Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp quản lý phát triển văn hoá nhà trường, trường thpt a hải h...

Tài liệu Skkn một số biện pháp quản lý phát triển văn hoá nhà trường, trường thpt a hải hậu

.DOC
40
933
129

Mô tả:

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ NHÀ TRƯỜNG, TRƯỜNG THPT A HẢI HẬU NĂM HỌC 2014 - 2015 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý giáo dục 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015 4. Tác giả: Họ và tên: Lê Văn Trường Năm sinh: 1972 Nơi thường trú: Tổ DP số 4 – TT Yên Định – huyện Hải Hậu – tỉnh Nam Định Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm, chuyên ngành Hoá học Trình độ quản lý: Thạc sỹ Quản lý Giáo dục Chức vụ công tác: Phó Hiệu trưởng Nơi làm việc: Trường THPT A Hải Hậu Địa chỉ liên hệ: Trường THPT A Hải Hậu Điện thoại: 0984930916 5. Đồng tác giả: Không 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THPT A Hải Hậu Địa chỉ: Tổ DP số 6 – TT Yên Định – huyện Hải Hậu – tỉnh Nam Định Điện thoại: 03503877089 1 I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến Từ năm 2012 đến năm 2014, tôi được UBND tỉnh Nam Định, Sở GD&ĐT Nam Định cho phép đi học lớp Cao học Quản lý Giáo dục khoá 12, tại Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội (sau khi đã thi đỗ). Trong chương trình của khoá học, một trong những môn học tôi nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng và cảm thấy rất tâm đắc là môn “Quản lý văn hoá nhà trường”. Văn hoá nhà trường có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến sự phát triển của một nhà trường, bởi lẽ: + Văn hoá là một trong những tài sản lớn nhất của nhà trường; + Văn hoá nhà trường tạo động lực làm việc cho cán bộ, giáo viên, nhân viên; tạo động lực học tập cho học sinh; + Văn hoá nhà trường hỗ trợ điều phối và kiểm soát hành vi của các thành viên trong nhà trường; + Văn hoá nhà trường nâng cao chất lượng các hoạt động của nhà trường; + Văn hóa nhà trường hạn chế tiêu cực và xung đột. Vận dụng kiến thức được học vào công tác quản lý văn hoá nhà trường, năm học 2014 – 2015 tôi cùng với Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức quản lý văn hoá nhà trường trên cơ sở lý luận được trang bị, đã xây dựng được nền văn hoá tích cực cho nhà trường, góp phần tiếp tục đưa nhà trường vững bước đi lên, đạt được nhiều thành tích rực rỡ. II. Thực trạng Trường THPT A Hải Hậu được thành lập năm 1960, trường nằm ở thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu. Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong công tác giáo dục và đào tạo, nhà trường được nhận nhiều phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây, dưới tác động của cơ chế thị trường, nhà trường gặp một số 2 khó khăn trong công tác quản lý chỉ đạo, như: việc dạy thêm tràn lan ở bên ngoài nhà trường ảnh hưởng tới công tác dạy và học trong nhà trường, sự bảo thủ, ngại thay đổi, chậm tiếp nhận sự đổi mới phương pháp giảng dạy ở một số giáo viên, thái độ bàng quan, an phận thủ thường vẫn còn tồn tại, mâu thuẫn xung đột cá nhân vẫn xảy ra làm ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường. Do đó tôi đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp quản lý phát triển văn hoá nhà trường, trường THPT A Hải Hậu năm học 2014 - 2015” nhằm mục đích khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong nhà trường, tạo nên sự đồng thuận cao hơn trong tập thể sư phạm nhà trường, tạo đà phát triển tốt hơn cho nhà trường trong năm học 2014 – 2015 và các năm tiếp theo. III. Các giải pháp 3.1. Giải pháp 1: Phổ biến, tuyên truyền trong cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường khái niệm văn hoá nhà trường và vai trò của văn hoá nhà trường 3.1.1. Khái niệm văn hoá nhà trường a) Văn hoá Giáo dục gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của loài người. Đối với nhân loại, giáo dục là phương thức bảo tồn và bảo vệ kho tàng tri thức văn hoá xã hội. Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có loài người, có xã hội. Văn hoá tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó. Nếu môi trường tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, để loài người hình thành và sinh tồn thì văn hóa là cái nôi thứ hai giúp con người trở thành “người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng vươn tới chân - thiện mỹ. Văn hoá là những gì gắn với con người, thuộc về con người và đời sống của 3 con người; do đó, tất cả những gì mang bản chất tự nhiên đều không phải là văn hoá. Một trong những quan niệm được thừa nhận rộng rãi là: “Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra trên nền thế giới tự nhiên”. b) Văn hoá tổ chức Mỗi khi bước vào trụ sở của một tổ chức (một cơ quan, công sở, doanh nghiệp…), người ta thường cảm nhận được bầu không khí đặc trưng của tổ chức đó qua hàng loạt các dấu hiệu hiển hiện dễ thấy, hoặc ngầm định khó thấy. Mỗi tổ chức đều tự mình biểu lộ ra bên ngoài một hình ảnh tốt đẹp hoặc tầm thường nào đó. Hình ảnh này được tạo nên bởi các nhân viên trong tổ chức, người quản lý tổ chức, sản phẩm hoạt động của tổ chức, các hoạt động xã hội của tổ chức. Mỗi một tổ chức đều có đặc trưng riêng, phân biệt với tổ chức khác. Hay nói một cách khác, mỗi một tổ chức có một văn hoá riêng. Văn hoá tổ chức khác với văn hoá cộng đồng và không đơn giản chỉ là văn hoá giao tiếp, văn hoá ứng xử như lâu nay chúng ta thường quan niệm. Có rất nhiều quan niệm về văn hoá tổ chức, một trong các quan niệm hay được dùng là: “Văn hoá của tổ chức là tập hợp các giá trị, niềm tin, hành vi, trí tuệ của một tổ chức, tạo nên sự khác biệt giữa thành viên của tổ chức này với thành viên của tổ chức khác”. c) Văn hoá nhà trường Xét về bản chất, mỗi nhà trường là một tổ chức hành chính - sư phạm. Đó là một thế giới thu nhỏ với những cơ cấu, chuẩn mực, quy tắc hoạt động, những giá trị, niềm tin, điểm mạnh và điểm yếu riêng do những con người cụ thể thuộc mọi thế hệ tạo lập. Với tư cách là một tổ chức, mỗi nhà trường đều tồn tại, dù ít hay nhiều, một nền văn hoá nhất định. Nhiều nhà nghiên cứu về văn hoá đã định nghĩa văn hoá nhà trường là: “Văn hoá của một nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị, chuẩn mực, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của nhà trường, được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được thể 4 hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho mỗi nhà trường”. Căn cứ theo hình thức biểu hiện thì văn hóa nhà trường gồm phần nổi có thể nhìn thấy như: không gian cảnh quan nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, hành vi giao tiếp... và phần chìm không quan sát được như: niềm tin, cảm xúc, thái độ, kỳ vọng… Nhà trường là nơi bảo tồn và lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại. Nhà trường là nơi đào luyện những lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và sáng tạo văn hoá cho tương lai. Nhà trường là nơi con người với con người (người dạy và người học) cùng hoạt động để chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá, theo những cách thức văn hoá, dựa trên những phương tiện văn hoá, trong môi trường văn hoá đại diện cho mỗi vùng, miền, địa phương. Hơn bất cứ tổ chức nào khác trong xã hội, Nhà trường phải là tổ chức có “hàm lượng” văn hoá cao nhất, là nơi hội tụ, kết tinh văn hoá để đào tạo ra những chuẩn mực văn hoá cho xã hội. Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường được coi là một yếu tố cơ bản, tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho nhà trường thích nghi với môi trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một tổ chức có nền văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. Văn hóa mạnh của nhà trường sẽ giúp cho nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện. Đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường, văn hóa nhà trường thúc đẩy sự sáng tạo cá nhân, tạo nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên và đảm bảo cho sự hợp tác vì mục tiêu chung. Thầy cô giáo là người trực tiếp tham gia hoạt động dạy học, hơn ai hết, chính nhân cách của các thầy cô giáo ảnh hưởng trực tiếp tới nhân cách học trò. Vì vậy, chúng ta rất cần những nhà giáo ngoài kiến thức chuyên môn, phải hiểu biết rộng về cuộc sống, có kiến thức sâu sắc về văn hóa xã hội. Đối với học sinh, văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò điều chỉnh hành vi. Khi được giáo dục trong một môi trường văn hóa và thấm nhuần hệ giá trị văn hóa, học trò không 5 những hình thành được những hành vi chuẩn mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức các em là niềm tin nội tâm sâu sắc vào những điều tốt đẹp, từ đó, khao khát cuộc sống hướng thiện và sống có lý tưởng. Văn hóa nhà trường còn giúp các em về khả năng thích nghi với xã hội. Một con người có văn hóa thì trong con người đó luôn hội tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội... Do vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát sinh, dù là những tình huống mà các em chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết hành vi một cách hài hòa, các em có thể tự điều chỉnh mình phù hợp với hoàn cảnh, ứng xử hợp lẽ, hợp với lòng người và cuộc sống xung quanh. d) Những biểu hiện của nhà trường có văn hoá - Nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, dân chủ, hợp tác, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau; - Mỗi cán bộ, giáo viên đều biết rõ công việc mình phải làm, hiểu rõ trách nhiệm, luôn có ý thức chia sẻ trách nhiệm, tích cực tham gia vào việc ra các quyết định dạy và học; - Coi trọng con người, cổ vũ sự nỗ lực hoàn thành công việc và công nhận sự thành công của mỗi người; - Nhà trường có những chuẩn mực để luôn luôn cải tiến, vươn tới; - Nhà trường luôn sáng tạo và đổi mới; - Khuyến khích giáo viên cải tiến phương pháp nâng cao chất lượng dạy và học; giáo viên được khuyến khích tham gia đóng góp ý kiến trong mọi hoạt động của nhà trường; - Khuyến khích đối thoại và hợp tác, làm việc nhóm; - Chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi chuyên môn; - Chia sẻ quyền lực, trao quyền, khuyến khích tính tự chịu trách nhiệm; - Chia sẻ tầm nhìn; 6 - Nhà trường thể hiện sự quan tâm, có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, lôi kéo cộng đồng cùng tham gia giải quyết những vấn đề của giáo dục. e) Những biểu hiện tiêu cực, không lành mạnh (không văn hoá) trong nhà trường - Sự buộc tội, đổ lỗi cho nhau; - Sự kiểm soát quá chặt chẽ đánh mất quyền tự do và tự chủ của cá nhân; - Quan liêu, nguyên tắc một cách máy móc; - Trách mắng học sinh vì các em không có sự tiến bộ; - Thiếu sự động viên khuyến khích; - Thiếu sự cởi mở, thiếu sự tin cậy; - Thiếu sự hợp tác, thiếu sự chia sẻ học hỏi lẫn nhau; - Mâu thuẫn xung đột nội bộ không được giải quyết kịp thời. 3.1.2. Những hình thái và cấp độ thể hiện của văn hoá nhà trường a) Phần nổi có thể nhìn thấy - Đó là những thực thể hữu hình như khung cảnh, cơ sở vật chất trường lớp, cách bài trí lớp học, bàn ghế, thiết bị dạy học và sinh hoạt chung, logo, khẩu hiệu, bảng hiệu; - Đó là những thực thể vô hình như tầm nhìn, chính sách, mục đích, mục tiêu, các triết lý, nguyên tắc, phương pháp giải quyết vấn đề và tiến hành các hoạt động giáo dục, các thủ tục, chương trình công tác…; - Các chuẩn mực hành vi: Nghi thức tập thể, cách tổ chức các lễ nghi, cách tổ chức thăm viếng, các hoạt động văn hoá, học tập trong tập thể giáo viên, học sinh; - Các hình thức sử dụng ngôn ngữ: Khẩu hiệu hành động, ngôn ngữ xưng hô giao tiếp giữa thầy và thầy, thâỳ và trò, trò và trò… b) Các giá trị được thể hiện Giá trị được coi như là thước đo đúng và sai, xác định những gì nên làm và 7 không nên làm trong cách hành xử chung và riêng của con người trong một tổ chức. Có nhà trường đề cao các giá trị nhân văn, tình yêu thương giữa những con người trong tập thể; có nhà trường đề cao tính cộng đồng trách nhiệm và sự sáng tạo trong công việc; lại có nhà trường đề cao các giá trị như sự trung thực, tính thực chất hoặc khả năng đổi mới thường xuyên để nâng cao chất lượng các hoạt động dạy học, giáo dục… Giá trị trong tổ chức nhà trường được phân chia thành 2 loại: Loại thứ nhất là các giá trị mà nhà trường đã hình thành và vun đắp trong cả quá trình xây dựng và trưởng thành; Loại thứ hai là những giá trị mới mà cán bộ quản lý hoặc tập thể giáo viên, học sinh mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng bước nhằm đem đến sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội. c) Các ngầm định nền tảng Các ngầm định nền tảng bao gồm niềm tin, niềm tự hào, những suy nghĩ và trạng thái xúc cảm tình cảm đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi cá nhân và tạo thành nét chung trong tập thể nhà trường. Những ngầm định khó thấy này được coi là những quy ước có tính bất thành văn, có tính đương nhiên và tạo nên một mạch ngầm tinh thần kết nối các thành viên trong nhà trường và làm nền tảng cho các giá trị và suy nghĩ, hành động của họ. d) Phong cách ứng xử hàng ngày Đó là cách thể hiện của mỗi thành viên nhà trường trong ứng xử hàng ngày. Tuỳ theo hệ giá trị được thừa nhận và những ngầm định nền tảng của mỗi tổ chức nhà trường mà có những loại hình phong cách ứng xử được chọn lựa phù hợp. Chẳng hạn, mỗi tập thể giáo viên có một phong cách ứng xử khác nhau: niềm nở, thân mật hay giữ khoảng cách, nghiêm túc; xuề xoà, vui nhộn hay công thức, trang trọng; nơi nhiệt tình, quan tâm nhưng có nơi lạnh nhạt, bàng quan, … e) Phong cách làm việc Mỗi tổ chức nhà trường, dù có ý thức hay vô thức, đều hình thành nên một 8 phong cách làm việc riêng. Cùng là người giáo viên với công việc dạy học nhưng có tập thể giáo viên làm việc vì tinh thần trách nhiệm, lại có tập thể làm việc vì những mục tiêu, lợi ích trước mắt; có nơi cán bộ giáo viên tận dụng mọi thời gian để làm việc say mê, sáng tạo, lại có