa học sinh cá biệt vào các hoạt động tập thể: Học sinh lớp 1 đa số các cháu là ngoan, ngây thơ, rất đáng yêu. Song bên cạnh đó cũng có nhữn cháu tính hiếu động, ngỗ ngược, hay đánh bạn, lấy đồ dùng của bạn, ý thức kỉ luật rất kém, lười học. Đó là do được gia đình chiều chuộng quá mức, bản thân lại hiếu động. Do vậy, rất khó khăn cho giáo viên trong giờ dạy và giáo dục đạo đức nói chung cho cả tập thể lớp. Ví dụ: Cháu Hoàng Phan Trung ở lớp có đầy đủ các biểu hiện trên nên bị các bạn bè trong lớp xa lánh, cha mẹ các học sinh khác thường yêu cầu không cho con em mình ngồi chung...Do vậy, Trung sống rất khép mình, ít trò chuyện và hay nổi nóng đánh nhau với bạn. Từ khi nhận lớp, quan sát tìm hiểu tính cách của từng học sinh, qua phản ảnh của cha mẹ học sinh trong lớp tôi luôn suy nghĩ phải chăng mới lớp 1, học sinh đã trở thành cá biệt. Song tôi lại gạt ngay ý nghĩ đó và chỉ xác định cháu Trung chỉ là học sinh hiếu động nên tôi đã đi sâu tìm hiểu hoàn cảnh gia đình (do cha mẹ quá chiều), trao đổi những biểu hiện ở lớp với cha mẹ cháu để cùng kết hợp giáo dục. ở lớp, tôi tận dụng tối đa mọi thời gian, đưa cháu vào mọi hoạt động tập thể như : giao nhiệm vụ bảo vệ lớp, lấy đồ dùng cho cô, phân phát báo cho các bạn... để cháu bớt thời gian trống đùa nghịch. Bên cạnh đó, tôi còn trao đổi, giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp thay phiên nhau, cùng chơi, cùng học với Trung trong những giờ ở trường để Trung thấy được sự quan tâm của bè bạn, của tập thể đối với cháu. Từ đó hạn chế sự nghịch ngợm, phá phách của cháu. Một việc nữa là tôi đã tin tưởng giao cho cháu việc kiểm tra đồ dùng của các bạn trước giờ ra chơi và khi ra về nhằm nhắc nhở các bạn không để quên, không làn mất đồ dùng. Làm như vậy cháu Trung đã có trách nhiệm đối với việc mình làm và cháu không lấy đồ của bạn nữa. Khi cháu có những biểu hiện tốt, tiến bộ, tôi luôn biểu dương, có phần thưởng nên dần dần Trung đã sửa chữa được những khuyết điểm, các bạn trong lớp đã yêu mến, gần gũi cháu hơn. Phần IV: Tự đánh giá - Từ nhận thức của bản thân trên cơ sở thực tiễn chọn đề tài và các biện pháp triển khai đề tài, lớp tôi đã đạt được một số kết quả cụ thể sau: - Xây dựng lớp thành một tập thể vững mạnh, mọi thành viên trong tập thể đều có ý thức vươn lên trong mọi mặt rèn luyện văn hoá cũng như đạo đức. - Bước đầu xây dựng dược nề nếp sinh hoạt tập thể sôi nổi phong phú, có tác dụng giáo dục từng thành viên trong tập thể lớp. Các em đã được hình thành và phát triển hành vi đạo đức mình vì bạn, bạn vì mình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất