Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc tại trườ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc tại trường tiểu học

.PDF
32
1556
60

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 3 I. 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 3 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài........................................................................................... 3 3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................................... 4 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................... 4 II. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................. 4 1. 2. 3. Cơ sở lý luận ......................................................................................................................... 4 1.1. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................................. 4 1.2. Cơ sở lý luận khoa học ............................................................................................... 5 Thực trạng ............................................................................................................................ 5 2.1. Thuận lợi và khó khăn ............................................................................................... 5 2.2. Thành công và hạn chế .............................................................................................. 6 2.3. Mặt mạnh và mặt yếu ................................................................................................. 7 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động .................................................................... 7 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng và đề tài đã đặt ra. ........................... 8 2.5.1. Khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa...................................................................... 8 2.5.2. Hạn chế về điều kiện kinh tế và nhận thức của đồng bào dân tộc.................. 9 2.5.3. Khó khăn của đội ngũ giáo viên........................................................................11 Giải pháp, biện pháp ........................................................................................................11 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp .........................................................................11 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp ......................................11 3.2.1. Tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em học sinh dân tộc ........11 3.2.2. Tạo môi trường tâm lý an toàn, thoải mái và tôn trọng .................................12 3.2.3. Quan tâm đến những khó khăn của học sinh...................................................15 3.2.4. Tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện ở lớp, ở nhà ................................................................................................................20 3.2.5. Tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán. ......................22 1 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận 3.2.6. Rèn luyện các thói quen và hành vi văn minh.......................................................25 3.5.7. Phối hợp kịp thời với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. ......28 4. III. 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp .............................................................28 3.4. Mối liên hệ giữa các giải pháp, biện pháp ............................................................29 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu ....29 PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...........................................................................30 1. Kết luận ...............................................................................................................................30 2. Kiến nghị .............................................................................................................................30 BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT DTTS Dân tộc thiểu số HSDTTS Học sinh dân tộc thiểu số TCTV Tăng cường tiếng việt GDTH Giáo dục tiểu học HS Học sinh GV Giáo viên 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định vị thế cùng sự bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc trong cùng khu vực hay trên thế giới là chất lượng nguồn nhân lực. Việc tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học - kỹ thuật và kỹ năng làm việc cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay là một đòi hỏi khách quan. Để đáp ứng yêu cầu khách quan ấy, giáo dục - đào tạo là công cụ quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo thể hiện ở chỗ nó phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực không chỉ trên bình diện xã hội rộng lớn, mà còn có khả năng tiếp cận đến từng cá nhân, từ đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò tạo nguồn trực tiếp về mặt chủ thể cho các quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, cơ hội học tập và nâng cao trình độ của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng nhiều hơn. Đến nay, các tỉnh miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống tái mù chữ. Tuy nhiên chất lượng giáo dục của học sinh dân tộc thiểu số nhìn chung còn thấp so với mặt bằng của cả nước. Ở địa bàn huyện KrôngAna nói chung và trường Tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng tỷ lệ số học sinh dân tộc thiểu số khá cao, đặc biệt tại Phân hiệu Buôn Đrai. Bản thân tôi là một giáo viên đã nhiều năm gắn bó với nghề, với trường nên tôi nhận thức được rất rõ chất lượng giáo dục cũng như các điểm hạn chế của các em học sinh dân tộc thiểu số. Để củng cố và chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng giáo dục cho các em học sinh dân tộc, tôi chọn nghiên cứu và xây dựng đề tài “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc tại trường Tiểu học Lê Hồng Phong”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài - Xác định được thực trạng về chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chất lượng của các em học sinh dân tộc thiểu số của nhà trường. - Đưa ra được một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho các em học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường. 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận 3. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu một số phương pháp truyền thống, phương pháp mới mà giáo viên nhà trường đã thực hiện trong quá trình giảng dạy những năm học vừa qua đối với học sinh trường Tiểu học Lê Hồng Phong, một số hoạt động ngoài giờ lên lớp có liên quan đến việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh DTTS. - Học sinh DTTS ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong, chất lượng và hiệu quả đào tạo của nhà trường trong những năm gần đây, những thuận lợi – khó khăn và điều kiện - dạy học của nhà trường. Chất lượng đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Lê Hồng Phong. - Thực trạng về cơ sở vật chất của nhà trường, đặc điểm kinh tế và xã hội của khu vực. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu một số phương pháp dạy và học, những thành tựu trong việc đổi mới phương pháp dạy học đối với học sinh dân tộc thiểu số ở tất cả các khối từ lớp 1 đến lớp 5 đặc biệt là kết quả của việc nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số của các giáo viên đứng lớp và các giáo viên bộ môn ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong. 5. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp số liệu về thực trạng chất lượng học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong, tổng hợp các số liệu về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất. - Phân tích, so sánh chất lượng, hiệu quả đào tạo trước khi thực hiện biện pháp và sau - khi áp dụng các biện pháp mới. Tham khảo ý kiến của giáo viên và học sinh về những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả đạt được và những hạn chế khi thực hiện những giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh DTTS. II.PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Cơ sở thực tiễn Nâng cao chất lượng học sinh DTTS là một yêu cầu trọng tâm trong đường lối phát triển giáo dục của nước ta hiện nay. Chính phủ và Nhà nước đã và đang đưa ra nhiều đường lối, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các em học sinh dân tộc thiểu số được học tập, được nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo dục tiểu học đối với các em học sinh dân tộc thiểu số là một nền tảng vô cùng quan trọng để các em tiếp cận tốt hơn với kho tàng tri thức của nhân loại. Giai đoạn tiểu học sẽ là bước để các em tiếp thu ngôn ngữ Tiếng Việt, 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận các kiến thức cơ bản và là một bước để các em thay đổi tư duy vốn có về mục đích và ý nghĩa của việc học tập. 1.2. Cơ sở lý luận khoa học Giáo dục là hoạt động hướng tới con người, bằng những biện pháp hướng tới truyền thụ: Tri thức và khái niệm, kỹ năng và lối sống, tư tưởng và đạo đức. Từ đó hình thành năng lực, phẩm chất, nhân cách, phù hợp với mục đích, mục tiêu, hoạt động lao động, sản xuất và lối sống xã hội. Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của giáo dục: Là nhằm đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi và khó khăn a. Thuận lợi: - Đảng và nhà nước luôn quan tâm coi trọng công tác dân tộc và giáo dục dân tộc có đường lối chính sách rõ ràng, pháp luật rõ ràng, các văn bản dưới luật chi tiết cụ thể. - Các cấp quản lí ngành Giáo dục luôn quan tâm chỉ đạo sát sao, đặc biệt là chất lượng giáo dục HSDTTS. - Công tác xã hội hóa giáo dục ở thôn buôn được nâng cao, các tổ chức đoàn thể tham gia nhiệt tình. - Đội ngũ giáo viên nhiệt tình đa số có năng lực và tâm huyết đối với chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng HSDTTS nói riêng. - Bản thân sống gần gũi với người dân Ê đê, có hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống, thông thạo địa bàn. - Về cộng đồng dân cư đồng bào DTTS và HSDTTS. Ngày nay, hoạt động kinh tế xã hội, phong tục tập quán, một số nếp sống trong cộng đồng dân cư đã thay đổi theo hướng tiến bộ làm cho cha mẹ học sinh và HSDTTS xóa bản tính tự nhiên, dựa vào thiên nhiên mà họ đã có nhu cầu phải học, trước hết là học để biết “cái chữ”. 5 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - GV: Thái Thị Luận Về cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt và TCTV cho HSDTTS ngày càng được trường và các cấp quan tâm đầu tư. Đặc biệt là ở 2 điểm trường buôn Eana và Buôn Drai. b. Khó khăn: - Có sự bất đồng về ngôn ngữ giữa giáo viên với học sinh; giữa giáo viên với phụ huynh. - Nhận thức và nhu cầu học tập của một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số cò thấp, tỉ lệ chuyên cần của HSDTTS vẫn chưa cao. - Phong tục tập quán, đặc điểm tâm lí, văn hóa dân tộc cũng tác động, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em. - Đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc Ê-đê ở hai buôn Eana và buôn Drai còn gặp nhiều khó khăn cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của các em. 2.2. Thành công và hạn chế a. Thành công: - HSDTTS được huy động đến trường cao. Trường Tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng và xã Eana nói chung được cấp trên công nhận đạt Phổ cập GDTH đúng độ tuổi. - HSDTTS có cơ hội học tập và hòa nhập nhiều hơn. - Cộng đồng người đồng bào dân tộc đã có thay đổi nhận thức về việc học và nhu cầu được học. - Chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt cho HSDT ngày càng được nâng cao, hầu hết các em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học, đa số các em có vốn tiếng Việt đủ để làm phương tiện tìm hiểu kiến thức các môn học khác. - Khi nghiên cứu đề tài này bản thân tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ hợp tác của đồng nghiệp, HSDTTS và ban tự quản. b. Hạn chế: Tuy với sự nỗ lực của thầy và trò, các em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học theo quy định nhưng vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục: - Học sinh hạn chế về hưởng nền giáo dục gia đình và cộng đồng nơi cư trú, có ít cơ hội được giao tiếp tiếng Việt ở cộng đồng . 6 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận - Phụ huynh chưa tích cực giúp con em mình giao tiếp và sử dụng tiếng Việt. - Chất lượng sử dụng tiếng Việt của các em HS DTTS chưa cao. - Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Việt – Mường có nhiều đặc điểm khác hẳn so với tiếng Êđê thuộc ngữ hệ Môn – Khơ Me về cấu trúc, cú pháp, … nên các em HSDT tiếp thu tiếng Việt rất khó. 2.3. Mặt mạnh và mặt yếu a. Mặt mạnh: - Bản thân đã nhiều năm phụ trách lớp có tỷ lệ HSDTTS cao, giao tiếp trực tiếp với HSDTTS và phụ huynh nên nắm bắt được nhiều thông tin phản hồi từ phía gia đình học sinh. - Công tác xã hội hóa giáo dục được Cấp ủy và Ban tự quản thôn buôn, các tổ chức Đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ quan tâm, ủng hộ. - Đội ngũ giáo viên được tập huấn đầy đủ về TCTV và có tinh thần tích cực học tập, bồi dưỡng thường xuyên; có tình thương yêu đối với học sinh, luôn nhiệt tình, trách nhiệm trong công tác giáo dục HSDT và TCTV cho HSDT. - Bản thân sống gần gũi với cộng đồng người Ê-đê, tìm hiểu, học tập được ngôn ngữ, phong tục tập quán, đời sống của người dân Ê-đê nên thuận tiện nhiều trong việc giáo dục học sinh dân tộc Ê-đê. - Công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục cũng được thực hiện thường xuyên. - Trường có giáo viên chuyên dạy tiếng Ê-đê. b. Mặt yếu: - Các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo sự gần gũi giữa giáo viên và các học sinh dân tộc thiểu số chưa đạt hiệu quả cao. - Chất lượng học tập của các học sinh dân tộc thiểu số chưa đạt được kết quả tốt nhất 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 7 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận Các nguyên nhân, các yếu tố tác động dẫn đến những thành công là: - Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước luôn đề cao coi trọng công tác giáo dục dân tộc. - Được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của các cấp quản lí giáo dục. - Đội ngũ giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tích cực đổi mới phương pháp dạy học và trăn trở với chất lượng HSDT. - Một số tập tục lạc hậu trong cộng đồng dân tộc bị bãi bỏ, điều kiện tự nhiên không còn ưu đãi cho cuộc sống tự nhiên mà yêu cầu sản xuất, phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa,.. cần phải biết thông tin, khoa học kĩ thuật cũng là yếu tố tác động khiến đồng bào DTTS thay đổi nhận thức và có nhu cầu cần phải học. Nguyên nhân, các yếu tố tác động làm cho chất lượng học tập tiếng Việt của HSDT còn hạn chế là: - Nội dung chương trình học chưa thực sự phù hợp, người dạy thì hạn chế về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lí,… của học sinh nên khó có biện pháp TCTV. - Người học cũng học bằng ngôn ngữ thứ hai nên gặp nhiều rào cản. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng và đề tài đã đặt ra. 2.5.1. Khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa. Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là nhiệm vụ hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại dải đất này, các dân tộc như Jrai, Bahnar... Mục đích của việc giáo dục ngôn ngữ này là nhằm cung cấp cho các em một công cụ giao tiếp, một phương tiện tư duy, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, cùng sống dưới mái nhà chung Việt Nam, cùng chung tiếng nói, cùng sử dụng một ngôn ngữ, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng mới. Thế nhưng xét về mặt chất lượng, hiệu quả giáo dục ngôn ngữ hiện nay ở các tỉnh Tây Nguyên, như Gia Lai, KonTum, ĐăkLăk vẫn còn thấp. Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân tộc thiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự chăm sóc của vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm Non đã 8 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận trang bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn theo các em bước vào lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như các em chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn, và cũng có khi là không thể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp là các em bước đến một môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực trong các em, làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường. Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em, trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc họp nào đó ở buôn, làng, họ phát biểu bằng tiếng Việt rất khó khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó, đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp. 2.5.2. Hạn chế về điều kiện kinh tế và nhận thức của đồng bào dân tộc. Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số, tôi nhận thấy rằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo luôn nhắc nhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc, về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con người ta vươn lên nhưng nghèo cũng làm cho con người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốn vật chất, không thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số nơi đây không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉ có "ngày hai buổi đến trường", các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa, trồng ngô,...lo cho cuộc sống vật chất. Nghe những đồng nghiệp tâm sự, rằng "chúng tôi phải vào tận buôn lùng sục các em, đưa các em đến trường."; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, "Tôi phải dùng tiền lương của mình để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các 9 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận em trở lại trường. Nhưng có lúc cũng không thành công!",... Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề là ở chỗ, cái nghèo truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn từng bữa còn chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của các em là vậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống nghèo khó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng, số lượng học sinh trên lớp học rất ít. Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủ nhiệm, nhà trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khi mùa hái cà phê kết thúc. Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận nhà, vận động các em đến trường. Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là sự sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về điều kiện sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản ngăn cách hoạt động sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em khó tiếp xúc, hòa nhập cộng đồng. Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở một mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối quan hệ trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số phận, làm thui chột hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số đến trường trong tâm thế "hèn mọn" đó. Các em cũng đã biết nhìn ngắm những trang phục của các bạn học sinh người Kinh, nhìn lại trang phục của mình. Nhiều em học sinh đến trường bằng những đôi dép cũ kỹ, hoặc trong trang phục không lành lặn, hay với những đồng phục bắt buộc nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với những cuốn tập bị bỏ quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thần học tiếng Việt của các em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm. Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em một môi trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các em ý thức học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là điều hiển nhiên. Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các em rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng nghĩa với việc kiềm hãm sự phát triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo lắng cho mỗi giờ đến lớp, "sợ" phải đến trường. Học tập lúc này là công việc quá khó khăn 10 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận đối với các em. Đối với người dân tộc Ê-đê, không gian sống của họ rất đặc trưng, không có ranh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không có không gian sống cá nhân. Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không gian sống đặc thù này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn hóa, về cội nguồn. Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở của họ, một không gian chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy, việc tạo một không gian học tập cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này đã không tạo điều kiện học tập cho các em, mà còn làm cho chất lượng học tập của các em ngày càng giảm sút. Đối với các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia đình hoặc không có khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốc nhắc nhở quản lý, hay do hoàn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã không chú trọng tới việc học của con, em mình. Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trên một cái nền học vấn nhất định nào đó của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờ đến sự tận tâm của giáo viên, nhờ vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ý thức học tập là đặc tính rất cần được chúng ta xây dựng cho các em. 2.5.3. Khó khăn của đội ngũ giáo viên Đa số giáo viên người Kinh giảng dạy đều không biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không thể so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càng không có điều kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình các em, khó có thể tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cần thiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Các giải pháp và biện pháp được đưa ra dưới đây nhằm hướng đến các mục tiêu cơ bản sau: - Tạo được sự gần gũi giữa giáo viên và các em học sinh dân tộc thiểu số. - Xây dựng môi trường tốt nhất về vật chất và tinh thần để các em học sinh dân tộc thiểu số có điều kiện học tập tốt hơn. - Tạo điều để các em học sinh dân tộc thiểu số có cơ hội học tập, nâng cao kiến thức ngoài thời gian học ở lớp. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 3.2.1. Tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em học sinh dân tộc 11 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận Giáo viên nói chung, giáo viên chủ nhiệm nói riêng muốn có những biện pháp giáo dục phù hợp với học sinh và có hiệu quả thì rất cần tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh về lớp học. Việc tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh về lớp học không những giúp giáo viên hiểu rõ hơn về từng học sinh trong lớp mà còn biết được những mong muốn của các em về tập thể lớp học của mình cũng như hiểu rõ mức độ hài lòng của học sinh đối với lớp học, đối với từng môn học. Từ đó giáo viên có thể đưa ra những đề nghị, sự giúp đỡ đối với mỗi cá nhân một cách phù hợp nhất . Để tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh về lớp học có thể có nhiều cách khác nhau như trao đổi, trò chuyện, lấy ý kiến cá nhân qua phiếu thăm dò… Để thực hiện hoạt động này, giáo viên cần chuẩn bị trước các câu hỏi về thông tin muốn hỏi. Ngay cả khi có một vài học sinh nào đó không sẵn sàng chia sẻ tâm tư, tình cảm thì giáo viên cũng không nên ép buộc các học sinh đó phải trả lời. Có thể tìm hiểu về những học sinh này qua các bạn cùng lớp, cùng địa bàn. Cần kiên trì trong một số trường hợp cụ thể. 3.2.2. Tạo môi trường tâm lý an toàn, thoải mái và tôn trọng Môi trường tâm lý thoải mái trong học tập và hoạt động sẽ tạo điều kiện cho HS tham gia hiệu quả hơn vào bài học và các hoạt động của lớp học nói chung. Nó còn góp phần kiến tạo nên một bầu không khí tâm lý, tinh thần hài hòa, cân bằng trong lớp học, giúp HS được làm quen với một “xã hội thu nhỏ” lành mạnh, có văn hóa, có sự tôn trọng và chia sẻ của mọi thành viên. Điều này không chỉ giúp ích cho quá trình học tập trong nhà trường, mà còn mang lại lợi ích thiết thực về sau khi các em gia nhập cuộc sống của những người trưởng thành, thực sự tham gia vào môi trường xã hội rộng lớn. GV cũng thu nhận được nhiều lợi ích nếu cùng HS tạo ra được một môi trường tâm lí thuận lợi cho việc học tập, như: dễ dàng hơn trong quản lý hành vi và hoạt động của HS, huy động được HS tham gia tốt hơn vào quá trình học tập, HS đạt được kết quả học tập tích cực hơn, xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, giúp đỡ, giúp GV quản lý lớp hiệu quả hơn,… Về phía nhà trường nói chung, một môi trường học tập thoải mái, tin cậy, và hứng thú mà các lớp học kiến tạo được sẽ mang lại cho nhà trường một bầu không khí sư phạm lành mạnh, tạo điều kiện lý tưởng nhất cho mọi hoạt động của HS, GV, cán bộ nhà trường cũng như sự tham gia của phụ huynh HS. Đây chính là một trong những điều kiện cốt lõi để thực hiện chủ trương “trường học thân thiện, HS tích cực”, làm cho mỗi một ngày tới trường của cả HS và GV đều là một ngày hứng thú, hiệu quả. 12 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận Một số cách thức tạo môi trường tâm lý an toàn, thoải mái, tin tưởng, tôn trọng trong lớp học: - Nỗ lực xây dựng, duy trì lòng tin của HS với GV và với tập thể lớp ngay từ những ngày đầu tiếp cận lớp học: Lòng tin là một trong những cơ sở quan trọng cho bất kỳ hoạt động tập thể, hoạt động nhóm nào giữa các cá nhân. Một số GV, do vị trí và quyền lực nhất định của mình, có thể làm cho HS cảm thấy sợ và nể, nhưng không được các em tin tưởng, yêu quí, và ngược lại, có những GV hết sức bình thường nhưng luôn được các em tìm đến chia sẻ mọi điều khó khăn, khúc mắc. Vì vậy, có thể nói tạo dựng được lòng tin của HS đối với mình tức là GV đã xây dựng được nền tảng quan trọng nhất của công việc quản lý lớp học và kiến tạo bầu không khí tâm lý, tinh thần thoải mái, tin cậy trong tập thể lớp. Thiếu sự tin tưởng ở GV, HS sẽ chỉ thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ GV đề ra vì trách nhiệm hoặc sự phục tùng mà thiếu vắng yếu tố nhiệt huyết, tình yêu và sự tận tụy đối với công việc được giao. Một điều lưu ý đối với GV là mặc dù tạo dựng lòng tin ở HS là không dễ dàng, song nếu để lòng tin đó một lần bị phá vỡ hay sứt mẻ thì sẽ vô cùng khó khăn để khôi phục lại, thậm chí là bất khả thi (Trong dân gian có câu: một lần bất tín, vạn lần bất tin). Do vậy, duy trì sự tin tưởng của HS và bầu không khí tin cậy, chia sẻ trong mọi thành viên lớp học là một nhiệm vụ quan trọng mà GV phải cùng cả lớp thường xuyên nỗ lực để thực hiện trong suốt quá trình học tập, làm việc cùng nhau. - Tăng cường mối quan hệ thầy-trò và tạo sự gắn kết, hiểu biết, tin tưởng giữa HS trong lớp thông qua nhiều hình thức hoạt động sáng tạo và đa dạng: Mối quan hệ thầy-trò là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo nên bầu không khí tâm lý của lớp học và có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của quản lý lớp hcoj. Ngoài hoạt động học tập hàng ngày, trong điều kiện và hoàn cảnh cho phép, GV có thể cùng HS và một số GV khác tổ chức các hoạt động nhóm nhỏ, trò chơi tương tác, câu lạc bộ, hoạt động ngoại khóa và giáo dục ngoài giờ lên lớp theo các chủ đề do HS đề xuất hoặc có sự tham gia và gợi ý của nhà trường/phụ huynh HS,… Qua những hoạt động đa dạng như vậy, GV tạo điều kiện tốt nhất cho HS dần dần học cách tự quản, tự tổ chức hoạt động của mình; biết liên kết và giao lưu với lớp và khối lớp khác, trường khác để cùng tổ chức hoạt động chung. Một số dạng hoạt động khác cũng có thể giúp gắn kết HS và tạo điều kiện cho GV hiểu thêm về HS của mình, như: thăm gia đình HS, thường xuyên trao đổi với ban cán sự lớp để có hướng giúp đỡ các HS gặp khó khăn đột xuất hoặc thuộc diện phải trợ giúp thường xuyên; xây dựng các cặp đôi và nhóm “bạn giúp bạn” về hoạt động học tập hoặc trợ giúp 13 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận khó khăn trong cuộc sống hàng ngày; tổ chức các buổi sinh hoạt lớp trong đó HS được “nói về mình”, thể hiện cá tính, những năng lực, sở trường bản thân hoặc chỉ đơn giản là tranh luận, đóng góp ý kiến cá nhân về một chủ đề nào đó đang được bàn luận trong lớp/trường/xã hội, v.v. - Bản thân GV luôn cư xử một cách tôn trọng, hiểu biết, chan hòa và thân thiện với HS. Sự gương mẫu của người giáo dục luôn luôn và vẫn sẽ là một trong những phương pháp sư phạm quan trọng nhất của khoa học dạy học và giáo dục – môn khoa học đặc biệt của con người và vì con người. Nếu bản thân GV không cảm thấy thoải mái, hứng thú mỗi khi bước vào lớp học, không hành xử gương mẫu như chính những gì mình mong muốn HS phải thể hiện, thì khó có thể tin rằng GV đó sẽ tạo ra được một môi trường học tập hứng khởi và bầu không khí tâm lý thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và sự tiến bộ của HS. Sự gương mẫu đòi hỏi GV không chỉ cần có chuyên môn, có hiểu biết về khoa sư phạm và nghiệp vụ sư phạm, mà còn phải có sự nhất quán, đúng mực trong lời nói và hành động, sự ý thức rõ ràng về tác động, ảnh hưởng của việc làm và ngôn ngữ của mình tới mỗi HS. - Cá nhân hóa quá trình dạy học và GD, đặc biệt lưu tâm đến những điểm đặc trưng về văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh… của HSDTTS. Việc cá nhân hóa hoạt động dạy học và GD phải dựa trên cơ sở hiểu biết về phong cách học tập của những HS khác nhau cũng như hoàn cảnh, điều kiện sống của từng em. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh kết quả học tập và khả năng lĩnh hội kiến thức của HS phụ thuộc một phần đáng kể vào phong cách học tập cá nhân, như có em học tốt nhất với hình ảnh, biểu tượng, có em lại thể hiện ưu thế với ngôn ngữ, cách diễn đạt, v.v. Nếu nắm bắt được những đặc điểm này của từng nhóm HS trong lớp, GV có thể tạo điều kiện tốt nhất cho mỗi em phát triển khả năng, thế mạnh của mình trong học tập cũng như hoạt động tập thể, giúp các em tự tin và ngày càng tiến bộ hơn. Bên cạnh đó, những hiểu biết của GV về đặc điểm văn hóa, tinh thần, tín ngưỡng… của các DTTS trong địa phương cũng sẽ là một thế mạnh giúp GV tiếp cận HS của mình tốt hơn, quản lý lớp học hiệu quả hơn, tạo được sự tin cậy và chia sẻ đối với nhóm HSDTTS trong lớp. Việc tìm hiểu này đương nhiên sẽ tốn thời gian và công sức của GV, song hiệu quả mang lại đối với lớp và với bản thân công tác quản lý lớp học của người GV thì không thể phủ nhận. - Bài trí, sắp xếp không gian và bối cảnh lớp học theo phong cách thân thiện với người học, tích cực, sáng tạo. Không chỉ đơn thuần là nơi diễn ra các hoạt động học tập hàng ngày, không gian lớp học tác động không nhỏ tới tâm lý, tinh thần, động cơ và hứng thú học tập của HS. Bàn ghế trong lớp nên bố trí theo các nhóm với khoảng từ 4-6 người để HS dễ 14 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận dàng thực hiện các hoạt động học theo nhóm nhỏ. Bố trí những góc trưng bày nho nhỏ ở cuối lớp như góc thư viện, góc trò chơi, góc cây xanh, huy động HS tự cung cấp sản phẩm của mình để trang trí, bày biện cho các góc này, hoặc GV tìm cách liên hệ với các đ ơn vị trong trường như Đoàn thanh niên, thư viện trường… để yêu cầu hỗ trợ về nguồn tài liệu. GV nên hỏi ý kiến của chính HS trong việc bài trí lớp học và tôn trọng nguyện vọng, sáng kiến, ý tưởng riêng của các em trong sự hài hòa với điều kiện và qui định của nhà trường. Một không gian lớp học sinh động, hấp dẫn sẽ làm cho HS yêu quí lớp của mình hơn và cảm thấy vui thích, phấn khởi mỗi khi đến trường. - Kết hợp việc dạy học hàng ngày với các hoạt động “khởi động”, “thư giãn” nhỏ hoặc trò chơi đơn giản để tạo hứng thú học tập và tăng cường tinh thần đồng đội, tính hợp tác cũng như rèn luyện nhiều kỹ năng khác nhau cho HS. Một số thầy cô giáo chúng ta thường chỉ coi trọng chất lượng giờ giảng dạy trên lớp mà không chú ý nhiều đến những dạng hoạt động “xây dựng tinh thần nhóm” hoặc mang tính “khởi động”, “thư giãn”, giúp HS tạo cảm giác thỏai mái, hứng thú trước, trong, hoặc giữa các tiết học. Đó có thể là những trò chơi nho nhỏ, một vài động tác thể dục vui đơn giản, đôi ba câu đố vui/đố mẹo… được GV hoặc chính HS đưa ra và chỉ cần 5-7 phút để thực hiện. Thời gian đầu, nếu HS chưa quen, GV chủ động chuẩn bị trước một số hoạt động để tổ chức cho HS. Sau đó, căn cứ vào năng lực của HS trong lớp, GV có thể cử ra một nhóm nhỏ HS (bao gồm thành viên đại diện của từng tổ trong lớp) chuyên phụ trách các hoạt động khởi động như vậy của lớp, và các thành viên của nhóm lần lượt thay nhau tổ chức hoạt động cho lớp. Những dạng hoạt động này không chỉ giúp HS ‘tái tạo’ lại năng lượng cho việc học tập, mà còn có thể làm cho các em thêm gắn bó, đoàn kết, nâng cao tinh thần tập thể và kỹ năng hợp tác nhóm thông qua sự tương tác cá nhân để giải quyết nhiệm vụ mà các hoạt động đặt ra. Những hoạt động như vậy nếu được tổ chức thường xuyên chắc chắn sẽ giúp khích lệ tinh thần chung của tập thể lớp, góp phần tích cực vào việc kiến tạo một bầu không khí tâm lý thoải mái, an toàn, thân thiện cho lớp học. 3.2.3. Quan tâm đến những khó khăn của học sinh Nếu xem nhà trường giống như một ‘xã hội’ thu nhỏ, thì mỗi một tập thể lớp học có thể được xem như một ‘tập con’, một cộng đồng thành viên của xã hội lớn đó, và vì vậy mỗi lớp học cũng hàm chứa những vấn đề, những khó khăn, thách thức mà bất kỳ một cộng đồng nào có thể gặp phải trong quá trình tương tác giữa các cá nhân. Một trong những vấn đề đó là việc GV tìm cách quan tâm phát hiện và giúp HS giải quyết những khó khăn, trở ngại các em gặp phải trong suốt quá trình học tập của mình. Sự quan tâm sâu sắc đối với HS được 15 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận đánh giá như một trong bốn yếu tố cốt lõi khắc họa nên chân dung một người giáo viên hiệu quả . Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh lớp học có sự đa dạng về văn hóa, bao gồm toàn bộ hoặc một số HS người DTTS với những điểm đặc thù về hoàn cảnh sống, thói quen, và khả năng nhận thức Trong mỗi lớp học, HS có thể gặp phải một hoặc nhiều loại khó khăn nhất định, như: hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế hoặc thiếu sự quan tâm về tinh thần của cha mẹ; các vấn đề liên quan đến sức khỏe hoặc tình trạng thể chất nói chung (như khuyết tật, nói ngọng, nói lắp, chứng khó đọc, tự kỷ…); khó khăn về khả năng học tập và nhận thức, khả năng giao tiếp với người khác; khủng hoảng tâm lý tuổi dậy thì; mâu thuẫn hoặc xung đột với cha mẹ, bạn bè; gia đình quá chăm chút, nuông chiều làm cho trẻ thiếu những kỹ năng sống cần thiết; gia đình tan vỡ, ly tán, … Với riêng đối tượng HS người DTTS, một số khó khăn đặc thù có thể bao gồm: trở ngại trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, sự tự ti, mặc cảm tâm lý trong giao tiếp với bạn bè thuộc cộng đồng đa số, ảnh hưởng của một số phong tục, tập quán và thói quen nhất định của cộng đồng DTTS Việc GV phát hiện ra những trở ngại, khó khăn của HS trong lớp và hỗ trợ các em vượt qua chúng sẽ tạo cho HS có cảm giác được bảo vệ, chăm sóc và quan tâm, giúp các em có thêm nghị lực vượt khó. Bên cạnh đó, khi được GV chú ý đến những vấn đề khó khăn của mình, bản thân HS có thêm động lực để cố gắng hơn trong học tập và rèn luyện. Đồng thời, GV cũng được HS thêm yêu mến, tin cậy để có thể sẵn lòng chia sẻ nhiều hơn những khó khăn, khúc mắc của mình trong cuộc sống hoặc học tập. Quan tâm đến khó khăn của HS còn góp phần giúp GV xây dựng và duy trì được một tập thể lớp đoàn kết, tương trợ, nơi HS cảm thấy mình là một phần có ý nghĩa của cộng đồng lớp học và tích cực tham gia các hoạt động chung. Từ đó, từng bước hình thành, củng cố tinh thần trách nhiệm và ý thức tập thể cho HS. Điều này càng có ý nghĩa đối với nhóm thiểu số HS dân tộc thường hay mặc cảm, tự ti và ngại giao tiếp trong một tập thể có đông HS người Kinh hơn. Một số cách thức thực hiện việc quan tâm đến những khó khăn của học sinh - Lập hồ sơ chi tiết của từng HS và thường xuyên cập nhật, bổ sung. Hồ sơ HS ở đây không chỉ thuần túy là một bản ‘trích ngang’ những thông tin về hoàn cảnh cá nhân, gia đình của HS như quan niệm truyền thống, mà còn bao gồm cả các sản phẩm trong quá trình học 16 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận tập và hoạt động của HS như bài tập/bài thi các môn học, các bản thu hoạch, tranh vẽ sáng tác, bài thơ dự thi, bài báo tường, các nhận xét của những GV khác về HS, bằng chứng về việc khen thưởng/kỷ luật, v.v. Túi hồ sơ hoàn thiện của một HS chính là “cửa sổ để quan sát tư duy và quá trình học tập của HS”, mà GV thông qua đó có thể nhìn rõ hơn bức tranh sinh động, chân thực về các HS của mình bao gồm cả những thuận lợi, khó khăn mà em đó gặp phải trong học tập và cuộc sống. Việc xây dựng, quản lý và cập nhật hồ sơ HS có thể hiệu quả hơn nếu GV huy động được sự tham gia của hội đồng tự quản lớp trong công việc này, vì hơn ai hết, HS hiểu rõ hoàn cảnh và một số khó khăn, trở ngại trong cuộc sống của bạn bè mình. Hội đồng tự quản lớp hoặc một số HS có trách nhiệm trong lớp học có thể cung cấp những nguồn thông tin xác thực, cập nhật nhất về hoàn cảnh, điều kiện, những thay đổi trong cuộc sống của các thành viên trong lớp, giúp GV hiểu rõ hơn về tập thể HS của mình và những khó khăn mà các em phải đối mặt. Dựa trên thông tin có được về từng HS, GV có thể đánh dấu những hồ sơ, trường hợp đặc biệt cần sự quan tâm riêng để có sự hỗ trợ sau này trong quá trình giảng dạy, tiếp cận em HS đó, hoặc tìm cách huy động sự trợ giúp từ bên ngoài, từ chính gia đình HS. Những công việc liên quan đến việc xây dựng, quản lý hồ sơ của từng HS như vậy thường tiêu tốn khá nhiều thời gian, nỗ lực của GV, song lại là một công cụ hữu hiệu và không thể thiếu để giúp GV quản lý tốt tập thể lớp mình và quan tâm đến những khó khăn của các em một cách cụ thể, thiết thực. - Thiết lập và thường xuyên duy trì, cập nhật kênh thông tin liên lạc giữa GV và gia đình HS. Đây là nhiệm vụ hầu như đương nhiên đối với GV, đặc biệt là GV chủ nhiệm, song không phải tất cả mọi GV đều ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc làm này. Mặt khác, do GV thường quá bận rộn với khối lượng công việc của mình nên lơ là hoặc coi nhẹ việc duy trì thông tin với gia đình mọi HS trong lớp. Thông thường, GV hay quan tâm đến một số trường hợp cần sự lưu ý nhiều hơn như HS học quá yếu, HS quá quậy phá, HS khuyết tật hay một số em khó khăn đặc biệt về kinh tế… Song trên thực tế, khi đã giao phó những đứa con yêu quí của mình cho nhà trường, hầu hết mọi gia đình đều kỳ vọng sẽ nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của GV đối với con cái mình để các em ngày càng tiến bộ trong học vấn cũng như phát triển tính cách cá nhân. Vì vậy, trong điều kiện và khả năng của mình, GV nên chú ý để làm sao có thể thiết lập và duy trì một kênh thông tin thường xuyên, liên tục cập nhật tới gia đình của từng HS về những thay đổi, sự tiến bộ hay thụt lùi của các em về các mặt khác nhau mà GV quan sát, đánh giá hoặc cảm nhận được. Với sự tiến bộ của 17 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận khoa học, công nghệ ngày nay, không chỉ ở thành phố lớn mà một số vùng sâu, vùng xa cũng đã có thể liên lạc bằng internet hoặc tin nhắn điện thoại di động – GV cần tận dụng những tiến bộ này trong việc duy trì liên lạc với gia đình HS, bên cạnh những cách truyền thống như sổ liên lạc, thư gửi qua HS,… Công việc này chắc chắn lấy của GV khá nhiều thời gian, công sức, song lại tạo được hiệu quả to lớn trong việc phối hợp giữa gia đình HS và GV, nhà trường nói chung. Mặt khác, thông qua mối quan hệ chặt chẽ với gia đình HS, GV cũng có thể phát hiện và góp phần cùng gia đình giải quyết những khó khăn, trở ngại của HS trong lớp, tạo được sự tin cậy lớn hơn đối với cả HS lẫn gia đình các em. - Thiết lập và duy trì mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa GV với HS, từ đó biết và hiểu rõ hơn những khó khăn đặc thù của từng HS. Một số GV thường e ngại rằng việc duy trì mối quan hệ thân thiện, gần gũi giữa GV-HS có thể phần nào làm cho HS quên mất khoảng cách cần thiết giữa thầy và trò theo truyền thống lễ nghi phương Đông, hoặc khiến HS cảm thấy “nhờn” với thầy cô, từ đó khó khăn hơn trong giáo dục các em. Tuy nhiên, nếu GV có bản lĩnh, thực sự hiểu tâm sinh lý tuổi HS và có sự nhạy cảm nghề nghiệp cần thiết để cân bằng được mối quan hệ với HS thì nỗi lo ngại đó sẽ không thành hiện thực. - Tăng cường sự tham gia và ý thức trách nhiệm của hội đồng tự quản và tập thể HS để HS có ý thức tự quan tâm đến thành viên lớp mình và tìm cách hỗ trợ nhau. Trong một số trường hợp nhất định, HS tự giúp nhau sẽ hiệu quả và thiết thực nhất. Giao trách nhiệm cụ thể cho Ban cán sự lớp trong việc tìm hiểu hoàn cảnh một số HS đặc biệt trong lớp để có hướng giúp đỡ hiệu quả. Tuy nhiên việc tìm hiểu cần tế nhị, tránh gây tổn thương, mặc cảm đến em HS đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, GV cũng không thể phó mặc hoàn toàn việc này cho Ban cán sự lớp, mà cần thường xuyên theo dõi, đôn đốc và giám sát công việc của các em để có những chỉ dẫn hoặc can thiệp kịp thời. - Chú trọng xây dựng và duy trì bầu không khí tập thể lớp học đoàn kết thân ái, luôn tương trợ giúp đỡ nhau. Muốn vậy, trước hết bản thân GV phải làm gương tốt cho HS bằng cách luôn cư xử đúng mực với người khác, tận tình giúp đỡ người gặp khó khăn bất kể đó là đồng nghiệp, HS, hay những hoàn cảnh không may khác xung quanh mình. HS rất có ấn tượng với cách cư xử, lối sống hàng ngày của GV, do vậy một gương GV nhân ái, luôn biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh sẽ là bài học ‘sống’ giá trị nhất để tác động tới các em. Mặt khác, GV có thể phối hợp với Đoàn thanh niên và Ban cán sự lớp để phát động những phong trào, hoạt động tương thân tương ái trong lớp, trường hoặc có phạm vi rộng hơn nhà trường như: thu gom và trao đổi đồ dùng học tập, quần áo cũ; tiết kiệm tiền ‘bỏ ống’ cho các bạn khó khăn; tổ chức thăm hỏi, tặng quà định kì những gia đình có hoàn cảnh 18 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận éo le, bất hạnh; tham gia hoặc khởi xướng các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng như trồng cây, giúp đỡ người già, người neo đơn, giúp nạn nhân chất độc da cam, lao động công ích trong các công trình công cộng,… Thông qua các hoạt động thiện nguyện trợ giúp những người khó khăn trong lớp, trường của mình cũng như ngoài xã hội như vậy, HS sẽ phát triển được những nét tính cách nhân ái, bao dung, biết quan tâm giúp đỡ người khác. Đồng thời, việc cùng nhau tổ chức hoạt động tập thể còn giúp các em tăng cường tinh thần đồng đội, hợp tác hiệu quả - những yếu tố quan trọng giúp xây dựng một tập thể lớp thân ái, đoàn kết. - Trang bị cho HS, và Hội đồng tự quản lớp những kỹ năng sống quan trọng để biết cách giao tiếp, ứng xử phù hợp và quan tâm đến người khác, như các kỹ năng giao tiếp, tự nhận thức, hợp tác, thương lượng, làm việc nhóm, ra quyết định, giải quyết vấn đề, lãnh đạo nhóm... Để làm được điều đó, trước hết GV cũng phải có hiểu biết, tự trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng này, hoặc phải tham gia vào những khóa tập huấn chuyên sâu về kỹ năng sống, sau đó biết cách tổ chức các hoạt động cụ thể để huấn luyện lại cho HS. - Tổ chức những hoạt động nhóm nhỏ theo các chủ đề mà HS quan tâm (hoặc theo sở trường của từng HS) để giúp HS gắn bó hơn với nhau và với tập thể lớp. Ví dụ: nhóm Thể thao, nhóm Văn thơ, nhóm Hội họa, nhóm Anh ngữ, nhóm Tin học, nhóm Kỹ năng sống, nhóm Điện ảnh, v.v. Trong mỗi nhóm, GV lựa chọn một hoặc một số HS có khả năng nhất về lĩnh vực đó làm người hướng dẫn hoặc tổ chức chính, giúp nhóm đề xuất các hoạt động chung và chia sẻ với cả lớp. Thông qua những hoạt động nhóm nhỏ như vậy, bản thân HS có điều kiện hiểu rõ hơn về tính cách, hoàn cảnh, những thuận lợi, khó khăn của nhau, và GV cũng sẽ nắm được nhiều thông tin hơn về HS của mình. - Tích cực tìm kiếm những cách thức tác động, phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường để góp phần giải quyết những khó khăn của HS. Đôi khi những vấn đề, khó khăn mà HS gặp phải trong học tập, đời sống vượt quá khả năng giải quyết, xử lý của GV, ví dụ HS có những cú sốc nặng nề về tinh thần, tình cảm phải cần tới sự hỗ trợ và tư vấn chuyên môn của chuyên gia tâm lý, HS có khả năng học tập tốt nhưng gia đình gặp khó khăn về kinh tế có thể sẽ phải bỏ học giữa chừng nếu không được trợ giúp chi phí học tập, v.v. Với những trường hợp như vậy, GV không chỉ cần phát hiện được khó khăn của HS mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc làm cầu nối để tác động, liên kết với các lực lượng, cá nhân trong và ngoài nhà trường có thể cung cấp sự trợ giúp tới HS. 19 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV: Thái Thị Luận 3.2.4. Tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện ở lớp, ở nhà Tạo cơ hội giúp các em học sinh biết được các biểu hiện về tinh thần trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, và trường lớp, biết thực hiện công việc với tinh thần trách nhiệm và quý mến, trân trọng những bạn có tinh thần trách nhiệm là một việc làm có ý nghĩa lớn lao. Cha ông ta có câu “Học thầy không tày học bạn”, thông qua những việc làm cụ thể khi chia sẻ trách nhiệm và giúp đỡ nhau trong học tập các em có thể học được nhiều điều từ bạn bè. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của người học lại càng cần có sự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập ở lớp, ở nhà. Những bài tập có tính hợp tác cao mà các thầy cô giáo giao cho các em thực hiện rất cần sự giúp đỡ của các bạn học sinh có học lực khá với các bạn học sinh có học lực trung bình, yếu. Đối với học sinh DTTS thì lại càng có rất nhiều việc cần chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện ở lớp, ở nhà. Đó là sự giúp đỡ nhau trong cuộc sống như cùng nhau chia sẻ sách vở, tài liệu, cùng nhau đi rừng lấy củi về nấu ăn, cùng thổi cơm hay rửa bát, cùng làm các bài tập, ... Tổ chức các nhóm học tập, đôi bạn cùng tiến Học nhóm là một phần quan trọng để tạo ra một lớp học hiệu quả. Tuy nhiên, đây không chỉ là học sinh “làm việc cùng nhau” đơn thuần mà là cùng hợp tác học tập dưới hình thức học nhóm. Mục tiêu chính yếu của học nhóm là giúp học sinh chủ động học tập để đạt được một mục tiêu học tập chung. Việc tạo nhóm học tập như vậy cho phép học sinh làm việc cùng nhau để tối ưu hóa việc học tập của mình và của các bạn khác trong nhóm. Thông qua việc học nhóm người học có thể được: - Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tạo cảm giác thoải mái cho người học: Xuyên suốt quá trình học nhóm là các hoạt động học tập mang tính hợp tác. Khi học theo nhóm, người học cảm thấy thoải mái, không bị căng thẳng như lúc học một mình. Các em nhận được sự hỗ trợ, hợp tác của những người trong nhóm nên sẽ trở nên tự tin hơn và vì thế, việc học của các em sẽ đạt hiệu quả cao hơn. - Phát triển kỹ năng giao tiếp: Bên cạnh việc đạt được mục tiêu học tập là phát triển kỹ năng ngôn ngữ, người học tham gia vào các hoạt động học tập của nhóm còn có điều kiện để phát triển kỹ năng giao tiếp. Các em sẽ học được cách trình bày và bảo vệ quan đ iểm của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan