Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường thpt tri...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường thpt triệu sơn 2

.PDF
19
435
71

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU HỌC SINH ĐI CHẬM, BỎ GIỜ Ở TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2 Người thực hiện: Vũ Văn Lộc Chức vụ: Cấp ủy chi bộ, Tổ trưởng CM SKKN thuộc lĩnh vực quản lý THANH HÓA NĂM 2013 PHỤ LỤC Mục Nội dung Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 I. LỜI MỞ ĐẦU 1 II THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1 1. Thực trạng 1 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng 1 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ B. 2 I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 2 1. Tình hình học sinh đi chậm, bỏ gờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 2 2. Cơ sở để tìm ra các giải pháp 2 2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn 2 2.2 Nguyên nhân dẫn đến học sinh đi chậm và bỏ giờ 4 2.3 Nguyên tắc lựa chọn bài tập 5 2.4 Cơ sở thực tiễn của sáng kiến 5 II. CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN 6 1. Phương pháp tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm 6 2. Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm 6 III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 6 1. Kết quả nghiên cứu 6 1.2 Nguyên nhân khách quan 6 1.3 Nguyên nhân chủ quan 7 2. 3. Lựa chọn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 Ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ C. 8 17 17 1. Kết luận 17 2. Kiến nghị 18 A. ĐẶT VẤN ĐỀ. I. LỜI MỞ ĐẦU. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Trong tình hình đất nước đang hội nhập và phát triển hiện nay, việc tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân… ( Điều 23-Luật giáo dục). Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về hiện tượng học sinh cá biệt, như học sinh bỏ giờ và bỏ học tụ tập gây gổ đánh nhau, có vụ dẫn đến tử vong... Vấn đề này đã trở thành một mối quan ngại của dư luận, nhất là đối với gia đình và nhà trường. Aristoste (384-322-TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu trên trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức. . Còn chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà trường như: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà dũng cảm”, “Con người cần có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, mà nếu thiếu một đức thì không thành người”. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 1. Thực trạng. Hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm như: bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa. Hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư sản, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc không lành mạnh, như tình trạng đi học chậm, bỏ giờ, bỏ học đi chơi điện tử, bida…vẫn còn phổ biến ở cấp học THPT. 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. Các trường THPT trong huyện Triệu Sơn nói chung và THPT Triệu Sơn 2 nói riêng cũng không đứng ngoài thực trạng đó. Trong những năm qua, nhiều gia đình, cha mẹ mải lo làm ăn, lo kiếm tiền, không chăm lo đến sự học hành, đời sống của con trẻ. Điều kiện giao thông đường xá đi lại còn khó khăn, nhất là vào những hôm trời mưa, một số học sinh ở xa trường phần nào đã ảnh hưởng đến việc đi lại của các em. Gần trường hàng loạt các hàng quán mọc lên với đủ loại các trò chơi từ đánh bida, bóng bàn, games, chát…nhằm móc tiền học sinh. Một số thanh niên không có việc làm ở các xã lân cận thường xuyên tụ tập, chơi bời ở một số hàng quán trước cổng nhà trường và đã tìm cách lôi kéo một số học sinh hay đi chậm, bỏ giờ, bỏ học cũng tham gia vào các cuộc chơi vô bổ này. Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan như đã phân tích, là một giáo viên được Hiệu trưởng giao nhiệm vụ làm công tác phụ trách an ninh nề nếp học sinh tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT triệu Sơn 2 huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá.” B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN. 1. Tình hình học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 . Trường THPT Triệu Sơn 2 nằm ở phía Nam huyện Triệu Sơn, đa số nhân dân sống chủ yếu bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, ý thức về học tập của con em còn kém. Hơn nữa hiện nay trước cổng trường có một số hàng, quán thường là nơi học sinh tụ tập, chơi bời, tiêu tiền của bố mẹ gây không ít khó khăn cho nhà trường trong việc quản lý giáo dục học sinh. Một số em do kinh tế gia đình khó khăn nên bố mẹ các em phải đi làm ăn ở xa, các em ở nhà với ông bà, người thân hoặc ở nhà một mình nên không có người quản lý dẫn đến hay nghỉ học, chơi bời, lêu lổng rất dễ hư hỏng. Phần lớn các em chưa có ý thức tự giác thực hiện nội quy, quy định của nhà trường, của ngành và các quy định của lớp đề ra, ý thức tổ chức kỷ luật chưa tốt. Mặt khác hiện nay có rất nhiều hình thức vui chơi giải trí như Bida, trò chơi game …bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực ảnh hưởng xấu đến đạo đức học sinh. 2. Cơ sở để tìm ra các giải pháp. *Nhiệm vụ 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn để lựa chọn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ, ở trường THPT triệu Sơn 2 huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hoá *Nhiệm vụ 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp. 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.1.1. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục. Nghị quyết Đại hội IV nêu rõ: “... Tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước. Nội dung chủ yếu của công tác cải cách giáo dục gồm ba mặt: cải cách cơ cấu của hệ thống giáo dục, cải cách nội dung giáo dục và cải cách phương pháp giáo dục. Nghị quyết Đại hội VI xác định: Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, cần coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng. Đến Nghị quyết Đại hội VII nêu rõ: mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội VIII. Nghị quyết nhấn mạnh với những nội dung chủ yếu: cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Tại Đại hội IX, về vấn đề giáo dục và đào tạo, Nghị quyết nêu rõ: “... Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục... Tại Đại hội X, Đảng chủ trương: Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt"; đồng thời xác định đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao kết hợp với phát triển khoa học - công nghệ là một trong ba khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Nhìn chung qua các Đại hội của Đảng đều quan tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Trong đó, trí dục, đức dục được coi là những vấn đề hệ trọng nhằm giáo dục hình thành nhân cách người học sinh người chủ tương lai của đất nước, những người lao động phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. 2.1.1.2 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 16 - 18. Học sinh các trường THPT thường ở lứa tuổi 16 - 18 để có cơ sở khoa học cho việc lựa chọn các biện pháp áp dụng, chúng ta cần tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của lứa tuổi này có liên quan đến việc đi chậm và bỏ giờ của một số học sinh. 2.1.1.3. Đặc điểm về sinh lý ở lứa tuổi 16 - 18. Do hệ thống thần kinh là một hệ thống phát triển sớm của cơ thể, vì vậy ở lứa tuổi 16 - 18 trọng lượng não của các em đã đạt mức từ 1480 gam đến 1490 gam tương đương với trọng lượng não của người trưởng thành. Chức năng của các trung khu như: Thị giác, thính giác, xúc giác, cảm giác, trung khu vận động ... tương đối hoàn thiện. Vì vậy các em có thể nhanh chóng học hỏi nâng cao tri thức và các kỹ năng của cuộc sống. Một đặc điểm sinh lý nổi bật khác ở lứa tuổi 16 - 18 là sự phát triển giới tính. Do các hoóc môn giới tính phát triển làm cho sự phát triển cơ thể cũng có nhiều khác biệt giữa nam và nữ. Ở nữ ngực và mông phát triển, cũng như xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt... 2.1.1.4. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 16 - 18. Đặc điểm nổi bật về tâm lý của lứa tuổi 16 - 18 là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cả 2 nhân tố bên trong và bên ngoài. * Nhân tố bên trong gồm các yếu tố như sự khát vọng ham muốn hiểu biết, khám phá thế giới. Ở tuổi 16 - 18 là giai đoạn các em luôn muốn thể hiện mình là "người lớn" nên mọi hành động của các em đều bắt trước người lớn. Ở tuổi 16 - 18 về tình cảm do các em thích làm người lớn vì vậy mà các biểu hiện nghĩa hiệp, sự vui buồn chia xẻ thường đan xen nhau. Các em có thể vui khi được thoả mãn các mong muốn của mình song cũng rất bất bình khi bị xúc phạm. Trong mọi hoạt động của cuộc sống. Các em thường vui sướng phấn khởi, tự hào rất cao khi giành được chiến thắng và gặp thuận lợi trong cuộc sống. Song lại hay chán nản bất mãn hoặc giảm xút ý chí khi gặp khó khăn hoặc thất bại. Ở tuổi 16 - 18 quá trình nhận thức của các em cũng được nâng cao rõ rệt. Các em có thể nhận thức được cái hay, cái đẹp của sự vật, cái đúng, cái sai của một vấn đề một cách bản chất hơn. Tuy nhiên, những nhận thức này còn có tỷ lệ chuẩn mực chưa cao và độ sâu sắc chưa đạt mức của người trưởng thành. Riêng ở độ tuổi này do giới tính mà tâm lý của nam và nữ đã có sự khác biệt tính nhạy bén, độ chín chắn trong các nhận thức ở nữ cao hơn. Song nữ cũng dễ tự ti và tự ái hơn nam ... * Về nhân tố bên ngoài bao gồm các yếu tố từ ngoại cảnh tác động đến tâm lý của các em 16 - 18 tuổi. Cũng chính do tính ham hiểu biết, mong muốn khám phá thế giới cũng như khát vọng giành chiến thắng ở các em rất cao nên một khi giành được 1 thắng lợi, tạo ra được một chiến tích lập nên một thành tựu nào đó ... thường làm cho các em phấn chấn tự hào tự tin vào bản thân. Tóm lại, sự phát triển và lớn lên về mặt sinh lý cũng là một quá trình làm cho tâm lý của các em được hoàn thiện. Quá trình phát triển về sinh lý và tâm lý của các em có tính giai đoạn. Nắm vững được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em để áp dụng các biện pháp cho phù hợp trong công tác quản lý học sinh ở trường THPT. 2.2. Những nguyên nhân dẫn đến học sinh đi chậm và bỏ giờ. 2.2.1. Vì đường đi học quá xa, xe hay bị hỏng dọc đường. ( đối tượng này không nhiều và không thường xuyên liên tục) 2.2.2. Vì ngủ quên, trời mưa hoặc đường bẩn ( đối tượng này không nhiều và không thường xuyên liên tục). 2.2.3. Vì đi xe buýt nên lỡ lốt, mất lốt, xe hư... (đối tượng này có nhưng rất ít) 2.2.4. Vì học không hiểu bài, ham mê điện tử, không có sự theo dõi, giám sát của gia đình, bố mẹ đi làm xa, mồ côi hoặc ở với Ông bà. (đối tượng này khá phổ biến). Vì ở độ tuổi này, các em rất dễ bị lôi kéo, rất dễ thể hiện cái tôi. Trong khi ngoài xã hội quá nhiều cái cám dỗ nên quan tâm đến việc chuyên cần cho các em là một việc làm rất cần thiết nhằm giúp các em đạt kết quả tốt trong học tập. Tóm lại: Hầu như sự vắng mặt không phép, đi chậm, đi học không đều và bỏ giờ thường rơi vào một nhóm đối tượng học sinh, phần lớn là học sinh yếu, kém. Các em hình như thích thì đi học, không thích thì nghỉ, điều đó dẫn đến học tập sút kém, ảnh hưởng đến nề nếp học tập của lớp và nhà trường. Thực ra, đối với học sinh khá giỏi hiếm khi nào các em muốn nghỉ học. Vì các em nhận thấy qua một tiết học các em học được rất nhiều điều lý thú, kiến thức được mở mang, tầm hiểu biết xa hơn. Nhưng ngược lại, đối với những học sinh còn lại thì các em cảm thấy tiết học nặng nề, tâm trạng luôn luôn chán nản, lo âu (nếu thầy, cô hỏi tới không hiểu thì “quê”, hay lên bảng không thuộc bài thì bị rầy, bị ghi sổ đầu bài, bị làm kiểm điểm và bị mời phụ huynh...). Thêm vào môi trường khách quan ở ngoài tác động, một số học sinh bỏ học rủ rê, thế là mầm mống “cúp tiết” hay nghỉ học không phép bắt đầu xảy ra. Đầu tiên, một tuần nghỉ một ngày, sau đó tăng lên hai ngày rồi dần dần đến ba, bốn ngày. Nếu giáo viên chủ nhiệm không kịp thời nắm bắt và tìm hiểu nguyên nhân để kịp thời thông báo đến phụ huynh thì chắc chắn số ngày nghỉ của các em sẽ nhiều hơn thế nữa. Hệ quả kéo theo là kết quả học tập của các em sẽ vô cùng tồi tệ. Theo tôi, trước tiên là phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh nghỉ học không phép, bỏ tiết?. Nguyên nhân do các em bị lỗ hổng kiến thức, các bài giảng của thầy, cô các em tiếp thu chậm, không hiểu bài kỹ, dẫn đến không biết làm bài tập, các em luôn mang mặc cảm mình học “ngu”, tâm trạng chán nản, vào lớp học không tập trung, nói chuyện, làm thầy cô bực mình. Thầy cô khiển trách - về nhà phụ huynh lại la rầy các em. Từ đó các em đâm ra nản chí, nảy sinh ý nghĩ chốn học một buổi đi chơi thử, nếu thầy, cô không biết, cha mẹ không phát giác ra kịp thời, thì các em sẽ tiếp tục nghỉ thử lần thứ hai, thứ ba, dần dần thành nghỉ cả một tuần, nửa tháng… và từ đó các em từ từ rời xa lớp học, rời xa bạn bè và thầy cô hồi nào mà các em chẳng hay. 2.3. Nguyên tắc lựa chọn bài tập. Để đảm bảo tính khách quan trong quá trình nghiên cứu và lựa chọn được các các biện pháp phù hợp. qua tham khảo các tài liệu, bạn bè, đồng nghiệp tôi xây dựng nguyên tắc lựa chọn bài tập như sau: Thứ nhất: là phải dựa vào yêu cầu nhiệm vụ công tác quản lý học sinh trong hệ thống trường THPT. Thứ hai: là phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, cụ thể là đối tượng học sinh cá biệt hay đi chậm, bỏ giờ. Thứ ba: là phải dựa vào nguyên tắc giáo dục đạo đức học sinh; Như quan sát, theo dõi hàng ngày về việc thực hiện nội quy, quy chế của trường lớp rồi động viên, khích lệ, nhắc nhở và nghiêm khắc... Thứ tư: là khi lựa các biện pháp phải phù hợp với đặc điểm tình hình của từng trường, từng khu vực và từng vùng miền. Thứ năm: là khi lựa chọn các biện pháp phải được nhà trường, gia đình và xã hội đồng tình hưởng ứng. 2.4. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến. 2.4.1. Về cơ sở vật chất. Trường THPT Triệu Sơn 2 huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh có cơ sở vật chất khá khang trang, tường rào cao kiên cố đáp ứng tốt công tác quản lý học sinh. 2.4.2. Về phương pháp quản lý học sinh của nhà trường các năm trước. Trong các năm trước đối với công tác quản lý học sinh của trường THPT Triệu Sơn 2 làm cơ bản nghiêm túc như: học sinh đi chậm đến giờ đóng cửa không cho vào, học sinh bỏ giờ thì giáo viên chủ nhiệm thông báo về cho gia đình, cho học sinh viết kiểm điểm... không những mình trường THPT Triệu Sơn 2 đã thực hiện những biện pháp trên mà hiện nay còn rất nhiều trường trên địa bàn huyện Triệu Sơn, Trung du, Miền núi và kể cả một số trường đồng đằng và thành phố cũng nằm trong tình trạng này. II. CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN. 1. Phương pháp và tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm. 1.1. Phương pháp 1.1.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu. 1.1.2. Phương pháp phỏng vấn. 1.1.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm. 1.1.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 2. Tổ chức viết sáng kiến: 2.1. Thời gian viết skkn: năm học 2012 – 2013. 2.2. Đối tượng của sáng kiến.. Là những học sinh cá biệt hay đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2. Để đánh giá hiệu quả tôi áp dụng phương pháp so sánh kết quả học sinh đi chậm, bỏ giờ của năm học 2011 - 2012 với kết quả thực nghiệm năm học 2012 - 2013 . III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. 1. Kết quả nghiên cứu.. 1.1. Hiện tượng học sinh cá biệt như thường xuyên đi chậm, bỏ giờ và vào các quán chơi điện tử, bida... của trường THPT Triệu Sơn 2 và một số trường trong tỉnh mà tôi thường gặp. Bằng phương pháp quan sát sư phạm tình trạng học sinh thường xuyên đi chậm, bỏ giờ, vào các quán chơi điện tử, bida... đồng thời phỏng vấn, trao đổi với các giáo viên, các em học sinh và đặc biệt phụ huynh học sinh và những người dân sống xung quanh trường, về những hiện tượng học sinh đi chậm, bỏ giờ, vào các quán chơi điện tử, bida... tôi đã tổng hợp được một số nguyên nhân dẫn đến hiện tượng vi phạm của một số học sinh như sau: 1.2. Nguyên nhân khách quan. *Bao gồm những tác động sau: 1.2.1. Tác động xã hội. Nguyên nhân sự phối kết hợp các lực lượng đoàn thể trên địa bàn nhà trường đóng chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên, chưa liên tục, để giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi cho các em học sinh an tâm học tập vượt khó đến trường. Nhưng địa phương chưa quản lý, chấn chỉnh kịp thời những thanh niên hư hỏng đã phần nào ảnh hưởng đến nhận thức của học sinh. Nguyên nhân cho thấy nữa là địa phương và các cơ quan chức năng của huyện như công an, quản lý thị thường... của huyện chưa quản lý được hiện tượng các hàng quán mọc lên trái với quy định như: các quán chơi điện tử còn nằm trong phạm vi 200m so với cổng trường, các quán dịch vụ cầm đồ không có giấy phép kinh danh... 1.2.2. Tác động của gia đình. Từ thực tế điều tra cho thấy, tình trạng học sinh đi chậm, bỏ giờ chịu ảnh hưởng rất lớn từ phía gia đình như: Kinh tế quá khó khăn: Đây là nguyên nhân tác động đến việc đi học chậm, bỏ giờ của học sinh. Học sinh phải dành nhiều thời gian và sức lực cho việc giúp đỡ gia đình, nên hầu hết kết quả học tập của các em bị giảm sút, tâm lí chán học, không hiểu bài, sấu hổ bạn bè nên nảy sinh đi chậm, bỏ giờ rồi dẫn đến bỏ học. Kinh tế của một số gia đình khá giả: Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến học sinh hay đi chậm, bỏ giờ và tạo bè, phái gây mất trật tự trong và ngoài nhà trường. Đây là những học sinh mà theo một số bạn bè thường hay gọi là “con nhà đại gia”, các em hầu như không phải làm việc gì và chỉ biết hưởng thụ và đòi hỏi, bố mẹ thì chỉ lo làm kinh tế mà không quan tâm đến việc học tập, đi lại của con em mình. Ở lứa tuổi này các em rất muốn tự khảng định mình, nhân tiện gia đình có điều kiện nên các em tụ tập ăn quà, chơi bời và không chú ý đến học tập dẫn đến lực học ngày càng yếu, chán nản sinh ra đi chậm, bỏ giờ, nói dối bố mẹ và thầy cô... Một số gia đình có quan niệm “Học biết ít chữ là được”. Do chưa thấy được tầm quan trọng của việc học tập, nên một số phụ huynh có suy nghĩ nông cạn như trên vì vậy họ thiếu quan tâm và buông lỏng việc học tập của con em mình. 1.2.3. Tác động của nhà trường. Bao gồm một số nguyên nhân chủ yếu sau: Hoạt động của tổ trực ban nhà trường còn cứng nhắc, chưa linh hoạt, chưa phối hợp chặt chẽ, kịp thời thông tin với chủ nhiệm về học sinh đi chậm, bỏ giờ. Biện pháp giáo dục của một số giáo viên chủ nhiệm trong nhà trường còn buông lỏng hoặc quá khắt khe, chưa có biện pháp giáo dục đối tượng học sinh cá biệt cho phù hợp, chưa phối hợp chặc chẽ và kịp thời với phụ huynh trong việc quản lý học sinh. Tóm lại: Ba nhân tố bên ngoài bản thân học sinh đó là; môi trường xã hội, gia đình và nhà trường đã tác động rất lớn đến việc đi chậm, bỏ giờ của một số học sinh trong nhà trường. 1.3. Nguyên nhân chủ quan. Ngoài những nguyên nhân khách quan đã nêu, còn có những nguyên nhân chủ quan của chính bản thân học sinh dẫn đến hiện tượng đi chậm, bỏ giờ. 1.3.1. Học kém, chán học. Như ta đã biết, có học tốt, hiểu bài, tiến bộ mới kích thích sự hứng thú học tập, ngược lại học kém, mất căn bản, không đủ khả năng tiếp thu kiến thức mới làm cho các em mặc cảm dẫn đến hay đi chậm, bỏ giờ đi chơi bời ở một số hàng quán, đây là nguyên nhân khá phổ biển ở học sinh THPT. 1.3.2. Ham chơi, lười học. Do học kém, lại thiếu sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, của thầy cô chủ nhiệm, bạn bè, các em càng chán nản, bỏ bê việc học tập, lêu lỏng tìm thú vui riêng cho mình. 1.3.3. Bắt chước bạn. Bắt đầu từ sự tụ tập, rủ rê, lôi kéo của bạn bè, các em trở nên lêu lỏng, ham chơi, lười học, trốn học, xem nhẹ việc học dẫn đến kết quả cuối năm phải thi lại hoặc ở lại. 1.3.4. Lưu ban, mặc cảm. Do lưu ban nên các em phải chịu sức ép tâm lý quá lớn từ phía bạn bè, thầy cô giáo, gia đình. Các em thấy mặc cảm rồi dẫn đến tình trạng thờ ơ trong việc học tập, không chú ý học và hay lôi kéo bạn bè nói chuyện, bỏ giờ. Kết luận: Những nguyên nhân đã nêu trên (khách quan và chủ quan) dẫn đến thực trạng học sinh đi chậm, nhất là bỏ giờ của học sinh thì nguyên nhân khách quan chiếm tỉ lệ khoảng gần 50%, nguyên nhân chủ quan chiếm tỉ lệ khoảng hơn 50% có thể thấy, việc đi chậm, nhất là bỏ giờ của học sinh không chỉ xuất phát từ một nguyên nhân riêng lẻ, mà chịu sự tác động, chi phối từ nhiều phía gia đình, nhà trường, xã hội và nhận thức của bản thân học sinh. Kết quả được trình bày ở bảng 1 và bảng 2. Bảng 1: Kết quả quan sát sư phạm đối với số lượt học sinh bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá (tính trong năm học 2011 – 2012 ) là: 558 học sinh. Nguyên nhân sai phạm Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân chủ quan Số học sinh mắc phải 277 281 Tỷ lệ % 49.6 50.4 Qua kết quả tại bảng 1 cho thấy tỉ lệ số lượt học sinh bở giờ kể cả khách quan và chủ quan còn đang cao. Bảng 2: Kết quả quan sát sư phạm đối với số lượt học sinh đi chậm ở trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá. (tính trong năm học 2011 – 2012 ) là: 5486 học sinh. Nguyên nhân sai phạm Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân chủ quan Số học sinh mắc phải 2686 49.9 Tỷ lệ % 49.1 50.9 Qua kết quả tại bảng 2 cho thấy tỉ lệ số lượt học sinh đi chậm của học sinh nhà trường còn rất cao. Tóm lại: Thông qua bảng 1 và bảng 2 cho ta thấy tình trạng học sinh cá biệt đi học chậm, bỏ giờ trong năm học 2011 – 2012 của nhà trường còn nhiều. 2. Lựa chọn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT triệu Sơn 2 huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá Nhằm mục đích nghiên cứu lựa chọn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm, bỏ giờ ở trường THPT triệu Sơn 2 huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá, qua nghiên cứu thực tiễn, hỏi ý kiến học sinh, giáo viên, phụ huynh và người dân xung quanh trường tôi đã tổng hợp được một số biện pháp sau: Biện pháp 1: Tăng cường quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước cho học sinh. Cách tiến hành: Cần nhấn mạnh cho học sinh hiểu giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, cho nên Đảng ta rất chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng và nhà nước luôn luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chính vì thế phải để cho các em thấy được vai trò chức trách nhiệm vụ của học sinh trong việc tham gia học tập xây dựng nhà trường và xã hội. Qua đó giáo dục cho các em phải có ý thức cùng nhau vươn lên để xây dựng nhà trường ngày càng phát triển. Biện pháp 2: Nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm của các thành viên, tổ chức trong nhà trường trong công tác giáo dục quản lý học sinh. Cách tiến hành: Ngay đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường phải quán triệt trong hội đồng giáo dục về nhiệm vụ, trách nhiệm giáo dục và quản lý học sinh nhất là học sinh được coi là cá biệt, đó là nhiệm vụ của mọi thành viên trong nhà trường chứa không phải của riêng ai, giáo dục đạo đức cho học sinh đặc biệt là học sinh cá biệt là một quá trình thường xuyên, liên tục, diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Một giờ dạy trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức khoa học cho học sinh mà còn giáo dục cho các em những hành vi, cử chỉ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Do vậy Giáo viên bộ môn phải lồng ghép giáo dục đạo đức học sinh thông qua bài học, tiết học đặc biệt như môn Giáo dục công dân, Quốc phòngAn ninh, Thể dục... thường xuyên nhắc nhở uốn nắn những sai phạm của học sinh cá biệt trong giờ học như ăn nói, tác phong, giáo dục tính kiên chì, tính chịu đựng và tính khẩn chương. Biện Pháp 3: Xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực để học sinh noi theo. Cách tiến hành: Như chúng ta đã biết Khi phát động phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã nói rõ: phong trào này nhằm "thiết lập lại môi trường sư phạm với 6 đặc trưng là trật tự kỷ cương, trung thực, khách quan, công bằng, tình thương và khuyến khích sáng tạo, hiệu quả". Đây là nội dung rất cơ bản của văn hóa học đường. Tác dụng tích cực của văn hóa học đường là xây dựng nhân cách cho học sinh, sinh viên chống lại lối sống tiêu cực. Chính vì thế nhà trường cần phải xây dựng một môi trường sư phạm tốt. Tập thể Hội đồng giáo dục nhà trường phải gương mẫu về mọi mặt, phải đoàn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh cá biệt. Phải không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình, phải thương yêu, tôn trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh cá biệt, đồng nghiệp, mỗi thầy, cô giáo phải là tấm gương đa chiều cho học sinh noi theo. Biện pháp 4: Phát huy vai trò tự quản của tập thể và tự rèn luyện của học sinh. Cách tiến hành: Đối với đội ngũ cán bộ của lớp cần giáo dục cho các em có tính trung thực, cách thức duy chì mọi hoạt động của lớp nhất là khi không có giáo viên chủ nhiệm. Ban cán sự lớp phải có chức năng báo cáo với giáo viên chủ nhiệm tất cả các trường hợp bất thường xảy ra trong lớp đặc biệt như học sinh hay đi chậm, bỏ giờ... để có biện pháp sử lý kịp thời. Đối với học sinh trong lớp cần giáo dục cho các em ý chí và nghị lực vươn lên, như phải hoàn thành nhiệm vụ của người học sinh, không vi phạm nội quy và phải biết khắc phục những hạn chế vươn lên ở mọi lúc mọi nơi. Biện pháp 5: Tổ chức điều tra nắm bắt hoàn cảnh của từng học sinh cá biệt hay đi chậm, bỏ giờ. Cách tiến hành: Tổ chức điều tra nắm hoàn cảnh của từng học sinh cá biệt hay đi chậm, bỏ giờ để giúp học sinh “cá biệt” xóa bỏ được mặc cảm tự ti, cố gắng, nỗ lực vươn lên trong học tập? Trước hết, tôi cần tiến hành điều tra về tình hình học tập, ước mơ, suy nghĩ dự định tương lai của học sinh cá biệt hay đi chậm và bỏ giờ, cũng như hoàn cảnh gia đình của các em thông qua nhiều kênh thông tin như: giáo viên chủ nhiệm lớp, hồ sơ học bạ, giáo viên bộ môn, bạn cùng quê…Trên cơ sở đó tôi phân ra các đối tượng học sinh “cá biệt” như sau: Cá biệt về hoàn cảnh. Cá biệt về học tập (học lực kém, thiếu ý thức học tập) Cá biệt về đạo đức. Cá biệt về thể chất (tàn tật). Từ đó giúp tôi đưa ra các biện pháp giáo dục quản lý học sinh cá biệt cho phù hợp cụ thể: Tiến hành tìm hiểu cụ thể hoàn cảnh gia đình các học sinh “cá biệt”như là: thu nhập hàng ngày của gia đình, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như thế nào? Có êm ấm hạnh phúc hay không? Có nhiều thành kiến gây ra xôn xao bất đồng, mức độ quan tâm đến việc học của gia đình đối với học sinh hay không mục đích là để hiểu rõ từng đối tượng học sinh để có biện pháp giáo dục (có thể điều tra qua bạn bè và học sinh cùng quê, đối tượng đặc biệt điều tra qua công an các xã) Thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh “cá biệt”. Điều quan trọng phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập. Chú trọng việc giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn khuyên các em phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Điều nên tránh là không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh “cá biệt”, tính tình ương ngạnh, tâm lý nặng nề, hay lo, Việc tác động vào động cơ học tập của những học sinh này cũng cần được thực hiện thường xuyên, nhằm để các em này thấy rõ tầm quan trọng của việc học. Có khi đưa ra một số câu chuyện thất học - chỉ mới mấy tuổi đầu không được đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của người lớn rồi lại bị bạn bè khinh thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Hay những tấm gương về sự vượt khó trong học tập,...từ đó giúp cho các em có niềm tin vào bản thân chấm rứt được đi chậm và bỏ giờ. Biện pháp 6: Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội trong công tác giáo dục và quản lý học sinh. Cách tiến hành: Quả thật gia đình, nhà trường và xã hội luôn được coi là "tam giác" giáo dục quan trọng đối với mỗi học sinh. Tầm quan trọng của mỗi lực lượng cũng như mối quan hệ giữa ba lực lượng này trong việc giáo dục học sinh thì ai cũng hiểu nhưng vẫn có khoảng cách lớn giữa nói và làm. Vấn đề mấu chốt ở đây là làm như thế nào? Và tôi đã thực hiện như sau: Ngay đầu năm tôi yêu cầu giáo viên chủ nhiệm lập danh sách những học sinh cá biệt của các lớp theo mẫu sau: TT Họ tên Quê quán Tên bố, mẹ Số ĐT Nội dung Ghi chú ... Sau đó tôi tiến hành lập danh sách theo dõi bằng hình ảnh ví dụ như sau: TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2 DANH SÁCH NHỮNG HỌC SINH THƯỜNG HAY ĐI CHẬM (Danh sách tượng trưng đại diện ) Đối học sinh thường hay đi chậm tôi yêu cầu trực ban và bảo vệ ghi tên (phải đối chiếu theo phù hiệu học sinh) và cho các em vào học bình thường chứ không phải cho các em về như một số trường. Vì nếu không cho các em vào trường thì các em sẽ đi chơi chứ các em không dám về sợ bố mẹ mắng. Chính vì thế là vô tình chúng ta đã tiếp tay cho các em tham gia vào một số chò chơi vô bổ như đã nêu ở phần thực trạng của đề tài. Tôi sẽ gọi các em vào phòng và trao đổi. Trong quá trình trao đổi nắm bắt tâm tư tình cảm của các em, quan trọng là xem các em có nói sự thật hay không rồi động viên các em hôm sau không nên đi chậm nữa. Nếu những học sinh này mà cố tình tái phạm nhiều lần thì tiến hành dùng biện pháp gọi điện cho phụ huynh để gặp gỡ trao đổi, thông báo giáo viên chủ nhiệm để hạ hạnh kiểm vào học kỳ và cả năm, tất cả học sinh đi chậm đều nêu tên trước cờ và chiều thứ 2 hàng tuần đi lao động công ích. Đối với học sinh hay bỏ giờ: Ngay đầu năm học tôi đã tham mưu cho Ban giám Hiệu tiến hành giao ban với công an Huyện, công an xã và chủ tịch, Bí thư các xã, Hội cha mẹ học sinh về tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trường đóng và trên đường đi về của học sinh. Và tôi đã đưa ra một số biện pháp quản lý học sinh bỏ giờ là: Đối công an huyện kiểm tra việc kinh doanh của một số hàng quán xem có đúng quy định không. Đối công an xã Thái Hòa, Nông trường tôi yêu cầu trong 01 tuần phải đi kiểm tra các hàng quán định kỳ là 02 lần. Ngoài ra, trường hợp đặc biệt nhà trường yêu cầu hôm nào thì phải tiến hàng hôm đó, kinh phí và quy chế hoạt động như trong quy chế phối hợp sau: (Trang 13) Tôi đã gửi tất cả danh sách học sinh cá biệt hay bỏ giờ cho công an để họ đối chiếu với những học sinh cụ thể ngồi trong các hàng quán như sau: TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2 DANH SÁCH NHỮNG HỌC SINH THƯỜNG HAY BỎ GIỜ (Danh sách tượng trưng đại diện) Nếu phát hiện đối chiếu đúng đề nghị công an cho viết tường trình, cam kết và bàn giao học sinh cho nhà trường. Nhà trường tiến hành mời phụ huynh học sinh của các em này ngay buổi chiều hôm đó để trao đổi và có biện pháp kết hợp quản lý giáo dục học sinh cho tốt. Sau khi lựa chọn được một số biện pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh đi chậm, bỏ giờ tôi tiến hành hỏi ý kiến các giáo viên trong trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá để lựa chọn một số biện pháp cho phù hợp kết quả được trình bày tại bảng 3 Bảng 3. Kết quả phỏng vấn lựa chọn một số biện pháp nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm và bỏ giờ của trường THPT Triệu Sơn 2 (n=20). TT 1 2 3 4 5 6 Biện pháp Tính quan trọng Tính khả thi RQT QT KQT RKT KT KKT 40% 60% 0 40% 60% 0 75% 25% 0 70% 30% 0 100% 0 0 85% 15% 55% 45% 0 40% 60% 0 90% 10% 0 65% 35% 0 Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và các lực 90% lượng xã hội trong công tác giáo dục và quản lý học sinh. 10% 0 90% 10% 0 Tăng cường quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước cho học sinh Nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm của các thành viên, tổ chức trong nhà trường trong công tác giáo dục quản lý học sinh Xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực để học sinh noi theo Phát huy vai trò tự quản của tập thể và tự rèn luyện của học sinh Tổ chức điều tra nắm bắt hoàn cảnh của từng học sinh cá biệt hay đi chậm, bỏ giờ. Sau khi đã lựa chọn được một số biện pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh đi chậm, bỏ giờ trong trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá, ở bảng 2 cho thấy tỷ lệ % đồng thuận rất cao đảm bảo độ tin cậy và tính khách quan trong quá trình nghiên cứu và tôi tôi đã lựa chọn được các biện pháp cụ như sau: Biện pháp 1: Tăng cường quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước cho học sinh. Biện pháp 2: Nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm của các thành viên, tổ chức trong nhà trường trong công tác giáo dục quản lý học sinh. Biện Pháp 3: Xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực để học sinh noi theo. Biện pháp 4: Phát huy vai trò tự quản của tập thể và tự rèn luyện của học sinh. Biện pháp 5: Tổ chức điều tra nắm bắt hoàn cảnh của từng học sinh cá biệt hay đi chậm, bỏ giờ. Biện pháp 6: Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội trong công tác giáo dục và quản lý học sinh. 3. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng học sinh đi chậm, bỏ giờ trong trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá. Sau khi lựa chọn được các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh đi chậm, bỏ giờ trong trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá, tôi tiến hành thực nghiệm trên đối tượng nghiên cứu và thấy kết quả rất khả thi được thể hiện ở bảng 4 và bảng 5. Bảng 4: Kết quả số lượt học sinh bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá (tính trong năm học 2012 – 2013 ) là: 87 học sinh. Nguyên nhân sai phạm Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân chủ quan Số học sinh mắc phải 39 48 Tỷ lệ % 44.8 55.2 Qua kết quả tại bảng 4 cho thấy số lượt học sinh bỏ giờ của trường THPT Triệu Sơn 2 so với năm học 2011 – 2012 giảm 471 em = 84.4%. Bảng 5: Kết quả số lượt học sinh đi chậm ở trường THPT Triệu Sơn 2 - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá (tính trong năm học 2012 – 2013 ) là: 1518 học sinh. Nguyên nhân sai phạm Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân chủ quan Số học sinh mắc phải 635 883 Tỷ lệ % 41.8 58.2 Qua kết quả tại bảng 5 cho ta thấy số lượt học sinh đi chậm của trường THPT Triệu Sơn 2 so với năm học 2011 – 2012 giảm 3968 em = 72.3%. So sánh giữa bảng 1 và 2 của năm học 2011 – 2012 với bảng 4 và 5 của năm học 2012 - 1013 ta thấy số lượng lượt học sinh đi chậm giảm 3968 em đạt 72.3% so với năm học 2011 – 2012. Số lượng lượt học sinh bỏ học giảm 471 em = 84.4% so với năm học 2011 – 2012 nghĩa là các biện pháp tôi đưa ra đều có tính khả thi cao. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 1. KẾT LUẬN. Các trường THPT nói chung và trường THPT Triệu Sơn 2 nói riêng đang gặp phải những khó khăn rất lớn trong vấn đề giáo dục học sinh nhằm giảm thiểu học sinh đi chậm và bỏ giờ. Nhìn nhận một cách chính xác ta thấy tình trạng giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh ở nước ta trong thời kỳ đổi mới rất phức tạp, nhiều yếu tố tác động đến tâm, sinh lý của các em. Từ những nhận thức đó tôi thấy giáo dục đạo đức, lối sống, tác phong... cho các em nhằm giảm thiểu về đi chậm và bỏ giờ là việc vô cùng quan trọng và cấp thiết. Lí luận và thực tiễn đã khẳng định vai trò to lớn của người lãnh đạo là trụ cột, là linh hồn của cả tập thể: Điều này đòi hỏi những nhà quản lý phải tận tâm trong công việc, chí công vô tư, độ lượng bao dung, thương yêu học sinh như con em của mình. Đồng thời người quản lý phải năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, giải quyết tốt nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, để giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của trường THPT Triệu Sơn 2 trong 45 năm xây dựng và trưởng thành. Với cương vị cấp ủy chi bộ, tổ trưởng chuyên môn lại được Bí thư chi bộ Hiệu trưởng nhà trường giao phụ trách trực tiếp công tác an ninh, nề nếp của nhà trường, tôi cũng xin mạo muội nêu lên một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, giảm thiểu học sinh đi chậm và bỏ giờ ở trường THPT Triệu Sơn 2 – huyện Triệu Sơn – tỉnh Thanh Hóa mà tôi đã làm tốt trong năm học 2012 – 2013.. 2. KIẾN NGHỊ Đề nghị nhà trường tiếp tục cho áp dụng các biện pháp mà tôi đã nghiên cứu ở trên để giảm thiểu học sinh đi chậm và bỏ giờ nhằm thúc đẩy chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường đi lên. Đề nghị các giáo viên chủ nhiệm tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các biện pháp quản lý, giáo dục đạo đức học sinh cho phù hợp với từng đối tượng. Đề nghị Chủ tịch UBND, Trưởng công an, quản lý thị trường huyện Triệu Sơn cần kiểm tra số lượng hàng, quán kinh doanh tại xã Thái Hòa (khu vực nhà trường đóng) xem đã hợp lệ và đúng với quy định hay trưa. Qua quá trình thực hiện đề tài chắc không tránh khỏi thiếu sót mong các thầy cô trong nhà trường và hội đồng khoa học ngành góp ý để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2013 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết SKKN Vũ Văn Lộc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan