Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số biện pháp nhằm khắc phục nhân vật lịch sử trong chươn trình phổ thôn...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nhằm khắc phục nhân vật lịch sử trong chươn trình phổ thông

.DOC
21
246
128

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Cơ sở lí luận: - Bộ môn Lịch sử ở trường THPT có rất nhiều ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Hầu như các tiết dạy Lịch sử chương trình Lịch sử ở trường THPT đều liên quan và đề cập đến các nhân vật lịch sử nếu chúng ta biết liên kết nó với các lĩnh vực khác thì chắc chắn vấn đề này sẽ có tác dụng không nhỏ trong việc giáo dục thế hệ trẻ hôm nay.Vì vậy mà Luật giáo dục đã khẳng định “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc” .Với yêu cầu xã hội đặt ra như vậy công tác giáo dục hiện nay nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng chúng ta phải làm gì để đáp ứng yêu cầu của xã hội đang đặt ra bức thiết. - Vấn đề nhân vật là lịch sử một vấn đề ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của các em học sinh. Tuy nhiên trong dạy học lịch sử vẫn chưa được chú ý đúng mức, điều này phản ánh một số mặt sau: Thứ 1: Sách giáo khoa ít nhiều đề cập đến vấn đề này nhưng phần lớn chỉ giới thiệu chung chung. Học sinh muốn biết nhiều-hiểu rõ phải tìm tòi nhiều tư liệu khác (thực ra rất khó tìm). Thứ 2: Việc đánh giá nhân vật lịch sử như thế nào cho đúng với chủ quan, khách quan thời đại vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau không thống nhất. Thứ 3: Trong việc dạy học lịch sử giáo viên còn bỏ qua nhân vật lịch sử, thực tế giáo viên chỉ quan tâm đến nội dung cốt lõi bài học thôi. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Xuất phát từ thực tiễn cuộc sống hiện nay, rất tiếc việc nhận thức của học sinh về các nhân vật lịch sử hầu như chưa nhiều, đó là chưa kể việc nhận thức sai lệch đây quả là một vấn đề đặt ra bức thiết. Dẫn ra một minh chứng để minh họa: Đối với các anh hùng dân tộc khi được hỏi về nhân vật Hai Bà Trưng là ai? Học sinh trả lời Trưng Trắc và Bà Triệu hay Lý Thường Kiệt là ai học sinh trả lời đó là một nhân vật lịch sử bên Trung Quốc...Đây là những nhân vật gần gũi với chúng ta mà học sinh còn nhận thức như vậy thì đối với các nhân vật lịch sử thế giới thì các em sẽ nhớ gì, nhận thức ra sao trong khi đó chưa kể nó cách quá xa và với những cái tên mà theo các em là quá dài, khó nhớ. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn như vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc họa các nhân vật lịch sử trong chương trình lịch sử THPT” 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: - Nhìn tổng quát từ trước đến nay có rất nhiều nhà nghiên cứu viết, tìm hiểu về các vĩ nhân, các nhân vật lịch sử. Các công trình đó cung cấp nhiều thông tin bổ ích đi sâu về nhiều khía cạnh cuộc đời, sự nghiệp các nhân vật lịch sử nhưng người đọc vẫn cảm thấy thiếu vắng một công trình để giáo viên và học sinh căn cứ vào đó để hiểu đúng về nhân vật lịch sử. 1 - Các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử ” từ năm 1990 đến nay do giáo sư Phan Ngọc Liên, giáo sư Trần Văn Trí chủ biên. - “Tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử để giáo dục tư tưởng cho học sinh” của TS Đặng Vũ Hồ (ĐHSP Huế). - Ngoài ra rải rác các sách hướng dẫn giảng dạy Lịch sử ở phổ thông, gây hứng thú học tập Lịch sử, rèn luyện kĩ năng sư phạm... 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI: 3.1 Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu tôi đi sâu vào nội dung chủ yếu sau: + Nghiên cứu lí luận và thực tiễn để khẳng định sự cần thiết phải giảng dạy các nhân vật lịch sử ở trường THPT. + Đưa ra những giải pháp, biện pháp cụ thể để tiến hành giảng dạy các nhân vật lịch sử trong chương trình THPT hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. 3.2 Minh họa vào bài giảng cụ thể “PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT(1914)” 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Thứ 1: Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề nhân vật lịch sử, từ đó rút ra tư tưởng, lập trường trong việc nghiên cứu. Thứ 2: Thu thập, hệ thống khái quát hóa những vấn đề cơ bản của các tư liệu về lý luận dạy học, phương pháp dạy học các vấn đề liên quan đến nhân vật Lịch sử . Thứ 3: Tham khảo ý kiến đánh giá, dựa vào thực tiễn để đưa ra một cách nhìn cận cảnh về vấn đề này. 2 NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ I. NỘI DUNG: CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT. 1. Quan niệm về nhân vật lịch sử. Những nhân vật lịch sử lỗi lạc, những nhà thông thái trên mọi lĩnh vực văn hóa, tinh thần đều là sản phẩm của những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử nhất định. Song mỗi khi xuất hiện họ trở thành những ngôi sao tỏa sáng trên bầu trời thời đại và nhờ có những nhãn quan và tài năng vượt trội, họ đã góp phần to lớn vào việc khai sáng lịch sử, khai sáng nhân loại, rèn luyện đạo lí làm người góp phần thúc đẩy lịch sử tiến lên.“ Con người làm nên lịch sử của mình bằng chính năng lực, hiểu biết và hành động hướng tới nhận thức chân lí” như vậy để có những bước tiến khổng lồ trong quá trình cải tạo tự nhiên biến đổi xã hội, lịch sử đòi hỏi phải có những con người khổng lồ, khổng lồ về tư tưởng về trí tuệ, sức mạnh, tinh thần và về năng lực sáng tạo, một khi cuộc sống xã hội có yêu cầu chắc chắn rằng sớm hay muộn lịch sử sẽ tạo ra những điều kiện để đáp ứng yêu cầu đó, mà cụ thể ở đây đã hun đúc rèn luyện và bồi dưỡng nên những con người như vậy. Tuy vậy trở lại mặt trái của vấn đề, lẽ dĩ nhiên lịch sử sản sinh ra những anh hùng những con người khổng lồ chắc chắn rằng bên cạnh đó ta sẽ gặp những con người nhỏ bé những con người luôn đi ngược lại với qui luật lịch sử, phản động, cố sống cố chết bám lấy những tư tưởng của mình mà theo như người ta thường nói nó đã quá cũ kĩ, lỗi thời theo sự đi lên của lịch sử theo sự phát triển của hệ tư tưởng. Sử học Macxit đã làm sáng tỏ quan điểm con người là chủ thể lịch sử là mục tiêu phát triển của xã hội. Lịch sử là do quần chúng nhân dân tạo nên .Tuy vậy sử học Macxit cũng đã khẳng định “ Mỗi thời đại xã hội đều có những con người vĩ đại của nó và nếu không có những con người như thế thì thời đại sáng tạo ra những con người như thế” Tựu chung lại sự xuất hiện của một anh hùng dân tộc, một nhân vật lịch sử tuy có nhiều yếu tố ngẫu nhiên nhưng xét đến cùng là một hiện tượng hợp quy luật nhằm đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử đặt ra. Mối quan hệ giữa cá nhân và quần chúng được thể hiện khá rõ. Cá nhân có thể thúc đẩy góp phần thúc đẩy sự phát triển của lịch sử, trong những trường hợp nhất định có thể ngăn trở, thậm chí kéo lùi bước tiến của lịch sử. Như vậy ở mỗi giai đoạn nhất định của thời đại, lịch sử nhất định sẽ cho ta những nhân vật lịch sử (chính diện và phản diện). Do đó khi đánh giá nhân vật lịch sử chúng ta cần đứng trên quan điểm lập trường, cần trở về với thời đại nhân vật đó đang sống xem nhân vật đó làm được gì và chưa làm được gì. 2. Nội dung các nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường THPT: Trong chương trình lịch sử THPT nhìn chung Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới đã ít nhiều đề cập đến nhân vật lịch sử (cả chính diện và phản diện). 3 Căn cứ vào thực tiễn chúng ta thấy rõ sách giáo khoa đã nêu lên một số quan điểm sau: - Sách giáo khoa đã đề cập đến các nhân vật lịch sử nhưng hầu như chỉ giới thiệu sơ lược, nhất là trong cuộc cách mạng tên tuổi các nhân vật, nhân vật đó hoạt động như thế nào. - Sách giáo khoa cũng đã đề cập đến ảnh hưởng nhân vật lịch sử đối với các sự kiện đó và đối với thời đại tuy chưa được quan tâm nhiều. - Sách giáo khoa đã giới thiệu về các nhân vật trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, trong mối quan hệ với các nhân vật khác và đời sống xã hội. Như vậy, vấn đề về nội dung các nhân vật lịch sử được sách đề cập rất muôn hình, muôn vẻ nhưng dù thế nào đi nữa thì nó vẫn nằm trong mối quan hệ thời gian- không gian-sự kiện và kết quả các nhân vật xuất hiện là phù hợp yêu cầu của xã hội lúc đó, thực tế hiện nay sách giáo khoa ở THPT dường như sách chỉ đề cập đến các nhân vật tên tuổi, có ảnh hưởng lớn còn các nhân vật ít tên tuổi thì dường như sách còn bỏ qua. 3. Vai trò, ý nghĩa của việc giảng dạy các nhân vật lịch sử trong trường THPT. Như ở phần đầu chúng ta đã đề cập bộ môn lịch sử ở trường THPT có rất nhiều ưu thế trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh, đặc biệt các nhân vật lịch sử, đây là vấn đề mà nếu giáo viên biết dạy kết hợp sẽ đưa lại kết quả cao. Về nhận thức: Giảng dạy các nhân vật lịch sử đúng về nội dung và phương pháp sẽ giúp các em nhận thức được cốt lõi bài học, đánh giá đúng đắn các nhân vật lịch sử. Chẳng hạn biểu hiện của các nhân vật trong cuộc cách mạng qua đó các em có thể nhận thức được rằng tại sao nhân vật này lại được mọi người quý trọng, tôn vinh còn nhân vật kia lại bị người ta xem là tàn bạo độc ác. Từ đó các em sẽ phân biệt được giữa cái thiện và cái ác, chính và tà, hành động nào các em cần nên học, hành động nào không nên làm. Mỗi nhân vật lịch sử đại diện cho một giai cấp một tầng lớp nhất định, nhiều đặc điểm cá nhân tiêu biểu là đặc trưng cho giai cấp mà cá nhân phục vụ hoạt động , cho nên trong học tập lịch sử làm cho học sinh thấy rằng mỗi nhân vật lịch sử nhất là nhân vật đại diện cho quyền lợi dân tộc đều phản ánh một mức nhất định lịch sử của đông đảo quần chúng nhân dân. Về giáo dục: Dạy học các nhân vật lịch sử đúng về nội dung và phương pháp sẽ giúp học sinh tránh được sai lầm của bệnh “ hiện đại hóa lịch sử” những nhận định chủ quan phiến diện và những đánh giá nhận định tình hình thiếu cơ sở khoa học. Những biểu hiện chân thật sinh động về các nhân vật lịch sử sẽ giáo dục các em về đạo đức, tình cảm các em không chỉ biết tri giác (nghe, nhìn, biết) mà còn có những tình cảm yêu ghét thậm chí đối với các em giàu tình cảm có thể “rưng rưng nhỏ lệ” sự biểu hiện tâm lí này nó biểu hiện sự “nhập tâm vào lịch sử, sự hóa thân vào lịch sử” biểu hiện thái độ tâm tư tình cảm của học sinh đối với những gì mà các em nhận thức được. 4 Qua các biểu hiện lịch sử, những hành động của những anh hùng những người quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc vì hòa bình hạnh phúc nhân dân, nó có sức lôi cuốn hùng hồn, sôi nổi đối với các học sinh gây cho các em cảm xúc lịch sử sâu đậm từ đó hình thành các em sự kính phục, lòng tự hào. Trong những hoàn cảnh nhất định các nhân vật lịch sử nó thổi bùng ngọn lửa cách mạng vào tuổi trẻ hình thành nên ở các em luồng sinh khí mới, một cảm nhận mới. Bên cạnh đó sự xuất hiện các nhân vật phản diện, tất yếu sẽ gây nên sự phản ứng ngược lại từ phía học sinh nó khơi gợi các em lòng căm thù hành vi độc ác của các nhân vật. Từ đó hình thành các em lòng yêu cái thiện, bài trừ cái độc ác xấu xa. Về mặt phát triển: Nhìn chung các nhân vật lịch sử, tạo biểu tượng về các nhân vật lịch sử là một trong những phương tiện quan trọng cho hoạt động trí tuệ của học sinh không ngừng phát triển bởi vì trong “khi lĩnh hội những kiến thức khoa học hình thành nhiệm vụ nhận thức đồng thời học sinh cũng phát triển nhận thức của mình” Tư duy học sinh phải có một thời gian hoàn thành, phát triển mới dần dần hoàn thiện. Từ các chi tiết vụn vặt, từ các nhân vật lịch sử qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu sẽ giúp học sinh nhìn nhận tổng quát lại đem lại cách nhìn mới về nhân vật, tức là từ quan điểm, cách nhìn nhận có thể là sai lầm lệch lạc không đầy đủ tiến tới xây dựng những nhân vật, hình tượng rõ ràng mạch lạc. Có thể phân biệt đúng sai, hạn chế, ưu điểm. Vì vậy các nhân vật lịch sử góp phần không nhỏ vào việc phát triển tư duy học sinh. Tuy vậy, học tập lịch sử là một quá trình lao động trí tuệ . Để có hình ảnh về nhân vật lịch sử giáo viên phải tác động vào trí óc học sinh làm nảy nở nhu cầu nhận thức của các em, tiếp đó giáo viên tổ chức các em nghiên cứu các nguồn tư liệu, sử dụng đồ dùng trực quan từng bước làm cho các em nhận thức, hình thành được các hình ảnh biểu tượng nhân vật lịch sử. 5 CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHẮC HỌA CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT. 1. Những yêu cầu cần chú ý: Khi giảng dạy các nhân vật lịch sử giáo viên cần chú ý một số yêu cầu sau: Thứ 1: Giảng dạy các nhân vật lịch sử cần phải tuân thủ lý luận nhận thức theo quan điểm chủ nghĩa Mac- Lênin. Dạy học nhân vật lịch sử cần đảm bảo nguyên tắc “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Muốn vậy phải đảm bảo tính khoa học điều này thể hiện: -Trên cơ sở các sự kiện nhân vật lịch sử từ đó rút ra những kết luận liên quan phản ánh đúng bản chất sự kiện – nhân vật. -Các sự kiện đưa ra phải chính xác, có lựa chọn theo từng mô típ khác nhau. Theo yêu cầu này nó sẽ phục vụ đắc lực trong việc đánh giá nhân vật lịch sử đây là điều quan trọng khi dạy học nhân vật lịch sử từ đó tránh lối “ hiện đại hoá” lịch sử. Đánh giá nhân vật cần tuân thủ sự thật lịch sử phải đặt họ vào thời đại họ sống xem họ làm được gì, chưa làm được gì? Thứ 2: Dạy học các nhân vật lịch sử phải đặt trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, với các nhân vật khác và với sự kiện lịch sử bởi vì chúng ta biết lịch sử là lịch sử quần chúng nhân dân một khi cá nhân đựơc nhân dân ủng hộ thì chắc chắn dành thắng lợi và nếu ngược lại họ thất bại. Bên cạnh đó hoạt động của nhân vật lịch sử sẽ tác động đến các sự kiện khác, có thể hành động của cá nhân sẽ làm thay đổi cục diện lịch sử lúc bấy giờ. Thứ 3: Phải chú ý đến mục đích giáo dục tư tưởng, tình cảm và phát triển nhân cách học sinh. Thứ 4: Trong dạy học các nhân vật lịch sử cần phát huy tính tích cực của học sinh, phương pháp thầy đọc trò chép đã cũ. Hiện nay học sinh phải ở vị trí trung tâm, học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên mạnh dạn phát biểu ý kiến đưa ra nhận xét. Giáo viên kết luận, chốt ý. Như vậy trong giảng dạy nhân vật lịch sử giáo viên phải đảm bảo yêu cầu nêu trên nhưng vấn đề đặt ra là giải pháp này khi đi vào thực tiễn kiểm nghiệm nó có khả thi không. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp sư phạm nhằm giảng dạy tốt về vấn đề này. 2. Một số biện pháp sư phạm cụ thể 2.1 Để khắc sâu hình ảnh nhân vật,giúp học sinh có những biểu tượng cụ thể về nhân vật thì trước hết học sinh phải biết “mặt mũi’’ nhân vật đó như thế nào, kết hợp với những lời kể, mô tả học sinh mới dễ dàng hình dung về nhân vật “Từ trực quan đến tư duy”. Tuy nhiên với kênh hình hiện nay trong SGK (sách giáo khoa) không phải nhân vật nào cũng có hình ảnh minh họa, vậy giáo viên phải ứng dụng công nghệ vi tính vào quá trình giảng dạy. Nhất là đối với những bài học mà nội dung gắn liền với nhân vật lịch sử nhưng SGK lại không có hình ảnh thì giáo viên có thể dùng máy chiếu để học sinh thấy hình ảnh nhân vật đó. Chẳng hạn khi dạy bài 7 (lớp 10-cơ bản), mục 3- Vương triều Mô gôn, nội dung gắn liền với vua A-cơ-ba, vị vua đưa ra chính sách cai trị tiến bộ, tích cực, 6 đưa Ấn Độ phát triển tới đỉnh cao của chế độ phong kiến. Tuy vậy SGK lại không có hình ảnh của ông học sinh rất khó tưởng tượng. Cho nên giáo viên sử dụng máy chiếu để học sinh có hình ảnh trực quan về A-cơ-ba. Hoặc khi dạy mục d của mục 2 bài 16 (lớp 10-cơ bản) Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Đây là chiến thắng có ý nghĩa lịch sử lớn, kết thúc ách thống trị 1000 năm của phong kiến phương Bắc. Mở ra thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc do Ngô Quyền lãnh đạo. Nếu giáo viên chỉ nói mà không cho học sinh xem về hình ảnh của Ngô Quyền, không có biểu tượng về Ngô Quyền thì học sinh rất khó nhớ về những đóng góp của ông trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên SGK lại không có hình ảnh minh họa, vậy giáo viên có thể tìm kiếm tranh vẽ Ngô Quyền hoặc dùng máy chiếu cho học sinh thấy, biết về Ngô Quyền. Ngoài ra giáo viên có thể cho học sinh xem các đoạn phim tư liệu, tuy nhiên vì tiết học chỉ 45 phút nhưng kiến thức mà giáo viên chuyển tải, học sinh phải tiếp nhận lại rất nhiều vì vậy giáo viên chỉ nên chọn những đoạn phim chứa nội dung cô đọng, phục vụ thiết thực cho bài học. Ví dụ khi dạy mục IV “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập”, giáo viên cho học sinh xem đoạn phim tư liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ( Hà Nội). Hoặc khi dạy chiến dịch Việt Bắc thu-đông năm 1947 và chiến dịch Biên gới thu-đông năm 1950, giáo viên cho học sinh xem đoạn phim tư liệu Đại tướng Võ Nguyên Giáp tập 2, phần 2 của đài truyền hình Thanh Hóa. Sau khi xem học không chỉ nhớ những đóng góp quan trọng của Võ Nguyên Giáp trong chỉ đạo chiến dịch, mà qua đó học sinh nhớ nhanh nội dung bài học. Hay khi dạy mục III của bài 23 “Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc”, giáo viên cho học sinh xem đoạn phim tư liệu: Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh- Tổng thống chính quyền Sài Gòn do Trung tá Bùi Văn Tùng viết, Dương Văn Minh đọc vào ngày 30-4-1975. 2.2 Trong việc giảng dạy các nhân vật lịch sử cần phải kết hợp lời nói sinh động truyền cảm của giáo viên với các loại đồ dùng trực quan để hình thành cho các em biểu tượng về nhân vật lịch sử. Điều này xuất phát từ đặc điểm riêng của đề tài là giảng dạy các nhân vật lịch sử , theo tôi đây là cái giáo viên quan tâm hàng đầu. Có thể khẳng định lời nói truyền cảm và giàu hình ảnh của giáo viên đóng vai trò rất lớn trong giáo dục các em nói chung và trong việc giảng dạy các nhân vật lịch sử nói riêng, với lời nói dịu dàng trong trẻo đầy cảm xúc khi trình bày các nhân vật có ảnh hưởng quan trọng trong sự kiện lịch sử, lời nói sinh động để mô tả, kể chuyện, tường thuật về nhân vật lịch sử nhằm cung cấp thêm tư liệu sinh động phưong pháp tạo hình ảnh khách quan đa dạng cho học sinh. Tuy vậy lời nói giáo viên cần chú ý là cái hồn của những lời nói, giáo viên phải nhập cuộc nếu không những lời nói ấy sẽ không gây cảm xúc cho học sinh. Dẫn ra một ví dụ dẫn chứng: Khi giảng dạy nhân vật Crôm Oen(Trong bài Cách mạng tư sản Anh-lớp 10 cơ bản) sau khi giáo viên cho học sinh 7 quan sát chân dung của Crôm Oen (hình 52 sgk) giáo viên có thể diễn đạt một đoạn như sau: “Ôlivơ Crôm Oen (1599-1658) là một địa chủ hạng trung thuộc tầng lớp quí tộc mới ,ông là người tầm thước vạm vỡ và rắn chắc, mái tóc màu hạt dẻ , đôi mắt xám màu thép nhìn xuyên suốt, các mũi hơi to so với các các đường nét khác trên khuôn mặt, tiếng nói vang vang, đanh thép. Khi muốn người ta hiểu mình ông nói mạnh mẽ và có sức thuyết phục, nhưng không hoa văn ...ăn mặc giản dị thường mặc chiếc áo dạ, cổ áo bằng vải thô trắng, đầu đội chiếc mũ tồi tàn, luôn đeo kiếm bên mình” .Tôi tin chắc rằng với lối diễn đạt như vậy kết hợp với hình ảnh trên máy chiếu học sinh sẽ có một cách nhìn mới, sẽ hình dung được nhân vật Crôm Oen –một con người có tài của giai cấp tư sản. Trong việc sử dụng đồ dùng trực quan cần đáp ứng những yêu cầu của bài đảm bảo tính chính xác tính thẩm mĩ, khoa học phù hợp đối tượng học sinh. Tuy nhiên trong việc sử dụng đồ dùng trực quan cần chú ý: - Cần khai thác tốt hình ảnh có trong SGK Dẫn ra một ví dụ: Khi giảng bài 19 (lớp 11-cơ bản), mục 1nhỏ của III để khắc họa cho học sinh về nhân vật Trương Định- tượng trưng cho tinh thần chống Pháp của nhân dân Nam Kì, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác hình 51. Trương Định nhận phong soái. Sau khi cho học sinh xem hình 51 rồi nhận xét hành động của Trương Định giáo viên kết luận: Trương Định (1820-1864) quê ở Sơn Tịnh-Quảng Ngãi. Ông là người cao lớn, nước da trắng, dáng người thanh tú. Ngay sau khi Pháp chiếm thành Gia Định (17/2/1859) ông đã đưa quân đến đóng tại Thuận Kiều, phối hợp với quân đội chính quy của triều đình xung phong đánh giặc. Hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Trương Định làm cho giặc Pháp và triều đình lo sợ. Triều đình đã hạ lệnh bắt ông phải bãi binh, hai lần điều ông đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang và Phú Yên. Khi nghe tin có sắc phong của triều đình, những nghĩa quân trung thành cùng quần chúng nhân dân đã tập hợp xung quanh Trương Định suy tôn Trương Định làm chủ soái để giết giặc, cứu nước, cứu dân. Buổi lễ Trương Định nhận phong soái diễn ra giản dị nhưng trang nghiêm tại một vùng nông thôn Nam Kì, dưới sự chứng kiến của đông đảo nhân dân. Họ làm một lễ đài bằng gỗ, trên đặt hương án, phía sau có bức trướng ghi dòng chữ Hán “ Bình Tây Đại Nguyên soái” (Vị nguyên soái đánh dẹp quân Pháp). Trong buổi lễ, Trương Định giơ tay đón nhận thanh kiếm do một người già có uy tín, đại diện cho nhân dân trao tặng và suy tôn ông làm Bình Tây Đại Nguyên soái. Việc Trương Định kiên quyết không nhận sắc phong của triều đình và đứng về phía nhân dân chông Pháp đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng và làm cho đại diện của triều đình phải kinh ngạc. Nhìn vào bức tranh ta thấy bên phải của bức tranh nhân dân tham dự rất đông, phấn khởi hào hùng, mang theo cờ, các nghĩa binh với vũ khí thô sơ… Cảnh tượng này đối lập với cảnh quan quân triều đình (phía trái bức tranh), viên quan ngơ ngác hoảng sợ, Ngựa quay đầu lại chuẩn bị lên đường, quân lính nhớn 8 nhác. (Trương Định nhận phong soái SGK) Như vậy qua bức tranh học sinh không chỉ thấy được tinh thần dũng cảm, kiên quyết đánh giặc đến cùng của Trương Định mà còn thấy được khí thế đấu tranh của nhân dân Nam Kì, thấy được tinh thần bạc nhược, muốn cầu hòa của triều đình. - Cần xây dựng hệ thống đồ dùng trực quan phù hợp nội dung bài dạy. Ví dụ khi dạy bài 17 (lớp 12-cơ bản), mục 2 nhỏ của mục II “ Giải quyết nạn đói” có thể thiết kế sơ đồ sau để làm rõ hình ảnh Hồ Chí Minh gương mẫu thực hiện chủ trương diệt giặc đói. Ngoài ra để học sinh thấy được Bác cũng là một trong những người tích cực thực hiện biện pháp lâu dài –tăng gia sản xuất, giáo viên cho học sinh xem hình ảnh Bác đang xới đất trồng rau. (Hình ảnh trên máy chiếu năm 1952) - Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với tường thuật, mô tả để tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử cho học sinh. Tóm lại giữa giọng nói truyền cảm cần kết hợp sáng tạo đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng nhất định trong việc giáo dục , tạo biểu tượng về các nhân vật lịch sử cho các em. Trong mối quan hệ này Kharlanop từng nhận xét “ Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp tính trực quan có hiệu quả to lớn trong dạy học”. 2.3 Thông qua việc để học sinh tìm hiểu về chân dung nhân vật. Từ đó tổ chức cho học sinh tự trình bày hiểu biết của mình về các nhân vật cuối cùng giáo viên đưa ra nhận xét kết luận Căn cứ vào thực tiễn hiện nay thì đây là một trong những biện pháp khó bởi vì một giờ học phổ thông chỉ có 45 phút trong khi đó sách và tài liệu lại không được đầy đủ. Tuy vậy căn cứ vào thực tại và đặc điểm nhận thức của học sinh tôi mạnh dạn đề ra phương pháp này. Để thực hiện phương pháp này một cách có hiệu quả trong khâu chuẩn bị giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu những vấn đề gì? - Ở mức độ đầu tiên cần tiếp nhận của học sinh là ngày, tháng, năm sinh, năm mất, đôi nét về hoàn cảnh xuất thân, nội dung về thời đại lịch sử mà nhân vật đó sống và hành động. - Ở mức độ cao hơn học sinh cần tìm hiểu đó là nhân vật đó bắt đầu hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa ...từ khi nào? Thái độ, lập trường, quan điểm chính trị, tư tưởng của nhân vật, những giai đoạn hoạt động của nhân vật, thành công hay thất bại, ảnh hưởng của nhân vật đó vào thời đại mà nhân vật sống. Theo trình tự đó căn cứ vào đối tượng học sinh cho các em trình bày khoảng 3-5 phút, cho cả lớp nhận xét đánh giá từ đó giáo viên kết luận vấn đề một cách hoàn chỉnh. Dẫn ra một minh chứng: Khi dạy bài “Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ ” (tiết 37-lớp 10 cơ bản) giáo viên có thể đưa ra hướng dẫn hoặc một số tư liệu về nhân vật G .Oasinhton cho các em học sinh tìm hiểu ở nhà trước khi dạy đến bài này cho các em trình bày đôi nét hiểu biết của các em về nhân vật này, cả lớp nhận xét đánh giá từ đó giáo viên kết luận một cách hoàn chỉnh: G.Oasinhton (1732-1799) sinh trưởng 9 trong một gia đình chủ nô giàu có ở bang Viêc-gi-ni-a 16 tuổi ông bắt đầu làm kĩ sư đồng thời nhận danh hiệu sĩ quan (thiếu tá) quân đội. Trước chiến tranh giành độc lập, ông đã từng là chỉ huy quân đội Viêc-gi-ni-a, ông còn là thành viên của hội đồng dân biểu Viếc-gi-ni-a, tích cực đấu tranh chống chính sách của Anh hạn chế sự phát triển công thương nghiệp ở thuộc địa. Năm 1774 G.Oa sinhtơn dự Đại hội lục địa lần thứ nhất, năm 1775 dự Đại hội lục địa lần thứ hai. Đại hội đã bầu Oa sinhtơn làm tông chỉ huy các lực lương vũ trang của nghĩa quân (1775). Ở chức vụ này, Oa sinhtơn đã thể hiện những phẩm chất đạo đưc cao cả, lòng dũng cảm tính kiên nghị, tài chỉ huy quân sự và tổ chức. Oa sinhtơn rất có uy tín trong quần chúng-những người thúc đẩy thăng lợi của cách mạng. Năm 1787, hiến pháp Mĩ được thảo dưới sự chủ trì của ông. Hiến pháp cùng với một số điều bổ sung còn có hiệu lực đến ngày nay. Năm 1789 Oa sinhtơn được bầu làm tổng thống đầu tiên của nước Mĩ. Như vậy sau khi các em tự tìm hiểu và sau đó nghe bạn trình bày, giáo viên bổ sung chắc chắn các em sẽ nhớ và hiểu những đóng góp của Oa sinhtơn cho nước Mĩ, đồng thời hiểu vì sao nghĩa quân Bắc Mĩ chiến thắng quân Anh.(Hình ảnh Oa sinhtơn trên máy chiếu) 2.4 Giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập, áp dụng vào tiết học kích thích tính chủ động, tích cực của học sinh để các em tiếp nhận kiến thức hình thành biểu tượng về nhân vật lịch sử. - Trước khi lên lớp giáo viên cần xây dựng cho mình một hệ thống câu hỏi. Các bài tập nhận thức, câu hỏi trắc nghiệm nhằm phát triển tư duy kích thích tinh thần học tập của học sinh. Tuy vậy trong biện pháp này cần phải chú ý nguyên tắc vừa sức đối với từng đối tượng học sinh. Một trong những yêu cầu của phương pháp này là giáo viên phải liên tục tạo ra các tình huống có vấn đề, từ đó tổ chức cho các em giải quyết vấn đề “ phải làm cho giờ học luôn luôn là một chuỗi liên tục của tình huống có vấn đề, rồi vấn đề được giải quyết tức là được nhận thức và tình huống mới lại xuất hiện ”. Chẳng hạn khi dạy về buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911-1918). Sau khi cho học sinh trình bày những hiểu biết của mình về Nguyễn Ái Quốc, giáo viên có thể hỏi: Nguyễn Ái Quốc đã đi đâu để tìm đường cứu nước? Vì sao Nguyễn Ái Quốc đi sang phương Tây mà không đi sang Trung Quốc hay Nhật Bản như các vị tiền bối trước? Tiếp đó trong bài giảng của mình giáo viên tùy từng trường hợp mà đặt ra các tình huống để học sinh giải quyết sau đó kết luận. - Giáo viên đưa ra câu hỏi áp dụng vào tiết học để kích thích tính chủ động, tích cực của học sinh. Ví dụ khi dạy mục II của bài 20 “Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954” có thể sử dụng câu hỏi trắc nghiệm để vừa kiểm tra kiến thức cũ ,vừa củng cố kiến thức bài mới về các nhân vật. 10 Hãy xác định mối quan hệ giữa hai nhóm sự kiện A và B cho phù hợp: A B 1.Sử dụng bộc phá tiêu diệt lô cốt địch. a.Phan Đình Giót. 2.Lấy thân mình chèn pháo b.Bế Văn Đàn. 3.Sáng chế được các vũ khí để giêt c.La Văn Cầu. giặc(súng không giật,súng ba dô ca). 4.Lấy thân mình lấp lỗ châu mai. d.Tô Vĩnh Diện. 5.Lấy thân làm giá súng. e.Trần Đại Nghĩa. Đáp án: 1-c ,2-d ,3-e ,4-a ,5-b . Sau khi cho học sinh làm bài tập xong giáo viên đặt thêm câu hỏi : Hành động của Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện có ý nghĩa như thế nào? Học tập tấm gương của Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện các em có quyết tâm gì trong học tập, rèn luyện, trong sự nghiệp xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình hiện nay? Như vậy sau khi học học sinh không chỉ biết về sự hi sinh anh dũng của các anh hùng dân tộc vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn hiểu để xứng đáng với sự hi sinh đó mình phải hành động như thế nào trong cuộc sống hiện tại . Hay khi dạy bài 23 (lớp 10-cơ bản), mục II “Các cuộc kháng chiến ở cuối thế kỉ XVIII’’có thể đưa ra câu hỏi nhận thức và hướng dẫn trả lời như sau: Hãy đánh giá vai trò của Nguyễn Huệ trong hai cuộc kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh? ý nghĩa của việc đánh bại quân Xiêm, Thanh ? Trả lời: Là người lãnh đạo cả hai cuộc kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh, vai trò của ông thể hiện: - Đoàn kết được toàn dân, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc đứng lên đánh giặc. - Có tầm nhìn chiến lược, xây dựng kế hoạch đánh địch đúng đắn: chọn thời điểm tấn công bất ngờ, hành quân thần tốc, sáng tạo, quyết liệt, dũng cảm trong chiến đấu. Việc Nguyễn Huệ lãnh đạo quân và dân ta đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập tổ quốc. Bên cạnh các câu hỏi trên lớp, các bài tập nhận thức, bài tập thực hành giáo viên còn có thể tự xây dựng cho mình một số khuôn mẫu qua đó nhận xét, đánh giá học sinh. 2.5 Việc giảng dạy các nhân vật lịch sử phải gắn liền công tác ngoại khóa thông qua đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh Tùy theo điều kiện của nhà trường và giáo viên mà trong các tiết học ngoại khóa giáo viên sẽ củng cố thêm kiến thức- hình thành cách nhìn nhận về nhân vật lịch sử . Đối với bộ môn lịch sử Việt Nam đây là một ưu thế,áp dụng trong chương trình lịch sử THPT, giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm các tranh ảnh về nhân vật lịch sử , cho học sinh đi tham quan các viện bảo tàng, các di tích lịch sử hoặc gặp gỡ nhân chứng lịch sử để các em hiểu rõ hơn về nhân vật lịch sử . 11 Công tác ngoại khóa hiện nay đang bị giáo viên và nhà trường THPT sao nhãng. Tìm hiểu, sưu tầm, tranh luận, đọc tài liệu về các nhân vật lịch sử nó sẽ bổ sung rất lớn cho nội dung học chính khóa cho học sinh. Tuy vậy, giáo viên cần chú ý “điều cốt yếu của việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh ở nội khóa cũng như ngoại khóa là đừng làm cho học sinh thụ động tiếp thu kiến thức mà phải phát huy cao độ tính tích cực, tự giác của các em”. 2.6 Để học sinh hứng thú hơn, dễ nhớ, nhớ lâu về các nhân vật lịch sử cũng như vai trò và đóng góp của các nhân vật lịch sử thì giáo viên còn phải vận dụng nguyên tắc kiến thức liên môn nhất là tài liệu văn học (có thể là ca dao, các câu thơ, đoạn thơ, tác phẩm văn học…) làm cho việc học và nhớ các nhân vât lịch sử cũng trở nên nhẹ nhàng hơn bởi qua các năm giảng dạy tôi thấy nhiều lúc hỏi các em ai là người lãnh đạo cuộc kháng chiến nào đó thì các em không nhớ nhưng khi tôi gợi ý ông là tác giả của bài thơ, bài văn nào đó thì các em lại nhớ. Chẳng hạn khi tôi hỏi ai là người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tống thời Lí ?Các em còn phải suy nghĩ thậm chí không nhớ nhưng khi tôi gợi ý đó là tác giả bài thơ Nam quốc sơn hà thì cá em nhớ ngay là Lí Thường Kiệt. Hay khi dạy về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng giáo viên có thể đọc một đoạn thơ trích trong bài Đại Nam Quốc sử diễn ca: Bà Trưng quê ở Châu Phong, Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên. Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân. Qua đoạn thơ trên học sinh không chỉ nhớ Hai Bà Trưng quê ở Châu Phong (Mê Linh-Vĩnh Phúc) mà còn nhớ được nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa. -Khi dạy mục V của bài 21 Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” giáo viên khắc họa cho học sinh hình tượng về Nguyễn Văn Trỗi qua bài thơ “ Hãy nhớ lấy lời tôi ” của Tố Hữu “ Có những phút làm nên lịch sử Có cái chết hoá thành bất tử Có những lời hơn mọi bài ca Có con người từ chân lý sinh ra.” **** “Phải chiến đấu như một người cộng sản Trái tim lớn không sợ gì súng đạn!” **** “Anh đã chết, Anh chẳng còn thấy nữa Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa Như trái tim Anh, ôi lửa nào bằng Phút cuối cùng, chói lọi khối sao băng...” 2.7 Giáo viên khắc sâu hình ảnh nhân vật bằng chính câu nói của nhân vật. Sau nhiều năm giảng dạy tôi thấy đây cũng là một cách rất hiệu quả, học sinh vừa dễ nhớ, vừa rất hứng thú. 12 Chẳng hạn khi dạy mục II của bài 19 (lớp 10-cơ bản) các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông –Nguyên ở thế kỉ XIII. Giáo viên có thể khắc họa nhân vật Trần Quốc Tuấn bằng chính câu trả lời của ông với Thượng hoàng Thánh Tông “ Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng ”. Hay Trần Bình Trọng khi bị giặc bắt, chúng dụ dỗ mua chuộc ông, ông đã mắng lại chúng “ Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc ”. Bằng những câu nói đó học sinh không chỉ nhớ các vị tướng nhà Trần mà còn thấy được hào khí, quyết tâm đánh giặc đến cùng của quân dân thời Trần. Hay khi dạy mục 3 nhỏ của III, bài 19 (lớp 11-cơ bản) giáo viên có thể khắc họa nhân vật Nguyễn Trung Trực bằng câu nói của ông “ Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Hoặc khi dạy mục II của bài 22 (lớp 12-cơ bản) “ Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại Miền Bắc ”, giáo viên có thể khắc họa hình ảnh Nguyễn Viết Xuân bằng lời hô đĩnh đạc tỏ rõ khí phách của anh “ nhằm thẳng quân thù, bắn ”, giữa làn bom đạn, tiếng hô dõng dạc của anh vang lên trên trận địa đã trở thành khẩu hiệu khích lệ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn đơn vị và trên khắp các chiến trường đánh Mĩ. 3. Áp dụng vào một tiết học cụ thể Tiết 31 “PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT (1914)(Lớp 11-ban cơ bản) Mọi vấn đề tôi nêu trên đây xuất phát trên cơ sở lý luận và thực tiễn để chứng minh hiệu quả của nó tôi mạnh dạn áp dụng vào một tiết học cụ thể để thấy được những biện pháp sư phạm đã đề ra nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Giáo viên có thể mở bài theo cách sau: + Giáo viên đặt câu hỏi để HS nêu những hiểu biết cơ bản nhất về các nhân vật lịch sử Phan Bội Châu , Phan Châu Trinh... từ đó giáo viên đặt vấn đề cho hoc sinh thấy cần tìm hiểu sâu hơn về các nhân vật này và các phong trào cách mạng mà họ khởi xướng đầu TK XX. Ngoài những sự kiện lịch sử cơ bản trong Sách giáo khoa , dạy học theo chuẩn kiến thức chuẩn kĩ năng thì giáo viên cần trình bày được những nét chính về nhân vật Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. NỘI DUNG CƠ BẢN HĐ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH 1.Phan Bội Châu (PBC) và *Trình bày những nét chính về PBC và phong xu hướng bạo động: trào Đông Du. GV hỏi: Những hiểu biết của em về nhân vật PBC? -Lãnh đạo phong trào Đông - GV cho HS tìm hiểu trước về nhân vật PBC lúc Du là Phan Bội Châu. này sẽ cho các em trình bày cho cả lớp nghe và cho các em khác bổ sung góp ý. -HS trả lời . - Giáo viên có thể dừng lại điểm qua đôi nét 13 - Phan Bội Châu chủ trương dùng bạo động vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập. Ông tích cực tổ chức lực lượng ở trong nước và tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. -5/1904 PBC lập hội Duy Tân. - 1905-1908 tổ chức phong trào Đông Du đưa thanh thiếu niên Việt Nam sang Nhật học tập. - Tháng 8/1908 theo thỏa thuận với Pháp, chính phủ Nhật trục xuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi Nhật, phong trào Đông Du tan rã. - Dưới ảnh hưởng cách mạng Tân Hợi 6/1912 tại quảng Châu, PBC thành lập Việt Nam quang phục hội, nhằm đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục Việt Nam ,thành lập Cộng hòa dân quốc Việt Nam. - 24/12/1913 PBC bị bắt -Phong trào yêu nước khuynh hướng Tư Sản do về nhân vật PBC kết hợp minh họa bức tranh trong sách giáo khoa : PBC (1867-1940) ở thôn Sa Nam, xã Đông Liệt, huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An hiệu Sào Nam, tự Hải Thụ. Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, quê hương lại là nơi có phong trào chống xâm lược mạnh mẽ, ngay từ hồi trẻ PBC đã sục sôi nhiệt tình cứu nước. Năm 17 tuổi khi Pháp đánh Bắc Kì lần 2 (1882) nửa đêm ông viết “ Bình tây thu bắc” đem dán cây to bên đường cổ vũ nhân dân chống pháp. Năm 19 tuổi hưởng ứng chiếu Cần Vương của Hàm Nghi ông đã tổ chức đội quân học trò ( thiếu sinh quân ) hơn 60 người nhưng chưa kịp hành động thì Pháp kéo tới càn quét, đội thiếu sinh quân giải tán . Tiếp đến là 10 năm dạy học, tuyên truyền yêu nước, giáo dục lớp thanh niên ưu tú, sẵn sàng xã thân vì tổ quốc. Năm 1900 Phan đỗ đầu khoa thi hương (giải nguyên) cũng năm đó thân sinh ông qua đời Phan rảnh việc nhà mới chuyên tâm lo việc cứu nước. Như vậy HS bước đầu nắm được tiểu sử nhân vật PBC. -GV có thể nói ngắn gọn PBC cùng quê Bác Hồ để các em nhớ lâu hơn. -Giáo viên hướng dẫn học sinh tim hiểu thêm các bài thơ,bài văn của PBC như: Hải ngoại huyết thư, Á tế á ca…để thấy ông là một người tràn đầy nhiệt huyết cứu nước, cứu dân và lòng căm thù giặc cao độ. -Đến đây Giáo viên có thể đặt ra tình huống có vấn đề: Tại sao PBC lại dựa vào Nhật Bản? - Cho HS thảo luận trả lời, nhận xét. Sau đó Giáo viên kết luận: PBC cho rằng Nhật Bản cùng da màu cùng văn hóa hán học (đồng văn, đồng chủng) lại đi theo con đường tư bản Châu Âu, giàu mạnh và đánh thắng đế quốc Nga (1905) nên có thể nhờ cậy được. Đường lối cứu nước PBC chẳng khác nào “đuổi Hổ cửa trước, rước Beo cửa sau” -Giáo viên hỏi: Bài học rút ra từ thực tế phong trào là gì? -Cho học sinh thảo luận trả lời rồi giáo viên kết 14 PBC lãnh đạo thất bại. luận lại. -Giáo viên kết luận. + Chủ trương bạo động là đúng nhưng cần phải có sự chuẩn bị chu đáo. +Chủ trương cầu viện bên ngoài cũng đúng nhưng cầu viện Nhật Bản lại là sai bởi dù da trắng hay da vàng thì bản chất của Chủ nghĩa đế quốc là như nhau. + Cần xây dựng thực lực trong nước trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế chân chính +Tuy nhiên, đây là hạn chế mang tính lịch sử vì ở thời điểm đó chưa có phong trào cách mạng nào trên thế giới mở ra hướng đi cho các dân tộc thuộc địa noi theo ngoại trừ gương Nhật Bản da vàng đánh bại đế quốc Nga da trắng, cho nên PBC đã đến Nhật, dựa Nhật cũng là điều dễ hiểu. Như vậy đến đây Giáo viên có thể đặt ra tình huống có vấn đề: Các em có nhận xét gì con đường cứu nước của PBC ? Để các em đánh giá đúng vai trò của PBC đối với lịch sử dân tộc. -Học sinh có thể suy luận trả lời vấn đề. -GV kết luận: tư tưởng cứu nước của PBC vào đầu TK XX mặc dù có những hạn chế về đường lối nhưng bản thân ông cũng như tất cả người dân yêu nước lúc bấy giờ đều mong muốn, khát khao tìm được một con đường để giải phóng dân tộc. Những việc làm của ông đã chứng tỏ ông là một người yêu nước mong muốn giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đó là con đường cứu nước mà PBC đã lực chọn trong nhưng năm đầu thế kỉ XX. Duy Tân hội trong suốt 1904-1911 thực sự đóng vai trò như một đảng chính trị, đóng góp to lớn nhất của Duy Tân hội và PBC là đã phát động mạnh mẽ phong trào yêu nước rầm rộ trong toàn quốc, tập hợp được một lực lượng kháng Pháp khá hùng hậu, chuẩn bị đầy đủ về mặt tinh thần cho cuộc đấu tranh sắp tới. * Trình bày được chủ trương và những hoạt động của nhân vật PCT. -GV có thể cho học sinh trình bày những hiểu biết về nhân vật PCT? 15 -Sau đó GV giớí thiệu PCT kết hợp minh họa tranh ảnh chân dung PCT trong SGK: PCT hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Huy Mã sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.Cha là Phan Văn Bình một chức quan nhỏ, sau 1885 theo phong trào Cần Vương, mẹ là Lê Thị Chung, cũng thông hiểu chữ nghĩa. Sau khi kinh thành Huế thất thủ (1885), cha ông bị sát hại (1887) năm đó ông 16 tuổi. 1900 PCT đỗ cử nhân, sau 1901 đỗ phó bảng rồi 2. Phan Châu Trinh vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan chức (PCT)và xu hướng cải Thừa biện bộ lễ. Tại triều đình ông chứng kiến cách: cảnh mục nát hủ bại của quan trường nên rất chán nản. 7/1904 PCT gặp PBC, hai người trở thành đôi bạn tâm phúc. Cuối năm đó lấy cớ phải chăm lo thờ cúng tổ tiên ông cáo quan về quê. - Trong khi PBC chủ trương Từ đó dốc lòng vào công cuộc cứu nước bạo động thì PCT chủ trương cứu nước bằng biện pháp cải - Ở trong mục này giáo viên có thể cho học sinh cách như nâng cao dân trao đổi nhận xét về hoạt động của PCT sau đó trí,dân quyền, dựa vào Pháp kết luận chốt lại vấn đề. để đánh đổ ngôi vua và bọn - Phong trào Duy tân là một cuộc vận động yêu phong kiến hủ bại, xem đó là nước có nội dung chủ yếu là cải cách về VH-XH, điều kiện tiên quyết để giành gắn liền với việc giáo dục lòng yêu nước, đấu độc lập. tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của - Năm 1906 PCT, Huỳnh ngoại xâm. Tư tưởng Duy tân là hết sức tiến bộ, Thúc Kháng mở cuộc vận vì yêu nước thương dân nên PCT muốn cứu dân động Duy Tân ở Trung Kì. trước. Dựa vào Pháp để thực hiện cải cách kinh -Hình thức hoạt động: tế ,văn hóa, xã hội. Đưa đất nước thoát khỏi +Về kinh tế: chấn hưng thực nghèo nàn, lạc hậu rồi mới đánh đổ giặc ngoại nghiệp, lập hội kinh doanh, xâm giải phóng dân tộc (cứu dân trước ,cứu nước phát triển nghề làm vườn… sau ). Nhưng PCT chủ trương dựa vào Pháp để +Về văn hóa: Mở trường đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại, xem dạy học theo lối mới, diễn đó là điều kiện tiên quyết để giành độc lập, điều thuyết các vấn đề VH-XH, này thể hiện tầm nhìn hạn hẹp của một sĩ phu cổ vũ theo cái mới, vận động yêu nước như ông khác nào “xin giặc rủ lòng cải cách trang phục và lối thương”. Ông chưa nhìn thấy bản chất của Chủ sống (cắt tóc ngắn, mặc áo Nghĩa Thực dân nói chung, bản chất của kẻ thùngắn...) Thực dân Pháp nói riêng. - Cuộc vận động chuyển Như vậy với hai xu hướng bạo động và cải thành phong trào chống thuế cách trong phong trào yêu nước và cách mạng ở 1908 ở Trung kì. TD Pháp Việt Nam đầu thế kỉ XX Phan Bội Châu và Phan đàn áp, dập tắt phong trào. Châu Trinh đã tiếp thu ánh sáng văn minh của 16 PCT cùng nhiều đồng chí thời đại, cũng như tìm những lực lương có thể hỗ khác của ông bị bắt . trợ cho cuộc đấu tranh yêu nước Việt Nam. Bước đầu tạo được mối liên kết quốc tế cho cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam. Hai nhà chí sĩ PBC, PCT có vai trò hết sức lớn, là linh hồn của phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Mặc dù cả PBC và PCT đều còn những hạn chế trong chủ trương, đường lối cứu nước của mình nhưng đó là hạn chế của lịch sử, của thời đại. * Cuối bài này để ôn tập, củng cố cho học sinh, giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập để các em nhớ kĩ bài đặc biệt là các nhân vật lịch sử. Ví dụ :Hãy nối tên nhân vật ở ô bên trái với sự kiện lịch sử ở ô bên phải cho phù hợp. Nhân vật lịch sử Sự kiện lịch sử Phan Bội Châu Khởi nghĩa Bãi Sậy Hoàng Hoa Thám Phong trào Duy Tân Phan Châu Trinh Phong trào Đông Du Phan Đình Phùng Khởi nghĩa Yên Thế Nguyễn Thiện Thuật Khởi nghĩa Hương Khê Hoặc Giáo viên cho Học sinh về nhà làm bài tập : * Phân tích sự giống và khác nhau giữa hai xu hướng bạo động và cải cách đầu TK XX ( chủ trương và phương pháp ) để HS nắm rõ hơn về nhân vật PBC và PCT. 17 II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN: - Khi áp dụng các biện pháp đã nêu trên vào quá trình giảng dạy tôi thấy học sinh học hứng thú hơn, nhớ lâu hơn, nhận thức đúng về các nhân vật lịch sử cũng như vai trò và những đóng góp của các nhân vật lịch sử vào tiến trình phát triển lịch sử. - Học sinh không thấy e ngại với những câu hỏi, bài tập về các nhân vật lịch sử. - Kết quả trước và sau khi áp dụng như sau: Thực trạng trước khi sử dụng Kết quả sau khi sử dụng Lớp Tỉ lệ ( trên trung bình ) Lớp Tỉ lệ ( trên trung bình ) 10 A1 10 A5 10 A7 11 C1 11 C2 12 B1 12B11 45 % 46 % 35,5 % 40,5 % 45,2 % 42% 47,5% 10 A1 10 A5 10 A7 11 C1 11C2 12 B1 12 B11 50% 55,3 % 47,5 % 61 % 65 % 57% 60,5% 18 KẾT LUẬN: Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu trên của đề tài, Tôi có một số ý kiến. 1. Qua nghiên cứu chúng ta có thể thấy việc đưa bài giảng các nội dung phong phú về các nhân vật lịch sử kích thích tính chủ động sáng tạo của học sinh nó không chỉ giúp các em biết sử, hiểu sử mà con biết vận dụng vào cuộc sống đây là nội dung khá mới mẻ trong phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. 2. Dạy học các nhân vật lich sử hay tạo biểu tượng nhân vật Lịch sử có tác dụng rất lớn trong việc phát triển nhận thức, hình thành nên những tư tưởng tình cảm tốt đẹp trong các em, trau dồi cho các em đức tính, phẩm chất, đạo đức cần phải có của người công dân. 3. Phần lớn sách giáo khoa hiện nay về vấn đề nhân vật lịch sử còn ít được đề cập hoặc đề cập sơ sài đó là chưa kể các nhân vật bị bỏ qua. Hi vọng trong thời gian tới việc đổi mới sách giáo khoa sẽ được các nhà biên soạn quan tâm đến nhân vật lịch sử - đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh 4. Tuy nhiên mọi phương pháp đề ra phải luôn xuất phát từ thực tiễn giáo dục hiện nay. Để dạy tốt nội dung này giáo viên cần phải có một giải pháp sư phạm cần thiết giúp các em tiếp cận tri thức. Trong quá trình nghiên cứu và viết, chắc chắn đề tài sáng kiến kinh nghiệm này còn có những hạn chế, tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2013 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác Người viết Nguyễn Ngọc Thanh 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương pháp dạy học lịch sử .chủ biên GS Phan Ngọc Liên-Nhà xuất bản giáo dục 2. Những mẩu chuyện lịch sử thế giới-tập 2.chủ biên Đặng Đức An-Nhà xuất bản giáo dục 3. Chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử. Đồng chủ biên GS Phan Ngọc Liên,PGS Trịnh Đình Tùng,PGS Nguyễn Thị Côi ,TS Trần Vĩnh Tường . 4. Đại cương LỊCH SỬ VIỆT NAM –TẬP 1-2-3.Chủ biên Trương Hữu Quýnh,Đinh Xuân Lâm,Lê Mậu Hán-Nhà xuất bản giáo dục. 5. Sách giáo khoa LỊCH SỬ lớp 10,11,12-ban cơ bản-Nhà xuất bản giáo dục 6. Thiết kế bài giảng lịch sử 10,11 cơ bản-Nhà xuất bản Hà Nội 7.Tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử để giáo dục tư tưởng cho học sinh. TS Đặng Vũ Hồ. ĐH sư phạm Huế. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất