Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
MỤC LỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM-ĐỀ TÀI:MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC
ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC...........................0
A Mở đầu...................................................................................................................1
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................1
II.ĐỐI TƯỢNG NGIÊN CỨU..................................................................................1
III.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.........................................................2
IV.NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI...................................................................................2
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................................................2
VI.PHẠM VI NGHIÊN CỨU...................................................................................2
B.Nội dung................................................................................................................3
Chương I-CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG.......................................................................3
I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC..........................................3
1. Vị trí của dạy đọc ở tiểu học..................................................................................3
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học..........................................................................4
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC.....................................5
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc..................................................................5
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc.......................................................6
III. TỔ CHỨC DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG Ở TIỂU HỌC.....................................8
1. Chuẩn bị cho việc đọc...........................................................................................8
2. Luyện đọc đúng.....................................................................................................8
3. Luyện đọc nhanh...................................................................................................9
IV. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 1.......................10
V. VÀI NÉT VỀ CẤU TRÚC MÔN TẬP ĐỌC LỚP 1........................................10
VI. NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH RÈN ĐỌC............11
Chương II-THỰC TRẠNG DẠY HỌC..................................................................12
1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc.............................................................12
2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc..............................12
Chương III-ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC................................................15
1. Đọc mẫu...............................................................................................................15
2. Hướng dẫn đọc....................................................................................................15
C. Kết luận...............................................................................................................22
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là
hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân
môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt
trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một
kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có
nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu
được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi
học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách
chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình.
Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành
và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định
hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em thật
vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp
theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc
dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng
tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em
mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng
Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm
thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện
nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được
chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và
nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không
hiểu đúng văn bản được đọc.
Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập
đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản
mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giúp các
em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách
ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi. Những băn khoăn
này chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học
sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc”
II. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Hướng Phùng
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-1-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
III. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ
năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh. Dạy
đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em thấy được đây chính
là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc
góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái
thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh.
IV.Nhiệm vụ của đề tài
Đặc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ :đây là bước chuyển tiếp từ
dạy “học vần” sang dạy “tập đọc” (ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả
phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là
củng cố hệ thống âm vần đã đọc (nhất là các vần khó) đọc đúng tiếng, liền tiếng
trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết lên
giọng và hạ giọng. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tôi mục
đích đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh đọc thông được văn bản và đọc
đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng nhằm nâng cao chất lượng của
1 giờ dạy tập đọc ở lớp 1.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
- Phương pháp thu nhận tài liệu;
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
- Dạy thực nghiệm;
- Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp.
VI. Phạm vi nghiên cứu
Những biện pháp luyện đọc đúng để nâng cao chất lượng trong tiết tập đọc ở lớp 1.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-2-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học
a. Khái niệm đọc:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn
dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là
một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói
có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình
chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh
(ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát âm,
nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như các ký
hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những
gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm “đọc” một
cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã
chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức.
b. Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu
nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh
phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân
khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống
nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả
năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới
bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt
khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận
thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy
năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn không
biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành
cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời
đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử
dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-3-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi
hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ
phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong
giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng
thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh
thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn
minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một
cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn
còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học
Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát
triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc với
tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu
này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở
mức độ sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản
chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc
thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân môn tiếng Việt tiếp tục những
thành tựu dạy học mà học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng
cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,
trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn
gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong 2 hình
thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ
lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến
những kỹ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép
thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì
không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kỹ
năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ
hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua
việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-4-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức về
ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và tư
duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm
bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay cơ chế
của đọc là cơ sở của việc dạy học.
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp
nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta
đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
- Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận
động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng
dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình
cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng,
các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì
được đọc.
- Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các cơ
quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày
những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người mới
biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu
thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.
- Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều nghĩa :
theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc (tức là
việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng,đọc được
hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). ý nghĩa hai mặt của
thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học.
Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem như là một hoạt
động lời nói trong đó có các thành tố:
1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-5-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo
từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ nắm kỹ
thuật đọc.
3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là một
kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. Chia việc hình thành kỹ
năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh,
hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai
đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai
đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị
giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý
nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực
hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng
hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là
người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc
chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương
tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đến những mối
quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng
làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học đọc sao cho việc
phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc
đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biêt đọc khi nó đọc mà
hiểu trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không hiểu được
những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và không có
khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng thú
cho việc đọc.
Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất kỹ năng cơ
chế mục đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sử dụng phương
pháp cho phù hợp.
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó
liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính âm,
chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của câu,
đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu câu…
Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngôn
ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội dung và
phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những cơ sở
ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học sẽ mang
tính tuỳ tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-6-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
a. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả về
mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có nhiều
ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn hoá ngôn
ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng chính âm.
b. Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao
hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần của
ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời
nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn
ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng
(cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển
giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản
có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm điệu,
âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu
tố này.
c. Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy đọc
Việc dạy đọc không thể dựa trên lý thuyết về văn bản những tiêu chuẩn để
phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài đọc ở tiểu học) nói
chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm văn chương nói
riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho học sinh
phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác, tính đúng
đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm vè các kiểu ngôn ngữ, các phong
cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về loại thể của tác phẩm văn
chương dùng làm ngữ liệu đọc ở tiểu học. Ví dụ, cách đọc và khai thác để hiểu nội
dung một bài thơ, một đoạn tả cảnh, một câu tục ngữ, một truyền thuyết, một bài
sử, một bài có tính chất khoa học thưởng thức… là khác nhau. Việc hướng dẫn học
sinh tìm hiểu nội dung bài đọc cũng phải dựa trên những hiểu biết về đề tài, chủ
đề, kết cấu nhân vật, quan hệ giữa nội dung và hình thức, các biện pháp thể hiện
trong tác phẩm văn học, nhằm miêu tả, kể chuyện và biểu hiện các phương tiện và
biện pháp tu từ…. Việc luyện đọc cho học sinh phải dựa trên những hiểu biết về
đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính hình tượng, tính tổ chức cao và tính hàm súc, đa
nghĩa của nó. Tất cả những vấn đề trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết
văn học. Vì vậy ta dễ dàng nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không thể không
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-7-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
dựa trên những thành tựu nghiên cứu của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên
cứu văn học nói riêng.
III. TỔ CHỨC DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG Ở TIỂU HỌC
1. Chuẩn bị cho việc đọc
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần
phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35
cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô
giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế
khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc
thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được
nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người trung
gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này,
người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc có
thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu
trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo
viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho các em sự tự
tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người nghe. Giáo viên cần
cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ cho mình cô giáo mà để cho tất cả
các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả những người này nghe rõ.
Nhưng như thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Để luyện cho học sinh
đọc quá nhỏ "lí nhí", giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất
trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học sinh đứng trên bảng để đối
diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái,
sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.Giáo viên làm mẫu, đây là đối tượng
HS vùng nông thôn , GV cần nắm bắt sự khéo léo , tâm lý của HS, giúp HS mạnh
dạn, tự tin trong lúc đọc.
2. Luyện đọc đúng
a. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng
phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không
đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các
âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng
Việt.Với HS ở Tiểu học Hướng Phùng cần rèn đọc đúng các yếu tố sau:
- Đọc đúng các thanh hỏi,thanh ngã,thanh nặng,thanh huyền,thanh sắc.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-8-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
- Đọc đúng các phụ âm đầu: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc: “dảy
dây”, “khoẻ khắn” mà phải đọc là “nhảy dây” ,“khỏe khoắn”, chú ý phân biệt
giữa âm d và âm nh., âm x và âm s như : “chim sẻ” thành “chim xẻ”.v.v…
- Đọc đúng các âm chính: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc “iu tin,
quả lịu” mà phải đọc “ưu tiên, quả lựu”.
- Đọc đúng các âm cuối: Ví dụ: có ý thức không đọc: “luông luông” mà
phải đọc “luôn luôn”.
- Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu. Ngữ
điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với
nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm
sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này. Đọc
đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành
tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc.
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp
giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm
hai. Ví dụ không ngắt hơi.
“Con/ cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành/ mềm lộn/ cổ xuống ao”
- Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới từ với
danh từ đi sau nó.
Ví dụ không đọc:
“Như con chim chích
Nhảy trên / đường vàng”
Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Ví dụ: không đọc
Cá heo là / tay bơi giỏi nhất của biển
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn
ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối
câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với
câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ phận giải thích
của câu.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
3. Luyện đọc nhanh
a) Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất đọc về
mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi
đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy đọc
của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-9-
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài
đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc nhanh
nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến
thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ
của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
b) Biện pháp luyện đọc nhanh
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để
học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài.
Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có biện
pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều
chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước
và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào còn phụ thuộc vào độ
khó của bài đọc.
IV. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 1
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển ngôn
ngữ cho học sinh. Tiếng Việt gồm nhiều phân môn: Tập đọc, từ ngữ, ngữ pháp,
chính tả, tập làm văn. Phân môn tập đọc có vị trí quan trọng. Dạy tốt phân môn này
đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Kỹ năng đọc nhanh, chính xác, rõ
ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ đó học sinh có những hiểu biết văn học ngôn ngữ
và ngược lại. Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là quá trình có liên quan
mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được những tri thức văn hoá
của dân tộc và cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng
thời phát huy tính sáng tạo, khả năng tư duy cho các em.
Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn học vần sang tập
đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp
tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã học (nhất là
các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ, đọc cụm từ và câu: tập ngắt nghỉ
(hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt đã đọc
(độ dài câu khoảng 10 tiếng). Bên cạnh nhiệm vụ ôn vần cũ, học vần mới học sinh
còn được phát triển vốn từ, tập nói câu đơn giản.
V. VÀI NÉT VỀ CẤU TRÚC MÔN TẬP ĐỌC LỚP 1
Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 42 bài được bắt đầu từ tuần 5 của học
kỳ II (có 14 tuần dạy tập đọc, mỗi tuần có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2 tiết).
Nội dung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ đề: Nhà trường, gia đình, thiên
nhiên đất nước.
- Bài tập đọc lớp 1 gồm có các phần:
+ Văn bản đọc
+ Những từ khó cần lưu ý
+ Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vần
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 10 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
+ Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để diễn đạt.
VI. NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH RÈN ĐỌC
Quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ tập đọc đều có 2 phần lớn tìm
hiểu nội dung bài và luyện đọc, hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc, đan
xen vào nhau, cũng có thể tách rời nhau tuỳ từng bài và từng giáo viên. Song dù
dạy theo cách nào thì hai phần này luôn có mối quan hệ tương hỗ, khăng khít. Phần
tìm hiểu bài giúp học sinh tìm hiểu kỹ nội dung nghệ thuật của từng bài, từ đó học
sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc diễn cảm để thể hiện nội dung bài, thể
hiện những hiểu biết của mình xunh quanh bài học.
Như vậy phần luyện đọc có vai trò quan trọng, học sinh đọc tốt sẽ giúp các
em hoàn thành được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính bản thân mình.
Đọc tốt giúp các em hiểu biết tiếp thu được văn minh của loài người, bồi dưỡng
tâm hồn tình cảm, phát triển tư duy.
Trong quá trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh hoạt các
phương pháp khác nhau để phù hợ với đặc trưng của phân môn và phù hợp với nội
dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước hết giáo viên phải sử
dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinh nghe, yêu
cầu giọng đọc của giáo viên phẩi chuẩn, diễn cảm thể hiện đúng nội dung, ý nghĩa
của bài học để học sinh bắt trước đọc theo. Sau đó giáo viên phải kết hợp phương
pháp luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc chính xác các phụ âm đầu, âm
chính, âm cuối, dấu thanh. Đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi nghỉ hơi đúng chỗ, đúng ngữ
điệu câu. Từ đó hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình
cảm mà tác giả mong muốn và gửi gắm trong bài tập đọc.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc, giáo viên cần đổi mới phương
pháp giảng dạy, luôn lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn tổ
chức, học sinh tự tìm hiểu, tự phát hiện và luyện đọc đạt kết quả tốt.
Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố khác như
cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn tích cực
tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu phối hợp các yếu tố trên sẽ
giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể hiện được nội dung của bài học,
thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua từng bài học.
Bên cạnh các yếu tố trên trong giảng dạy phân môn tập đọc giáo viên còn
phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc thực hành). Chúng ta ai cũng
biết trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng không nắm được lời miệng.
Do vậy khi giảng dạy cần phải bảo đảm nguyên tắc này. Điều này được thể hiện rõ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 11 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
hơn ở phần luyện đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách
nghĩ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu.
+ Để giờ tập đọc đạt kết quả cao thì phải bảo đảm nguyên tắc phát triển tư
duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của học sinh. Do vậy phần luyện đọc giáo viên
cần gọi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ cần ngắt giọng hạ, hạ giọng ở
những câu thơ, những câu văn trong bài từ đó tìm ra cách đọc hay hơn.
Như vậy để học sinh đọc tốt môn tập đọc đặc biệt là vấn đề rèn đọc đúng
cho học sinh lớp 1 chúng ta cần đảm bảo tốt các phương pháp và nguyên tắc trên.
Chương II
THỰC TRẠNG DẠY HỌC
Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu học Hướng Phùng và trao đổi với
đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau:
1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở các
lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các lớp
cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như nhau.
Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng hơn còn
về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng thời gian
luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như nhau.
Được dự các tiết tập đọc chuyên đề của cụm nói chung và của trường nói riêng,
tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh, song do
thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc
từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo
khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay
nhầm lẫn.
2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc
Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc
theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để
học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…) và phương pháp
đóng vai (đối với văn kể chuyện).
* Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1
Qua giảng dạy , tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ
tập đọc được tiến hành theo trình tự sau:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 12 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội dung
bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
* Luyện đọc tiếng, từ
Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu cá nhân học sinh đọc
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc mẫu
sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe và nhận
xét bạn.
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thành……đoạn…... sau đó cho học sinh đọc nối
tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc các em khác nhận xét
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố
Tiết 2
5. Tìm hiểu bài và luyện nói
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 13 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK
+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với nội dung
của từng đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)
- Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng
- Giáo viên đọc mẫu lần 2
- Học sinh đọc (cá nhân đồng thanh)
c. Luyện nói
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những chủ đề
mà bài đọc yêu cầu.
6. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số kết
luận sau:
* Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
* Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính của
dạy đọc.
* Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự phát
hiện ra cách đọc.
* Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý
đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm
tiến độ của tiết dạy.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 14 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Chương III
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là nhận
thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở
tiểu học. Do vậy dể khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở
thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc
đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và ở tiểu học nói
chung. Đó là:
1. Đọc mẫu:
Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc
của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và
diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe đọc,
hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị
trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt phải dừng sách
nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián đoạn.
Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 3 bài đầu) giáo viên chép
bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai đoạn sau
giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo cho các em có
thói quen làm việc với sách.
2. Hướng dẫn đọc
Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài:
- Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng
- Dạng văn xuôi
Cụ thể là trong 33 bài đọc thì có:
- 22 bài dạng văn xuôi
- 11 bài dạng thơ
Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1
a. Luyện đọc từ ngữ
Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện
đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong phần này
các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có ở
trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn thêm những từ
ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm sai để cho các
em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 15 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Ví dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã tìm thêm
một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm, nụ hoa,
cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở dĩ tôi đã lựa
chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy vần còn một số ít em đọc chưa
tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. Cụ thể như:
Từ
Học sinh đọc nhầm
Xanh thẫm
Sân thấm
Nụ hoa
Nụ hao
Cánh xoè ra duyên dáng
Cánh xèo ra duyên dáng
Ngan ngát
Ngan ngác
Toả khắp vườn, khắp nhà
Toả khắc vườn, khắc nhà
Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy
khó đọc trong khi phát âm.
Ví dụ: Bài “Chú công”
SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh” nhưng
các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc đó là: “màu
sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “màu xắc”, “xoè tròn” với “xèo
tòn”
Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích tiếng để
giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần tập trung gọi
những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này đọc được đúng thì việc
gọi một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là một việc làm không thể thiếu bởi
vì các êm yếu sẽ bắt chước các bạn để đọc và như vậy các em sẽ có ý thức tự sửa
hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường cho các em
nhận xét nhau đọc, đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho
bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai
ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời.
Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết tăng cường
Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp
các em phát âm tốt hơn.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 16 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Ví dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu
+ Bài tập 1: Điền l hay n
….o…..ắng
, …o…ê
, ….í….ẽ ,
….áo…ức
+ Bài tập 2: Điền r, d, gi
… ộn….ã , …..ập ….ờn ,
tháng…..iêng
+ Bài tập 3: Điền s, x
…ản …uất
,
…anh….anh
,
…o….ánh
…ung phong ,
….ừng…ững
+ Bài tập 4: Điền vần ăc, ắt hay ăp
m….. trời
,
m….. áo
,
đôi m……
kh……… nơi ,
th……. nến
+ Bài tập 5: Điền vần anh hay ăn
ch..… len , c…… đẹp ,
c…… nhà
m…. khoẻ
,
bức tr…….
.v..v và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong giáo viên
phải yêu cầu và kiểm tra các em đọc. Nếu các em đọc sai giáo viên phải kịp thời
uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ
sẽ giúp cho các em đọc trơn bài đọc tốt hơn.
b. Đọc đúng: dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách
cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm
của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người
nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái,
tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với
giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi
ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh
tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những
bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt
giọng rồi hướng dẫn
Ví dụ: Bài “Tặng Cháu”
Vở này / ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là
Mong cháu / ra công mà học tập
Mai sau / cháu giúp nước non nhà
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 17 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài.
Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc không bị
quên.
Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi đã để học sinh nhìn
vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài thơ của
lớp 1 thường là ngắn nên công việc này cũng không chiếm quá nhiều thời gian
trong tiết dạy). Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhân ngay và cho các em
đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh nói sai giáo viên sửa lại cho học sinh.
Ví dụ 1: Bài “Mẹ và cô”
Học sinh thường ngắt nhịp như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới ôm / cổ cô
Buổi chiều / bé / chào cô
Rồi sào / vào lòng mẹ
Mặt trời / mọc / rồi lặn
Trên đôi chân / lon ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Tôi đã sửa lại những câu học sinh sai và nêu cho các em thấy tại sao ngắt
nhịp như vậy lại là sai.
Ví dụ: Câu “chạy tới ôm cổ cô” ngắt nhịp như trên là sai vì “ôm cổ cô”là
một cụm từ liền nhau, nếu ngắt giọng ở sau chữ “cổ” thì cụm từ đó sẽ bị tách ra và
nghĩa của nó sẽ không rõ ràng. Hay câu “Buổi chiều bé chào cô” cũng tương tự tôi
đã sửa cách đọc bài thơ trên như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới / ôm cổ cô
Buồi chiều / bé chào cô
Rồi / sà vào lòng mẹ
Mặt trời mọc / rồi lặn
Trên đôi chân lo ton
Hai chân trời / của con
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 18 -
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Là mẹ / và cô giáo
Ví dụ 2: Bài “Kể cho bé nghe”
Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen nhưng
tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối dòng 1 đọc vắt
luôn sang dòng 2, cuối dùng 3 đọc vắt luôn sang dòng 4. Cứ như thế cho đến hết
bài.
Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ tập đọc ở trên lớp thì trong các tiết
tăng cường tiếng Việt tôi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc bài thơ ngắn để
giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là những câu ứng dụng hay
bài ứng dụng đã có ở phần học vần.
Ví dụ:
“Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Hay
“Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra”
c. Đọc đúng: dạng văn xuôi
Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết ngắt, nghỉ
hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi
đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc
ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu
chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp.
Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó hoặc do chính giáo viên đưa
ra. Sau đó yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh nhận xét đúng
sai. Đối với học sinh lớp 1 giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao
các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn
nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ.
hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải
nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu
văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào
các tiếng, từ, dấu câu.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 19 -
- Xem thêm -