nơi làm việc kiểu công chức hành chính; có đội ngũ giáo viên làm việc với tinh thần đồng đội cao, hợp tác và chia sẻ, bên cạnh những tập thể làm việc trong sự ganh đua, cá nhân, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”. g) Phương pháp ra quyết định Việc ra quyết định cho mỗi chủ trương, phương hướng, kế hoạch, chính sách phát triển của nhà trường – một đặc trưng của hoạt động quản lý nhà trường, cũng thể hiện rất rõ tính chất và mức độ văn hoá của một nhà trường. Có thể nêu 3 khía cạnh biểu hiện sau đây: Sự tham gia của con người khi ra quyết định: Nếu đó là quyết định độc đoán của cá nhân người quản lý nhà trường sẽ khác biệt rất cơ bản về văn hoá so với việc ra quyết định tập thể dựa trên sự tham gia bàn bạc dân chủ của mọi thành viên trong tổ chức nhà trường. Thái độ của con người khi ra quyết định quản lý cũng bộc lộ rõ văn hoá, chẳng hạn một thái độ mạnh dạn đổi mới, dám nghĩ dám làm sẽ khác hẳn thái độ được chăng hay chớ, né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm… Phương pháp ra quyết định: Việc ra quyết định có các công cụ hỗ trợ bài bản như hệ thống thông tin, sự phân tích chiến lược, các cơ sở khoa học, pháp lý … cũng tạo ra sự khác biệt văn hoá so với cách ra quyết định dựa trên cảm tính, kinh nghiệm hoặc rất tuỳ tiện, ngẫu hứng của chủ thể quản lý… h) Phương pháp truyền thông Việc truyền bá, phổ biến thông tin trong nội bộ tổ chức hay từ tổ chức ra bên ngoài và ngược lại là một trong những dấu hiệu nhận biết quan trọng về văn hoá ở một tổ chức nhà trường. Trước hết là sự chia sẻ thông tin trong nội bộ tổ chức có được phổ biến rộng khắp tới mọi thành viên, ai cần cũng được cung cấp hay chỉ 9 một bộ phận cán bộ quản lý tự coi đó là một thứ “đặc quyền”, quản lý các thông tin rất khắt khe, không muốn cho người khác biết sẽ có nhiều bất lợi cho địa vị của mình. Cách thức truyền thông cũng là nét văn hoá tổ chức bởi đó là cách thức giao tiếp người – người: ý kiến được truyền đạt trực tiếp hay gián tiếp, theo hướng một chiều độc đoán “truyền lệnh” hay hai chiều dân chủ đối thoại, thông qua phương tiện truyền thống hay hiện đại… 3.1.3. Vai trò của văn hoá nhà trường a) Văn hoá là một thứ tài sản lớn của nhà trường - Văn hoá có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với nhà trường, bởi lẽ, tính văn hoá là một tính chất đặc thù của nhà trường, hơn bất kỳ một tổ chức nào. Điều này được xác định dựa trên những căn cứ sau: + Nhà trường là nơi bảo tồn vào lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại; + Nhà trường là nơi đào luyện những lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và sáng tạo văn hoá cho tương lai; + Nhà trường là nơi con người với con người (người dạy với người học) cùng hoạt động để chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá, theo những cách thức văn hoá, dựa trên những phương tiện văn hoá, trong môi trường văn hoá đại diện cho mỗi vùng, miền, địa phương. b) Văn hóa nhà trường là một chương trình đào tạo ẩn Chương trình đào tạo ẩn bao gồm những vấn đề mà học sinh học được thông qua mọi hoạt động trong nhà trường chứ không phải những gì được trình bày trong mục tiêu đào tạo của trường. Chẳng hạn khi một nhà trường có cơ sở vật chất về trường, lớp, bàn ghế, thiết bị, đồ dùng …đẹp và tốt; hàng ngày học sinh được học tập và rèn luyện trong môi trường ấy, học sinh sẽ dần hình thành được cho mình quan điểm về thẩm mỹ hướng tới cái đẹp, cái hoàn thiện. Học sinh được học trong môi trường nhà trường xanh - sạch - đẹp, sẽ thích, sẽ yêu môi trường đó, dần tạo 10 nên cho mình ý thức phải xây dựng môi trường sống có nhiều cây xanh, có quy hoạch đẹp, được vệ sinh sạch sẽ thường xuyên; khi đó học sinh tự thấy được trách nhiệm của bản thân với môi trường và sẽ tự giác tích cực xây dựng và bảo vệ môi trường. Học sinh được học trong môi trường nhà trường có nề nếp nghiêm túc, kỷ cương thì một cách rất tự nhiên các em cũng sẽ xây dựng cho mình tinh thần kỷ luật, luôn chấp hành tốt nội quy nề nếp của nhà trường. Học sinh được học các thầy cô giáo say mê nghề nghiệp, say mê khoa học, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết thì bản thân các em cũng sẽ noi gương các thầy cô mà say mê học tập, say mê khoa học, tìm tòi đào sâu kiến thức, có ý thức trách nhiệm với tập thể lớp, với bản thân. Như vậy với một nhà trường có một nền văn hóa tốt thì tự bản thân các thành tố văn hóa tốt đẹp của nhà trường đã có tác dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh, giúp cho học sinh tự nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện bản thân mà không cần bất kỳ một bài giảng nào trên lớp. c) Văn hoá nhà trường tạo động lực làm việc cho các thành viên trong nhà trường Động lực sư phạm được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó văn hoá là một động lực vô hình nhưng có sức mạnh kích cầu hơn cả các biện pháp kinh tế. Cụ thể là: - Văn hoá nhà trường giúp cho các thành viên trong nhà trường thấy rõ mục tiêu, định hướng và bản chất công việc mình làm, khuyến khích mối quan hệ hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau giữa các giáo viên; - Văn hoá nhà trường phù hợp, tích cực tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp giữa các các cán bộ, giáo viên, nhân viên trong tập thể sư phạm, giữa giáo viên và học sinh; đồng thời tạo ra một môi trường làm việc thoải mái, vui vẻ, lành mạnh. Đó là nền tảng tinh thần cho sự sáng tạo - điều vô cùng quan trọng đối với hoạt động sư phạm mà đối tượng là tri thức và con người; - Văn hoá nhà trường tích cực giúp cho người dạy, người học và mỗi người 11 trong lực lượng xã hội xung quanh có cảm giác tự hào, hãnh diện vì được là thành viên của nhà trường, được làm việc vì những mục tiêu cao cả của nhà trường; Muốn tạo động lực cần khơi dậy nhu cầu và đáp ứng nhu cầu chính đáng của mọi người. Khi khả năng đáp ứng nhu cầu thấp, động lực với người lao động sư phạm là đồng lương, thu nhập và những giá trị vật chất. Khi thu nhập đạt đến một mức nào đó, nhu cầu vật chất thoả mãn một mức độ nào đó, người lao động nói chung, nhà sư phạm nói riêng sẵn sàng đánh đổi, chọn mức thu nhập thấp hơn để được làm việc ở một môi trường hoà đồng, thân thiện, thoải mái, được cống hiến, sáng tạo và được thừa nhận và tôn trọng. d) Văn hoá nhà trường là con đường không chính thức kiểm soát, điều chỉnh hành vi Văn hóa nhà trường hỗ trợ điều phối và kiểm soát hành vi của các cá nhân bằng các chuẩn mực, thủ tục, quy trình, quy tắc và bằng dư luận, truyền thống tốt đẹp do những thế hệ con người trong tổ chức nhà trường xây dựng lên. Khi nhà trường phải đối mặt với một vấn đề phức tạp, chính văn hóa nhà trường là điểm tựa tinh thần, giúp các nhà quản lý trường học và đội ngũ giáo viên hợp tác, phát huy trí lực để có những quyết định và sự lựa chọn đúng đắn. Do đó chính văn hóa nhà trường giúp ngăn chặn, loại bỏ các hành vi không phù hợp của các thành viên trong nhà trường; giúp nhà trường nhanh chóng giải quyết được các vấn đề phức tạp nảy sinh, gạt bỏ các vấn đề phân tán không đáng có để nhà trường cũng như các thành viên tập trung vào nhiệm vụ dạy và học, nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học. e) Văn hóa nhà trường hạn chế tiêu cực và xung đột Văn hóa nhà trường giúp các cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh thống nhất về cách nhận thức vấn đề, cách đánh giá, lựa chọn, định hướng và hành động. Văn hóa nhà trường tựa như chất keo gắn kết các thành viên lại thành một khối, tạo ra những dư luận tích cực hạn chế những biểu hiện tiêu cực trái với quy tắc, chuẩn 12 mực thông thường của nhà trường, nó hạn chế những nguy cơ mâu thuẫn và xung đột, và khi xung đột là không thể tránh khỏi thì văn hóa nhà trường tạo ra hành lang pháp lý, đạo lý phù hợp để góp phần khắc phục, giải quyết xung đột trên nguyên tắc không để phá vỡ tính chỉnh thể của nhà trường. Khi các tiêu cực trong nhà trường được hạn chế, các xung đột được nhanh chóng hóa giải, thì các thành viên trong nhà trường không bị chi phối, không bị phân tán bởi các yếu tố ngoài chuyên môn, sẽ tập trung hơn vào công tác chuyên môn của bản thân, từ đó sẽ tăng chất lượng hoạt động chuyên môn - chất lượng hoạt động dạy và học. g) Nâng cao chất lượng các hoạt động của nhà trường Tổng hợp tất cả các yếu tố trên, từ sự gắn kết, tạo động lực, điều phối kiểm soát và hạn chế những nguy cơ làm giảm sức mạnh của tổ chức, rõ ràng là văn hóa tổ chức đã làm tăng hiệu quả các hoạt động trong nhà trường, trên cơ sở đó mà dần dần tạo nên những phẩm chất đặc trưng khác biệt cho tổ chức trường học. Đó là cơ sở nâng cao uy tín, “thương hiệu” của nhà trường, tạo đà cho các bước phát triển tốt hơn. 3.2. Giải pháp 2: Biện pháp quản lý phát triển văn hoá nhà trường 3.2.1. Đặc điểm nhà trường năm học 2014 - 2015 Trường THPT A Hải Hậu nằm ở trung tâm huyện Hải Hậu. Trường được thành lập năm 1960. Năm học 2014 – 2015 trường có 41 lớp với 1732 học sinh (khối 10 có 13 lớp, khối 11và 12 có 14 lớp); Trường có 105 cán bộ, giáo viên, nhân viên, trong đó có một Hiệu trưởng và ba Phó Hiệu trưởng. Chi bộ đảng của nhà trường có 45 đảng viên, Ban chi uỷ có 7 đồng chí, Hiệu trưởng nhà trường kiêm Bí thư chi bộ. Trường có 7 tổ chuyên môn: Toán - Tin, Vật lí - Công nghệ Công nghiệp, Hoá - Sinh - Công nghệ Nông nghiệp, Ngữ văn, Sử - Địa - GDCD, Ngoại 13 ngữ, Thể dục – Quốc phòng an ninh và một tổ văn phòng. Ngoài ra nhà trường có đầy đủ các tổ chức đoàn thể như công đoàn, đoàn thanh niên... 3.2.2. Biện pháp quản lý phát triển yếu tố văn hoá hữu hình/vật thể 3.2.2.1. Biện pháp quản lý phát triển các chuẩn mực hình thức a) Khuân viên nhà trường Trường nằm ở trung tâm thị trấn Yên Định của huyện Hải Hậu, khuân viên nhà trường có diện tích 19930 m2, với mật độ 11,51 m2/1 học sinh, đảm bảo định mức quy định của trường Chuẩn quốc gia ở vùng nông thôn với mật độ diện tích tối thiểu 10 m2/1 học sinh; trường có tường rào bao quanh, có cổng trường đẹp, biển trường, vườn trường, có nhiều cây cảnh và cây bóng mát. Sân trước của trường diện tích khoảng 3000 m2 là nơi tập trung sinh hoạt đầu tuần của học sinh toàn trường, nơi tổ chức các buổi Lễ Khai giảng, Sơ kết, Tổng kết năm học có hệ thống các bảng thông tin của đoàn thanh niên nhà trường, có hệ thống cây cảnh đẹp, hệ thống cây bóng mát đa dạng, xanh tốt quanh năm che mát cho sân trường. Khu sân chơi bãi tập phía sau của nhà trường có diện tích khoảng 9000 m 2 cũng được quy hoạch hệ thống cây bóng mát đẹp và xanh tốt, có hệ thống ghế đá dưới gốc cây; sân có đầy đủ các hạng mục công trình phục vụ cho việc học tập môn Giáo dục thể chất hay sự vui chơi của học sinh, như: sân bóng đá, sân bóng chuyền, nhảy cao, nhảy xa, đường chạy 100 m được quy hoạch đẹp mắt và khoa học, đảm bảo yêu cầu giảng dạy. Nhà trường tổ chức quản lý chặt chẽ công tác xây dựng, sử dụng, giữ gìn, bảo vệ khuân viên như giao các bồn hoa thảm cỏ cho các lớp quản lý, chăm sóc, giao đoàn thanh niên nhà trường theo dõi đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần đối với các lớp được phân công. Mỗi tuần, nhà trường phân công một lớp thực hiện nhiệm vụ quét dọn vệ sinh toàn bộ khuân viên nhà trường tất cả các ngày trong tuần. Việc vệ 14 sinh khuân viên nhà trường được thực hiện hàng tuần, hàng tháng, kể cả trong thời gian nghỉ hè nên khuân viên nhà trường luôn luôn sạch sẽ. Nhà trường phân công một đồng chí nhân viên văn phòng hàng ngày kiểm tra công tác vệ sinh của lớp trực tuần, hàng tuần đánh giá xếp loại kết quả thực hiện nhiệm vụ trực tuần của các lớp và lấy kết quả để đánh giá xếp loại thi đua về công tác đoàn của các lớp cuối học kỳ và cuối năm học. Nhà trường xây dựng quy định công tác lao động trực tuần, phổ biến đến từng học sinh, quy định về việc sử dụng các hạng mục cơ sở vật chất, chế tài xử lý vi phạm làm hỏng hóc cơ sở vật chất hay làm mất vệ sinh môi trường và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định đã đặt ra. Nhà trường thành lập một ban phụ trách về cơ sở vật chất, vệ sinh môi trường, đồng chí Hiệu trưởng làm trưởng ban, phân công một đồng chí Phó hiệu trưởng làm phó trưởng ban thường trực có nhiệm vụ hàng tuần kiểm tra cơ sở vật chất, vệ sinh môi trường, xây dựng kế hoạch tổ chức lao động vệ sinh, kế hoạch duy tu bảo dưỡng các hạng mục công trình, thường xuyên tham mưu với ban giám hiệu kế hoạch bổ sung nâng cấp cơ sở vật chất, trồng cây. Nhờ tổ chức tốt công tác quản lý, bảo vệ khuân viên nhà trường, nên nhà trường luôn duy trì được khuân viên đẹp, môi trường xanh - sạch - đẹp, tạo nên môi trường học tập và rèn luyện tốt cho học sinh. b) Hệ thống các phòng chức năng Nhà trường đã xây dựng đủ các phòng chức năng như Hội trường lớn, phòng họp nhỏ, các phòng làm việc của Ban Giám hiệu, Chủ tịch công đoàn, Bí thư đoàn thanh niên, Văn phòng đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phòng điều hành, phòng kế toán, phòng văn thư, phòng y tế học đường, thư viện điện tử, thư viện sách giáo khoa và tài liệu tham khảo… Các phòng chức năng của nhà trường được bài trí một cách khoa học, đảm bảo yếu tố thẩm mỹ, phù hợp với mục đích sử dụng của chúng. Các phòng đều được trang bị nội thất phù hợp với yêu cầu công việc, sắp xếp ngăn nắp, trang 15 trọng, tạo nên một khung cảnh làm việc nghiêm túc. Các phòng chức năng được giao cho các đồng chí nhân viên văn phòng nhà trường, cùng các đồng chí cán bộ, giáo viên được sắp xếp làm việc trong đó quản lý, chịu trách nhiệm về tài sản trong phòng, vệ sinh phòng luôn sạch sẽ gọn gàng. Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên kiểm tra việc bài trí, vệ sinh các phòng, tổ chức định kỳ hàng năm kiểm kê tài sản của các phòng, do đó hệ thống các phòng chức năng của nhà trường luôn đảm bảo ngăn nắp, sạch đẹp, có tác dụng giáo dục. Nhà trường đẩy mạnh công tác xã hội hoá, tranh thủ sự giúp đỡ của phụ huynh học sinh, của các thế hệ cựu học sinh để đầu tư trang bị cơ sở vật chất cho nhà trường, trang bị các đồ dùng phù hợp hơn, mới hơn, đẹp hơn cho các phòng chức năng. c) Hệ thống lớp học Nhà trường có hệ thống lớp học gồm 3 dãy nhà ba tầng liên thông với 42 phòng học. Các lớp học được bài trí khoa học, đẹp. 100% các lớp học có ảnh Bác, nội quy nhà trường, khẩu hiệu dạy tốt - học tốt, khăn trải bàn, lọ hoa, bảng theo dõi thi đua học sinh hàng ngày, tuần, tháng; nhiều lớp học có thêm các thiết bị dạy học như máy tính, máy chiếu projector, thiết bị âm thanh. Hệ thống bàn ghế được chuyển dần từ 4 chỗ sang hai chỗ phù hợp cho việc đổi mới phương pháp dạy học (năm học 2014-2015, 50% số lớp học của nhà trường đã sử dụng bàn ghế 2 chỗ ngồi), được sơn bóng đẹp, được giữ gìn sạch sẽ, không bị viết vẽ lên mặt bàn. Nhà trường có quy định cụ thể về việc sắp xếp, trang trí lớp, vệ sinh lớp học. Đầu năm học nhà trường bàn giao tài sản lớp cho học sinh quản lý, bảo quản, sử dụng; cuối năm học, học sinh bàn giao lại tài sản lớp học cho nhà trường. Học sinh phải tự bồi hoàn hoặc sửa chữa những hư hỏng tài sản lớp do việc quản lý, bảo vệ không tốt gây ra. Hàng ngày nhân viên quản sinh nhà trường kiểm tra đánh giá vệ sinh các lớp học, lấy kết quả xếp loại thi đua của lớp hàng tuần, hàng tháng và học kì. 16 - Định kỳ đầu năm học và đầu học kỳ 2, nhà trường tổ chức đoàn kiểm tra, kiểm tra việc trang trí lớp, trật tự vệ sinh của lớp, lấy kết quả xếp loại thi đua; ngoài ra nhà trường tổ chức các đợt kiểm tra đột xuất để đôn đốc, nhắc nhở uốn nắn kịp thời các lớp làm chưa tốt. - Nhà trường còn quan tâm và làm tốt công tác xã hội hoá, tranh thủ được sự giúp đỡ kinh phí của phụ huynh học sinh để định kỳ bảo dưỡng, quét vôi các lớp học, giữ cho các lớp luôn mới, sáng sủa, đẹp đẽ. Bên cạnh đó nhà trường quan tâm và làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền học sinh giữ gìn lớp học sạch sẽ, không viết vẽ bậy lên tường lớp, bàn ghế, giao các khu vực công cộng cho các lớp quản lý, bảo vệ… Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp quản lý trong năm học mà hệ thống lớp học của nhà trường luôn đẹp, sạch sẽ, ngăn nắp, tạo nên môi trường học tập, rèn luyện tốt cho học sinh. d) Hệ thống phòng học bộ môn Nhà trường còn có khu nhà học bộ môn với 9 phòng học, nhà giáo dục thể chất đa năng hai tầng với tổng diện tích 2000 m2. Hệ thống các phòng học bộ môn của các môn học Vật lí, Hoá học, Sinh học, các phòng máy vi tính, được xây dựng theo quy chuẩn về kích thước của Bộ Giáo dục. Trong các phòng có nội quy quy định về việc sử dụng, bảo quản, hoạt động của phòng và trách nhiệm của người phụ trách, của giáo viên, của học sinh khi làm việc, học tập tại phòng bộ môn; trong phòng còn có ảnh chân dung của các bác học, các nhà khoa học nổi tiếng hàng đầu của môn học được treo ở các vị trí trang trọng. Nhà trường trang bị đầy đủ bàn ghế phù hợp cho các phòng bộ môn, trang bị khá đầy đủ các thiết bị dạy học theo yêu cầu của môn học, trang bị thiết bị công nghệ thông tin phục vụ công tác giảng dạy tại phòng. Các phòng bộ môn được giao cho các đồng chí nhân viên văn phòng chuyên trách về công tác thiết bị phụ trách, quản lý, giao cho các tổ chuyên môn khai thác sử dụng. 17 Nhà trường định kỳ kiểm tra đánh giá việc bài trí, xếp đặt, vệ sinh các phòng học bộ môn 4 lần trong năm học (giữa học kỳ 1, cuối học kỳ 1, giữa học kỳ 2, cuối học kỳ 2), lấy kết quả để xếp loại thi đua đối với đồng chí nhân viên phụ trách phòng. Định kỳ 2 lần trong năm học (vào thời gian nghỉ hè trước năm học mới và cuối năm dương lịch), nhà trường tổ chức kiểm kê tài sản, thiết bị trong phòng, tổ chức mua sắm bổ sung kịp thời các dụng cụ, thiết bị cần thiết cho việc giảng dạy và học tập của học sinh. Hệ thống phòng học bộ môn của nhà trường được quản lý tốt, khai thác sử dụng với tần xuất cao, cùng với hệ thống lớp học, tạo nên môi trường học tập tốt cho học sinh, giúp các em tăng thêm hứng thú đối với các môn học, có điều kiện đi sâu, nâng cao kiến thức, kỹ năng đối với các môn học. e) Trang phục Nhà trường thực hiện đúng quy định của Chính phủ về trang phục của viên chức Nhà nước; quy định của Luật giáo dục và Điều lệ trường phổ thông của Bộ về trang phục của cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh khi thực hiện các hoạt động giáo dục trong nhà trường; trong đó yêu cầu cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh ăn mặc gọn gàng, lịch sự, phù hợp với hoạt động giáo dục. Nhà trường quy định học sinh mặc đồng phục (quần sẫm màu, áo sơmi trắng hoặc áo khoác có in logo nhà trường trên ngực áo) trong tất cả các ngày trong tuần khi điều kiện thời tiết cho phép. Vào các ngày lễ, cán bộ, giáo viên nữ mặc áo dài hoặc váy công sở, cán bộ, giáo viên nam mặc comple, thắt cà vạt, học sinh mặc quần áo đồng phục, từ đó toát lên tính nghiêm túc, sự hoà đồng trong tập thể nhà trường. Nhà trường quy định, đồng thời cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường nghiêm túc thực hiện việc không mặc quần áo “Bò”, quần áo quá “bó”, áo “quá ngắn” hay quá mỏng khi thực hiện các hoạt động giáo dục học sinh trong nhà trường. Nhà trường quy định học sinh nhà trường không mặc quần “Bò” khi tham 18 gia các hoạt động học tập, rèn luyện ở trường, quy định học sinh mặc áo đồng phục, sơ vin gọn gàng, không đi dép lê, phải đi dép có quai hậu đồng thời luôn phải cài quai hậu; nhà trường không cho phép học sinh các lớp tự may áo đồng phục riêng của lớp Để giúp cho học sinh thực hiện tốt nội quy nề nếp nhà trường, đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhà trường đã thành lập đội thanh niên xung kích để hàng ngày kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nội quy của học sinh, tuyên dương kịp thời các tập thể, học sinh thực hiện tốt, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời những học sinh thực hiện chưa tốt. Với quy định thực hiện nghiêm túc việc mặc đồng phục của học sinh trong năm học, tạo nên hình ảnh nghiêm túc, chuẩn mực của học sinh nhà trường, góp phần tạo nên môi trường giáo dục tốt đẹp trong nhà trường. f) Lô gô Nhà trường đã có lôgô với biểu tưởng trang sách mở rộng và cây bút được cách điệu thành ngọn đuốc tri thức soi đường cho thế hệ trẻ; đồng thời cũng gợi lên hình ảnh con thuyền và cánh buồm đang căng gió vươn tới chân trời tri thức. Lôgô được sơn màu vàng là màu của thương hiệu, của chất lượng. Đầu năm học, trong các buổi học tập về nội quy, truyền thống nhà trường, học sinh được giới thiệu về Lôgô nhà trường. Lôgô nhà trường là biểu tượng cho truyền thống dạy tốt, học tốt, chất lượng và thương hiệu nhà trường do đó có ý nghĩa giáo dục rất lớn với học sinh. Lôgô được đặt chính giữa ngôi nhà học chính đối diện với cổng trường, khi học sinh bước vào cổng trường các em sẽ nhìn thấy ngay Lôgô, các em sẽ được nhắc nhở về truyền thống nhà trường mà có ý thức rèn luyện, học tập tốt hơn. g) Khâủ hiệu, phương châm làm việc Khẩu hiệu ngay cổng trường (quay mặt vào sân trường), hàng ngày hàng giờ cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh nhà trường đều nhìn thấy là: “Phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng, trường THPT A Hải Hậu thi đua dạy tốt học tốt”. Khẩu hiệu trong Hội trường, trong phòng điều hành của nhà trường là: “Mỗi thầy 19 giáo, cô giáo là một tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo”. Khẩu hiệu trên các lớp học là “Dạy tốt – Học tốt”. Các khẩu hiệu trên, là phương châm làm việc của nhà trường, hàng ngày, hàng giờ nhắc nhở cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh nhà trường luôn luôn cố gắng nâng cao chất lượng công tác, học tập để góp phần duy trì, phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường. h) Bài trí nơi làm việc Kiến trúc trụ sở làm việc và cách thức bày trí nơi làm việc phản ánh các giá trị và niềm tin của tổ chức, thể hiện văn hoá tổ chức, do đó nhà trường rất coi trọng kiến trúc và bài trí nơi làm việc. Các phòng chức năng của nhà trường được bài trí một cách khoa học, đảm bảo yếu tố thẩm mỹ, phù hợp với mục đích sử dụng. Các phòng đều được trang bị nội thất phù hợp với yêu cầu công việc, sắp xếp ngăn nắp, trang trọng, tạo nên một khung cảnh làm việc nghiêm túc, uy nghiêm. Tổ văn phòng của nhà trường được giao nhiệm vụ quản lý các phòng chức năng, và đảm bảo các phòng chức năng luôn được bày trí trang trọng, vệ sinh sạch sẽ. Ban lao động - vệ sinh môi trường của nhà trường, đứng đầu là một đồng chí Phó Hiệu trưởng phân công thành viên thường xuyên kiểm tra, định kỳ 4 lần trong năm học (giữa học kỳ 1, cuối học kỳ 1, giữa học kỳ 2, cuối học kỳ 2) tổ chức đoàn kiểm tra việc bài trí hệ thống các phòng chức năng, chấn chỉnh kịp thời các sai lệch, đồng thời lấy kết quả kiểm tra để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, xếp loại thi đua đối với nhân viên và tổ văn phòng. 3.2.2.2. Quản lý phát triển các chuẩn mực về nội dung a) Sứ mạng, mục đích của nhà trường Ban giám hiệu nhà trường tổ chức, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể, hội đồng nhà trường nghiên cứu xây dựng kế hoạch chiến lược nhà trường giai đoạn 2015 – 2020, tầm nhìn 2030, trong đó tuyên bố sứ mạng, giá trị, kỳ vọng của nhà trường: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng