Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai – cư của ba ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai – cư của ba sô.

.DOC
35
1104
82

Mô tả:

Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 10 TIẾP NHẬN THƠ HAI – CƯ CỦA BA - SÔ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nhật Bản là một đất nước có vị trí địa lí khá đặc biệt so với nhiều nước trên thế giới – một quốc đảo. Nơi đây là một xứ sở thần bí của Thần đạo với nhiều tập tục và lễ nghi. Với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ như những đám mây hoa và “hoa đạo” nên còn gọi là xứ sở hoa anh đào. Đây còn là xứ sở dũng mãnh của “truyền thống võ sĩ đạo” và “kiếm đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: sumô, akido, karate, judo… Nhật Bản là xứ sở của Thiền đạo, Trà đạo gắn liền với những bài thơ hai-cư ngắn tới mức tưởng chừng như không thể ngắn hơn được nữa và có ý nghĩa sâu sắc. Đối với thế giới, văn học và văn hóa Nhật Bản là hai nguồn văn minh lớn. Ở Việt Nam, theo xu thế hội nhập, chúng ta đang mở rộng quan hệ hợp tác bang giao với Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực trong đó có văn học. Văn học Nhật Bản dù còn nhiều mới mẻ đối với việc nghiên cứu và tiếp nhận nhưng tương lai sẽ được khám phá sâu rộng ở Việt Nam, trong đó thơ hai-cư của Ba-sô là một đại diện không thể thiếu. Hiện nay, thơ hai-cư của Ba-sô đã được đưa vào giảng dạy cho học sinh trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Thơ hai-cư là một thành tựu rực rỡ của nền văn học Nhật Bản. Vì vậy, việc tìm hiểu và tiếp nhận thơ hai-cư nói chung, thơ hai-cư của Ba-sô nói riêng là rất cần thiết và có ý nghĩa. Tuy nhiên, do thời lượng giành cho bài học bị bó hẹp và điều kiện tìm hiểu về văn học Nhật Bản nói chung và về thơ hai-cư của Ba-sô nói riêng của học sinh còn hạn chế, cho nên việc để học sinh lớp 10 có thể tiếp nhận tốt và hiểu sâu sắc vẻ đẹp, giá trị của những bài thơ hai-cư của Ba-sô là điều không phải dễ dàng. Vì lí do trên và qua thực tế giảng dạy nên tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm về “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô”. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: II.1. Cơ sở lí luận: II.1.1. Về lí thuyết tiếp nhận văn học: Nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt những khái quát, cảm nhận về cuộc đời cho người đọc. Do đó, chỉ khi được người đọc tiếp nhận, quá trình sáng tạo kia mới hoàn tất. Ở đây, vai trò của tiếp nhận văn học vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, không phải mọi sự sử dụng tác phẩm đều coi là “tiếp nhận văn học”. Văn học là một sản phẩm tinh thần, kết tinh những kinh nghiệm tư tưởng tình cảm của con người trước Sáng kiến kinh nghiệm 1 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô một cuộc sống nhất định. Chỉ khi nào sử dụng đến thế giới tinh thần đó mới coi là tiếp nhận văn học toàn vẹn. Tiếp nhận đòi hỏi người đọc trước hết là phải biết tri giác, cảm thụ tác phẩm, phải hiểu ngôn ngữ, tình tiết, cốt truyện, thể loại để có thể cảm nhận hình tượng trong sự toàn vẹn các chi tiết, các liên hệ. Cấp độ thứ hai, người đọc tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập vào hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng và tình cảm của tác giả. Cấp độ thứ ba, đưa hình tượng vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng, nâng cấp lí giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính hệ thống, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hoá, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ nhân cách con người – tri giác, cảm giác, tưởng tượng, liên tưởng, suy luận, trực giác – đòi hỏi sự bộc lộ cá tính, thị hiếu, và lập trường xã hội, sự tán thành và phản đối... Chính vì vậy khái niệm tiếp nhận bao quát hơn và bao hàm các khái niệm cảm thụ, thưởng thức, lí giải, đồng cảm... Với lý thuyết tiếp nhận đó soi vào thực tế giảng dạy, định hướng học tập cho học sinh ở trường phổ thông chúng ta mới thấy một điều là đôi khi do sự hạn hẹp về thời gian mà giáo viên và các em học sinh chưa thật sự đi đến tận cùng quá trình tiếp nhận qua các cấp độ đối với một tác phẩm cụ thể mà đặc biệt là đối với những tác phẩm văn học nước ngoài, trong đó có thơ hai-cư của Ba-sô. Vì vậy, đối với học sinh lớp 10, để các em có thể tiếp nhận tốt giá trị của những bài thơ hai-cư được tuyển chọn đưa vào sách Ngữ văn 10 thì giáo viên cần có những biện pháp hướng dẫn cụ thể. II.1.2. Về thơ hai-cư: II. 1.2.1. Nguồn gốc ra đời: Nhật Bản là đất nước có một nền thơ ca rất vĩ đại, người Nhật thường tự hào đất nước mình là một “Thi quốc” (Đất nước của thơ ca). Nhật Bản có hai thể thơ dân tộc chủ yếu là tan-ka (Đoản ca, còn gọi là Wa-ka / hòa ca) với 31 âm tiết, ngắt nhịp theo kiểu 5-7-5-7-7 và hai-cư (bài cú). Thể Đoản ca chiếm ưu thế trong Vạn diệp tập – một thi tuyển đồ sộ của văn học Nhật Bản tập hợp những bài thơ được sáng tác từ khoảng thế kỉ IV đến thế kỉ VIII. Về sau chúng được ngắt làm hai để tạo những câu thơ 5-7-5 và 7-7 âm tiết. Những câu này được kết hợp đan xen với nhau tạo thành chuỗi dài gồm 36, 100, có khi nhiều hơn nữa những mắt xích, gọi là thể liên ca hài hước (haikai no ren-ga) – do tầng lớp thị dân thích đùa cợt phóng túng sáng tác nên. Chúng có thể do một nhóm thi sĩ hoặc một thi sĩ sáng tác với tư cách nhóm. Đề tài là thiên nhiên qua bốn mùa. Đồng thời, thể haikai cũng dễ sa vào sự dung tục chắp nối, gượng ép thiếu tâm hồn thơ. Thể liên ca thịnh hành vào thế kỉ XIV và XV. Sau đó, các nhà thơ sáng tác những bài thơ 5-7-5 âm tiết độc lập, không đứng trong chuỗi. Thiên tài Ba-sô đã đưa haikai thoát khỏi lối chơi tầm thường bằng sự dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của ren-ga cổ điển vào trong 17 âm tiết của một bài hokku. Đến giữa thời Sáng kiến kinh nghiệm 2 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô Ê-đô (1600-1868), thi pháp của loại thơ này đã được định hình vững chắc và được gọi là hai-cư (haiku - cách gọi ghép thu gọn của hai từ haikai và hokku lại thành). Như vậy, thơ hai-cư bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, đến thế kỉ XVII thì đạt tới đỉnh cao với Ba-sô. Cho đến nay, thơ hai-cư vẫn được người Nhật yêu thích và sáng tác. Không chỉ ở Nhật Bản, thể thơ này còn được nhiều nhà thơ phương Tây tiếp thu và sáng tác ra kiểu hai-cư bằng tiếng nước mình, trong số đó có khá nhiều tên tuổi lớn như: R.M.Ri-cơ (Đức), P.Ê-luy-a (Pháp), Ốc-ta-vi-ô Pát (Tây Ban Nha),… II.1.2.2. Đặc điểm thơ hai-cư: * Hình thức kết cấu: Thơ hai-cư là thể thơ vào loại ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết (một số bài nhiều hơn một chút), ngắt nhịp thành ba đoạn, theo thứ tự thường là 5 âm – 7 âm – 5 âm. Trong nguyên bản tiếng Nhật 17 âm tiết đó thường được viết thành một hàng, khi phiên âm La-tinh, thì được ngắt ra làm 3. Tiếng Nhật lại đa âm tiết, nên 17 âm tiết ấy thực ra chỉ có mấy từ. Ví dụ: Nguyên văn tiếng Nhật Đọc gần như Nghĩa là (phiên âm La-tinh) Bài 1 Aki to tose {a-ki tô tô-sê} (5 âm) Đón mười mùa thu Kaette Edo wo {ka-ê-t-tê ê-đô ô} (7 âm) trở về quê, thành phố Ê-đô Sasu kokyo {sa-su kô-ki-ô} (5 âm) tức là quê hương. Nếu không kể những từ có chức năng ngữ pháp, thì những thực từ trong bài là: Aki: mùa thu; to: 10; kaette: trở về; Edo: thành phố Ê-đô; sasu: chỉ tay, tức là; kokyo: quê hương. Ba dòng (đoạn) thơ hai-cư có chức năng khác nhau: + Dòng thứ nhất giới thiệu; + Dòng thứ hai tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng ba; + Dòng thứ ba: kết lại tứ thơ, nhưng không bao giờ rõ ràng, đủ ý mà phải mở ra những suy tư, xúc cảm của người đọc, theo kiểu có dư vị (“cam dư chi vị”, “huyền ngoại chi âm” – vị ngọt sau khi ăn, tiếng ngân ngoài dây đàn). * Quý ngữ: Từ chỉ mùa. Trong mỗi bài hai-cư bắt buộc phải có một “quý ngữ” (từ ngữ chỉ mùa – quý ngữ trực tiếp hoặc hình ảnh tượng trưng cho mùa – quý ngữ gián tiếp). Đó là dấu hiệu cho biết bài thơ đang làm trong mùa nào. Điều này cho thấy thơ hai-cư bao giờ cũng nói về cảnh vật trước mắt, nó là thơ của thời hiện tại. Việc dùng từ chỉ mùa thể hiện sâu sắc sự gắn bó của người Nhật với thiên nhiên. * Thủ pháp tượng trưng: Thơ hai-cư đã lựa chọn phương pháp biểu hiện tượng trưng để có thể thể hiện được tình cảm và suy nghĩ trong một số từ ngữ hết sức hạn chế. Với 17 âm tiết nó không thể trình bày miêu tả hết được sự vật, phong cảnh mà phải lựa chọn tìm những chi tiết, những nét đặc sắc nhất của sự vật có thể biểu hiện được toàn thể. Thủ pháp ấy cũng chính là thủ pháp của tranh thủy mặc. Thơ hai-cư cũng giống như tranh, nhưng không bao giờ chỉ là sự mô tả bề ngoài đơn thuần, mà phải có một tứ thơ nhất định, biểu hiện một cảm xúc, một suy tư nào đó. Với 17 âm Sáng kiến kinh nghiệm 3 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô tiết, hai-cư chỉ miêu tả một khoảnh khắc của cảnh vật và đỉnh điểm của một cảm xúc nào đó. * Thiên nhiên và triết lí về thiên nhiên: Thiên nhiên trong thơ hai-cư thường là những cảnh vật bình dị, những vật nhỏ bé, tầm thường, dễ bị lãng quên: một cánh quạ, một con ếch, một tiếng chim quyên, một làn tóc rối, một con khỉ nhỏ bé, một tiếng ve, một bông hoa dại nở bên bờ giậu,… và hai-cư cố gắng đi tìm cái đẹp từ trong cái bình thường ấy. Thơ hai-cư thấm đẫm tinh thần Thiền tông và tinh thần văn hoá phương Đông nói chung. Trong cách nhìn thế giới, hai-cư thường thể hiện con người và vạn vật nằm trong mối quan hệ chặt chẽ, có tính chất nhất thể hoá. Trang Tử nói: “Trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một” (Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất – Nam hoa kinh – Tề vật luận). Những hiện tượng của tự nhiên như âm thanh, màu sắc, mùi hương,… đều có sự tương giao và chuyển hoá lẫn nhau, trong một quy luật lớn lao và bí ẩn của tự nhiên. Điều này khiến cho hai-cư rất gần với thơ tượng trưng của phương Tây thời hiện đại, như lời tuyên ngôn của Bô-đơ-le: “Những mùi hương, màu sắc, những âm thanh tương giao với nhau”. * Cảm thức thẩm mĩ: Thơ hai-cư, nhất là hai-cư của Ba-sô có những nét thẩm mĩ rất riêng, rất cao và rất tinh tế: hai-cư đề cao cái Vắng lặng (sabi), Đơn sơ (wabi), U huyền (yugen), Mềm mại (shiori), Nhẹ nhàng (karumi),… chứ không thích sự ồn ào náo nhiệt, không thích vẻ phồn tạp, sặc sỡ, hoa lệ, uỷ mị, ướt át hay cứng cỏi, lên gân. Tóm lại, cảm thức thẩm mĩ Nhật Bản chi phối tất cả nghệ thuật văn hoá Nhật, nhất là văn chương. Thơ hai-cư của Ba-sô thấm đẫm cảm thức thẩm mĩ này. * Ngôn ngữ: Từ cảm thức thẩm mĩ ấy, trong thơ hai-cư người ta không thích dùng nhiều tính từ và trạng từ để cụ thể hoá sự vật. Hai-cư không bao giờ nói đủ tất cả, nó chỉ gợi chứ không tả. Thơ hai-cư để dành một khoảng không to lớn cho trí tưởng tượng của người đọc. Mỗi bài thơ hai-cư tuỳ theo kinh nghiệm của từng người mà có cảnh, tình, ý khác nhau, và nó chấp nhận tất cả, miễn là có lí. Cái mơ hồ ấy không phải là nhược điểm, mà là đặc điểm, hơn nữa là ưu điểm của hai-cư. Ở trên là nguồn gốc ra đời và những đặc điểm nghệ thuật của thơ hai-cư – những điều mà phần “Tiểu dẫn” trong SGK chưa có điều kiện giới thiệu đầy đủ hơn. Giáo viên là người cần thiết phải nắm vững hơn cả để có một kiến thức nền về thơ hai-cư vững chắc để có thể cảm thụ tốt nhất những bài thơ hai-cư của Ba-sô, để từ đó mà có thể định hướng cho học sinh tiếp nhận tốt về thơ hai-cư, và cũng là để truyền tới các em niềm yêu thích thể thơ độc đáo này của Nhật Bản. II.1.2.3. Tứ trụ thơ hai-cư: - Ma-su-ô Ba-sô (1644-1694). - Y.Bu-sôn (1716-1783): Taniguchi Buson (còn có tên là Yosa Buson) là thi sĩ và họa sĩ. Ông sinh năm 1716 ở ngoại ô thành Osaka. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Năm 1737, ông đến thành Ê-đô học vẽ và làm thơ theo Ba-sô. Năm 1772, ông ra mắt tập thơ đầu tiên. Người ta biết đến ông nhiều như là một họa sĩ. Sáng kiến kinh nghiệm 4 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô - K.Ít-sa (1763-1827): Kobayashi Nobuyki ( còn có tên là Kobayashi Yataro) sinh năm1763 tại Kashiwabara, tỉnh Shinano. Cuộc đời ông nhiều bất hạnh. Ông mất mẹ thuở còn thơ ấu. Bà mẹ kế đối xử tàn tệ với ông. Ông sống trong nghèo khổ. Con chết, cuộc hôn nhân lần thứ hai không hạnh phúc. Tuy vậy, thơ ông tràn đầy sự yêu đời. Năm 1777 ông đến Ê-đô tập làm thơ dưới sự dẫn dắt của Mizoguchi Sogan và Norokuan Chikua . Ông sinh sống nhiều nơi: Kyoto, Osaka, Nagasaki, Matsuyama ... Khi cha chết, ông trở về Kashiwabara. Lúc này ông đã nổi tiếng, vừa viết văn, vừa làm thơ. Ông viết trên 20.000 bài thơ hai-cư. Năm 1826, Ông cưới vợ lần thứ ba và mất năm 1827. - M.Si-ki (1867-1902): Shiki Masaoka bút danh là Masaoka Tsunenori sinh năm 1867 tại Matsuyama, cha chết lúc ông 5 tuổi. Bà mẹ là một nhà giáo đã dạy ông văn học Nhật và làm thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1885 . Năm 1892, ông ngưng học vì lý do sức khỏe và từ đó Ông chuyên tâm làm thơ hai-cư và tan-ka ( thơ ngắn). Ông xuất bản tờ báo Nippon chuyên về thơ hai-cư. Năm 1894, ông mắc bệnh lao phổi và mất năm 1902. II.1.3. Về nhà thơ Ba-sô: II.1.3.1. Cuộc đời nhà thơ: (Chân dung nhà thơ Ba-sô) Ba-sô tên thật là Matsuo Munefusa sinh trong một gia đình võ sĩ samurai ở thị trấn U-ê-no xứ I-ga (nay là tỉnh Mi-ê) ngày 15-11-1644. Mới lên 9 tuổi Ba-sô đã phải xa nhà đến lâu dài lãnh chúa xứ I-ga làm tiểu đồng cho con trai lãnh chúa là Yoshi-ta-da lớn hơn Ba-sô hai tuổi. Hai người trở thành đôi bạn thân cùng nhau học tập và làm thơ. Đôi bạn chuyên tâm vào chuyện làm văn chương hơn là võ thuật, cũng bởi hồi ấy là thời bình an (1600-1868). Hai người làm thơ dưới sự hướng dẫn của thầy Ki-ta-mu-ra Ki-gin nổi tiếng về thi ca và phê bình nghệ thuật. Nhưng tình bạn văn chương ấy kết thúc sớm vì Yo-shi-ta-da chết lúc 24 tuổi. Ba-sô thực hiện chuyến hành hương đầu tiên lên núi Koya để đặt một nạm tóc của bạn Yositada vào chùa. Trong rừng vắng giữa đền chùa và mộ địa, Ba-sô bắt đầu cảm nghiệm về nỗi vô thường và niềm cô tịch – những cảm thức rồi sẽ thấm sâu vào mỗi dòng chữ sau này. Sáng kiến kinh nghiệm 5 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô Sau đó, Ba-sô rời bỏ lâu đài xứ I-ga - nơi đầy kỉ niệm - dù không được phép của lãnh chúa. Năm 28 tuổi, Ba-sô lên Ê-đô, một thành phố thị dân (ngày nay là thủ đô Tô-ki-ô). Ông học Thiền đạo và gia nhập văn giới Ê-đô một cách nhanh chóng. Nơi đây có nhiều trường phái thơ. Thơ hai-cư (haiku) lúc ấy còn gọi là hokku hay haikai chưa thành một thể thơ độc lập. Chính Ba-sô đã dung hợp sự trào lộng đời thường của thể haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của ren-ga truyền thống làm nảy sinh thể hai-cư độc lập. Đặc biệt là năm 1675, Ba-sô được mời tham dự ren-ga với So-in. Cuộc gặp gỡ này là một ảnh hưởng có ý nghĩa trong đời Ba-sô. Ở những năm gần 40 tuổi (khoảng năm 37 tuổi trở đi), Ba-sô mới thật sự viết những bài hai-cư mang phong cách thơ thiền Ba-sô rõ rệt, tức là “giải thoát hai-cư khỏi trò chơi chữ và ông là một với hai-cư, là một với vĩnh cửu” [Nhiều tác giả, Nhật Bản trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thành phố Hồ Chí Minh, 2003, trang 22]. Những năm cuối đời, để nuôi dưỡng tinh thần và cảm hứng thơ của mình. Ba-sô làm cuộc du hành khắp đất nước. Ông vừa đi vừa viết du kí và sáng tác thơ hai-cư. Cuộc đời thi hào Ba-sô có thể chia ra các giai đoạn như sau: - “Am Ba tiêu”: một thương gia giàu có, ngưỡng mộ Ba-sô xây cho ông một ngôi nhà ở Fukagawa, gần dòng Su-mi-da. Cạnh nhà có trồng một cây chuối đọc là ba-sô (ba tiêu). Cây ba-sô là một loại thuộc giống chuối không có trái, nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt đối với nhà thơ: những phiến lá xanh rộng lớn của nó rất dễ bị gió xé rách tươm, một biểu tượng rõ nét đối với cảm xúc của thi nhân. Cũng từ đây, ông lấy “Ba-sô” làm bút danh cho mình. Còn ngôi nhà ông ở gọi là Ba-sô-an (am Ba tiêu). Được hai năm thì Ba tiêu am bị cháy trong một cuộc hỏa hoạn lớn ở thành phố Ê-đô. Bạn bè và đệ tử xây lại nhà mới cho ông. Một năm sau, tức mùa thu năm 1684, Ba-sô từ bỏ am Ba tiêu lên đường phiêu lãng làm “lữ nhân của phù thế”. - “Những bước đường phiêu lãng”: Kể từ đây Ba-sô dấn thân vào con đường gió bụi như các nhà thơ nổi tiếng: Lí Bạch, Đỗ Phủ của Trung Quốc; Sogi của Triều Tiên; Saigyo của Nhật Bản. Sau “những bước đường phiêu lãng” là bút ký “Nozarashi kiko” (tức Du kí Phơi thân đồng nội) ra đời năm 1685. - “Những nẻo đường sâu thẳm”: Đây là cuộc du hành đầy khó khăn trắc trở và gian khổ để đến nơi còn sự hoang dã và huyền bí sâu xa, gắn liền với tác phẩm Lối lên miền Ô-ku nổi tiếng của ông. - “Huyễn trú am”: là niềm hạnh phúc ở am đời hư huyễn mà Ba-sô đã kể lại: “và tôi lê chân dọc theo bờ biển hoang dại của phương Bắc, nơi mỗi bước chân băng qua cồn cát đều khốn khó. Tôi lang thang ven bờ hồ tìm nơi trú ngụ, một nhánh lau sậy mà chiếc tổ chim cộc trắng sẽ tấp vào trên dòng nước chảy. Đây là nơi huyễn trú của tôi, và nó đứng bên mạn núi gọi là Kokubi. Gần đây có một đền thờ xưa cũ, nơi tôi cảm thấy mình gột sạch cát bụi trần gian”. - Mùa xuân 1694, Ba-sô lại một lần nữa quyết định tiếp tục dấn bước trên con đường “lữ nhân” để thăm phương Nam. Điểm dừng sẽ là Kyusu. Nhưng trên đường đi, Ba-sô lâm trọng bệnh khi đến Usaka. Sáng kiến kinh nghiệm 6 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô Thi hào Ba-sô mất ngày 12-10-1694 trong khi giấc mộng của ông còn lang thang phiêu bạt trên những cánh đồng hoang, trên những ngã tư đời hư ảo, trên những con đường sâu thẳm và vô danh, trên những ao hồ vĩnh cửu . Nhà thơ được chôn cất trong một ngôi đền gần Vô danh am, nhìn xuống hồ Tỳ bà nơi ông hằng thích thú. II.1.3.2. Những tác phẩm tiêu biểu: - Du kí phơi thân đồng nội (1685); - Đoản văn trong đãy (1688); - Cánh đồng hoang (1689); - Áo tơi cho khỉ (1691); -… - Nổi tiếng nhất: Lối lên miền Ô-ku (1689) - Đây không chỉ là tác phẩm nổi tiếng và hay nhất của Ba-sô, mà còn được coi là tập văn mẫu mực nhất của nền văn học cổ điển Nhật Bản. II.2. Nội dung biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô: II.2.1. Cung cấp thêm tư liệu về thiên nhiên và nền văn hoá Nhật Bản, về đặc điểm thơ hai-cư và nhà thơ Ba-sô: Văn học và văn hoá Nhật Bản là hai nguồn văn minh lớn trên thế giới. Trong sinh hoạt văn hoá truyền thống, người Nhật đề cao “tứ đạo”: Thư đạo, Kiếm đạo, Trà đạo, Hoa đạo. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn đóng góp cho kho tàng văn hoá nhân loại với các nghệ thuật khác như: nghệ thuật vườn cảnh, hội hoạ, tiểu thuyết,…. Trong đó hai-cư là một đóng góp lớn. Đời sống văn hoá tinh thần Nhật Bản phần nào cũng được phản chiếu trong văn học. Vì vậy, để có thể cảm nhận tốt các tác phẩm văn học Nhật Bản nói chung, thơ hai-cư của Ba-sô nói riêng thì việc trau dồi những hiểu biết về văn hoá Nhật Bản là vô cùng cần thiết. Đồng thời, mỗi một học sinh khi đi tìm hiểu những bài thơ hai-cư – một thể thơ mới mẻ cả về thể loại và thi pháp như vậy - cần thiết phải nắm bắt được những đặc điểm cơ bản của thể thơ độc đáo này. Hơn nữa, để hiểu rõ tư tưởng, tình cảm của nhà thơ gửi gắm trong bài thơ thì những hiểu biết về cuộc đời của nhà thơ là vô cùng cần thiết. Mà những nội dung này, với giới hạn của phần Tiểu dẫn mở đầu bài học, nó chưa cung cấp được nhiều thông tin như mong đợi và nhu cầu hiểu biết của học sinh. Bởi vậy, người giáo viên có nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc như một cây cầu nối mang các em đến với những tri thức ngoài sách giáo khoa về nền văn hoá Nhật Bản, về thể thơ hai-cư độc đáo của xứ sở này và về nhà thơ Ba-sô – một nhà thơ hàng đầu Nhật Bản, nhà thơ tiêu biểu cho thể thơ này. Hiện nay bài học “Thơ hai-cư của Ba-sô” đã có vị trí là bài học chính thức trong SGK Ngữ văn 10, tuy nhiên, chỉ với phân phối chương trình là hai tiết học nên giáo Sáng kiến kinh nghiệm 7 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô viên cần chọn lọc thông tin để giới thiệu thêm cho học sinh trong khi tìm hiểu nội dung phần Tiểu dẫn. Chẳng hạn: * Về thiên nhiên và nền văn hoá Nhật Bản: GV có thể chọn giới thiệu thêm cho học sinh về: - Vị trí địa lí đặc biệt của đảo quốc này: Là một đảo quốc có vị trí biệt lập, Nhật Bản cách đại lục khoảng 115 dặm. Toàn bộ đất đai Nhật gồm 4000 hòn đảo được bao bọc như một cù lao xanh nổi giữa biển khơi. (Bản đồ Nhật Bản) - Đặc điểm thiên nhiên Nhật Bản: Vì vị trí đặc biệt - gối đầu lên sóng nước cận Bắc cực và thả chân vào vùng biển nhiệt đới Thái Bình Dương – nên đất nước này có một thiên nhiên tuyệt đẹp, dịu dàng, tinh tế nhưng cũng rất dữ dội. Nhật Bản là một “cửa hàng thời tiết”, trưng bày những biến đổi tinh tế của bốn mùa: + Mùa xuân: có những làn gió ấm áp, dịu dàng đã bắt đầu thổi về từ cuối tháng hai, những cánh hoa mơ trắng muốt như tuyết. Mùa xuân, hoa anh đào nở rộ khắp nơi. ( Hoa anh đào nở rộ khắp nơi) + Mùa hạ: Sứ giả của mùa hạ là loài chim đỗ quyên – gọi là chim hô-tô-tô-ghi-su (hototogisu, còn được viết bằng chữ Hán là “thời điểu”, loài chim đến theo mùa hay chim thời gian) – là loài chim kêu vào đầu hè, nó không hót khi trời đẹp mà lại hót khi xẩm tối, vào đêm trăng, sau khi trời mưa,… tiếng kêu rất thê thiết. Mùa hạ là Sáng kiến kinh nghiệm 8 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô mùa của côn trùng và hoa mẫu đơn, các nhà thơ Nhật Bản thường nhắc đến côn trùng tự nhiên như khi họ nhắc đến các loài hoa vậy: (con ve) (con ếch) + Mùa thu lộng lẫy với sắc vàng, cam và đỏ rực của cây phong. Cây phong là biểu tượng cho mùa thu. Ngoài ra, mùa thu Nhật Bản còn có sự góp mặt của hoa Asagao – Triêu nhan – gương mặt sớm mai. ( Cây phong với sắc cam và đỏ rực). Sáng kiến kinh nghiệm 9 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô + Mùa đông: bắt đầu từ tháng mười hai, các cánh đồng và núi non trở nên nâu xám vì các cành cây đều trụi lá. Thiên nhiên khoác lên mình chiếc áo choàng trắng lạnh lẽo u tịch của tuyết, vạn vật mang một vẻ đẹp cổ kính tự ngàn đời. Trăng, tuyết mùa đông và lá chết là những hình ảnh thơ ca mà người Nhật yêu thích. (Tuyết trắng lạnh lẽo). Những điều ấy đã tạo cho người Nhật một cảm nhận đặc biệt tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên qua hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị,...Thơ ca của Nhật Bản thường chứa đựng chủ đề của bốn mùa và tình yêu của con người đối với thiên nhiên. Khi giáo viên giới thiệu cho học sinh được điều này sẽ giúp ích các em rất nhiều trong việc tìm hiểu quý ngữ trong mỗi bài thơ hai-cư. - Ngoài ra, giáo viên có thể giới thiệu sơ lược cho học sinh một số hình ảnh về những nghệ thuật độc đáo, nổi bật của xứ sở Phù Tang này: + Nghệ thuật vườn cảnh (Vườn Honbo tại Osaka) Sáng kiến kinh nghiệm 10 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô (Vườn Korakuen tại Okoyama) + Nghệ thuật trà đạo: (Những dụng cụ pha trà) (Biểu diễn nghệ thuật trà đạo Nhật Bản) + Môn võ cổ truyền nổi tiếng của Nhật Bản – Sumo: Sáng kiến kinh nghiệm 11 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô ( Võ sĩ Sumo trong trận đấu) + Chiếc áo Ki-mo-no truyền thống của Nhật Bản: (Cô gái Nhật Bản trong chiếc Ki-mo-no truyền thống) + Nhật Bản có hai nhà văn đạt giải Nobel văn học:  Yasunari Kawabata (1899-1972, đạt giải Nobel văn học năm 1968) Sáng kiến kinh nghiệm 12 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô  Oe Kenzaburo (sinh năm 1935, đạt giải Nobel văn học năm 1994). (Oe Kenzaburo tại Viện văn hoá Nhật Bản ở Đức, ngày 4 tháng 11, 2008). * Về nhà thơ Ba-sô: Giáo viên có thể giới thiệu sơ lược về các giai đoạn trong cuộc đời của Ba-sô để các em học sinh có thể phần nào hình dung rõ chặng đường đời du hành và viết thơ hai-cư của Ba-sô. Từ đó mà giáo viên có thể bước đầu giúp học sinh hiểu được phần nào về hoàn cảnh ra đời của một số tác phẩm của ông. Ví dụ: Để học sinh thấy được vị trí của Lối lên miền Ô-ku (1689) – tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, giáo viên giới thiệu sơ qua về chặng đường du hành của ông: “Những nẻo đường sâu thẳm” - cuộc du hành đầy khó khăn trắc trở và gian khổ để đến nơi còn sự hoang dã và huyền bí sâu xa. Trong những tác phẩm của mình, Ba-sô không cố ý ghi lại chân dung mình, nhưng thông qua những trang thơ và du kí của ông mà người đọc đã thấy được bức chân dung tự hoạ rõ nét và cả một tâm hồn cao đẹp và tấm lòng yêu thương lớn lao của thi sĩ giành cho con người và vạn vật. Đây đều là những phần tri thức nằm ngoài phần Tiểu dẫn mà không phải học sinh nào cũng tự tìm hiểu được. * Về thể loại thơ hai-cư: Những thông tin cơ bản về hình thức, nội dung và nghệ thuật thơ hai-cư đã được SGK Ngữ văn 10 trình bày khá ngắn gọn. Giáo viên cần giới thiệu thêm cho học sinh về những nét nổi bật nhất gắn liền với đặc điểm nghệ thuật thơ hai-cư. Ví dụ: Sáng kiến kinh nghiệm 13 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô - Về cảm thức thẩm mĩ trong thơ hai-cư: Thơ hai-cư, nhất là hai-cư của Ba-sô có những nét thẩm mĩ rất riêng, rất cao và rất tinh tế: hai-cư đề cao cái Vắng lặng (sabi), Đơn sơ (wabi), U huyền (yugen), Mềm mại (shiori), Nhẹ nhàng (karumi),… Những khái niệm này với học sinh còn rất mới mẻ, cho nên, giáo viên nên giải thích thêm, giới thiệu hàm nghĩa và biểu hiện của mỗi yếu tố được nhắc đến trong cảm thức thẩm mĩ trong thơ hai-cư của Ba-sô, như: + Sabi (Vắng lặng) là cảm thức về cái cô tịch, cô liêu, tĩnh lặng, cổ xưa…của linh hồn vạn vật. Nó còn là niềm cô tịch vô ngã của tinh thần Thiền tông. Ví dụ trong bài thơ hai-cư của Ba-sô: Trên cành khô/ chim quạ đậu/ chiều thu. Nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác. Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm thức sabi. + Yugen (U huyền), tức cái chúng ta cảm nhận được nhưng không phân tích được. Chẳng hạn, ta vỗ hai bàn tay vào nhau làm phát ra một âm thanh ta nghe được. Nếu ta chỉ vỗ một bàn tay thì âm thanh phát ra là gì? Đó là âm thanh của sự tĩnh lặng! + Wabi (Đơn sơ) là những cái gì thuộc về tự nhiên rất bình thường, rất đơn sơ, mộc mạc mà ta thấy được. Wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông nói đến sự trải nghiệm về sự thanh bần an lạc, dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. + Karumi (Nhẹ nhàng) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ hai-cư có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị lãng quên. Tựu chung lại, khi triển khai kiến thức ở phần Tiểu dẫn, giáo viên hướng dẫn học sinh tự soạn bài và trình bày trên lớp những hiểu biết của mình về tác giả Ba-sô, về thơ hai-cư. Còn thời lượng trên lớp giáo viên giành thời gian cung cấp thêm những tri thức ngoài SGK cho học sinh về nền văn hoá độc đáo của Nhật Bản, về nhà thơ Ba-sô và về thơ hai-cư. Làm được điều này, giáo viên sẽ tạo cơ sở ban đầu cho việc nhập cảm, tạo hứng thú cho học sinh tiếp tục đi tìm hiểu về một thể thơ độc đáo, nổi tiếng Nhật Bản nhưng lại đang rất mới mẻ với mình. Đó là thành công bước đầu của giáo viên ở bài học này. II.2.2. Hướng dẫn học sinh cách đọc văn bản và chú thích, từ đó tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của bài thơ: Theo các cấp độ tiếp nhận một văn bản thì bước đọc văn bản là một trong những khâu bước rất quan trọng và không thể thiếu. Bởi có đọc văn bản, nắm vững được những từ ngữ, hình ảnh trong văn bản thì người đọc mới có thể đi vào một cấp độ cao hơn là hiểu và cảm những ý tứ và tư tưởng của tác giả bộc lộ qua văn bản ấy. Đối với một tác phẩm văn học nước ngoài như những bài thơ hai cư trong chương Sáng kiến kinh nghiệm 14 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô trình Ngữ văn 10 – những bài thơ được dịch ra tiếng Việt mà tách biệt hoàn toàn với phiên âm - lại càng cần thiết hơn hết. Và một điều cũng vô cùng quan trọng là trong quá trình đọc – hiểu mỗi bài thơ thì học sinh cần phải bám sát vào phần chú thích ở chân trang để góp phần hiểu đúng và sâu sắc hơn về nội dung bài thơ. Chú thích là lời giải thích ngắn gọn ở một chỗ cụ thể thong văn bản chính hoặc văn bản phụ. Và trong phần chú thích ở một số bài thơ hai-cư trong số 8 bài thơ hai-cư là cung cấp cho người đọc về hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Chính vì vậy, đọc - hiểu chú thích là một thao tác không thể thiếu khi đọc – hiểu thơ hai-cư của Ba-sô. Ví dụ: - Ở bài thơ hai-cư số 1 (theo thứ tự được dẫn ra trong SGK Ngữ văn 10): chú thích số (1) đã cho người đọc biết rằng Ba-sô từng rời quê hương Mi-ê để lên Ê-đô (Tô-ki-ô ngày nay), ở được mười năm mới về lại thăm quê. Ê-đô là nơi ông sống từ khoảng 1672 (lúc ông 28 tuổi) cho đến thời điểm làm bài thơ này (là khoảng 38 tuổi). Đó là một khoảng thời gian gắn bó với Ê-đô để rồi khi ông rời xa rồi lại thấy nhớ và thấy thân thiết như quê hương mình. Có nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ, người đọc mới cảm nhận hết được tình cảm sâu nặng của nhà thơ Ba-sô đối với nơi ông đã từng sống và gắn bó. - Ở bài thơ hai-cư số 2 (theo thứ tự được dẫn ra trong SGK Ngữ văn 10): chú thích số (2) đã cung cấp cho người đọc về hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Thời trẻ, Basô có ở Kinh đô (Ki-ô-tô) khoảng từ năm 1666 (năm ông 22 tuổi) đến năm 1672 (lúc ông 28 tuổi) thì chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau ông trở lại Ki-ô-tô, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ này. Biết hoàn cảnh ra đời của bài thơ, chúng ta cũng mới hiểu được tấm lòng của Ba-sô đối với Ki-ô-tô. - Còn trong bài thơ hai-cư số 3: Giáo viên vừa định hướng học sinh đọc chú thích số (3), vừa cung cấp thêm thông tin về hoàn cảnh ra đời của bài thơ để học sinh có thể hình dung và cảm nhận rõ nhất về tình cảm của tác giả giành cho người mẹ của mình: Năm 1684, Ba-sô 40 tuổi, ông làm cuộc du hành đến vùng Kan-sai gần quê mình. Về đến nhà thì hay tin mẹ đã mất. Người anh đưa cho ông di vật còn lại của mẹ là một mớ tóc bạc. Ông đau đớn mà viết lên bài thơ này. - Trong bài thơ hai-cư số 4: chú thích số (4) đã cung cấp cho học sinh hiểu biết về một sự thật đau xót trên đất nước Nhật Bản xưa vào những năm mất mùa đói kém, nhiều gia đình nông dân túng quẫn quá, không nuôi nổi con, đành phải đưa con bỏ vào rừng. Thậm chí có khi đang tâm giết cả những đứa trẻ sơ sinh vì không nuôi nổi tất cả. Những đứa trẻ như vậy tiếng Nhật gọi là những đứa trẻ “ma-bi-ku” – tỉa bớt, như người ta tỉa bớt cây non. Chính Ba-sô trong Du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685 đã kể chuyện một lần đi ngang qua cánh rừng, ông nghe thấy tiếng vượn hú. Âm thanh đó không có gì là lạ, ta có thể bắt gặp khá nhiều trong thơ xưa (như trong thơ Lí Bạch: “Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận” – Tiếng vượn đôi bờ kêu chẳng dứt; thơ Đỗ Phủ: “Phong cấp thiên cao viên khiếu ai” – Gió gấp, trời cao vượn nỉ non) nhưng với Ba-sô, tiếng vượn ấy đã gợi cho nhà thơ nhớ đến tiếng khóc thê lương, não lòng của một em bé bị bỏ rơi trong rừng. Chính những thông tin mà Sáng kiến kinh nghiệm 15 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô giáo viên cung cấp thêm về hoàn cảnh ra đời của bài thơ sẽ giúp học sinh cảm nhận hết được tấm lòng của thi sĩ giành cho những sinh linh bé nhỏ, bất hạnh kia. - Ở bài hai-cư số 5 không có chú thích, nhưng với sự tìm hiểu của mình, giáo viên cung cấp thêm thông tin gắn liền với văn bản bài thơ: Bài thơ được sáng tác khi Ba-sô đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng đến điều ước của chú khỉ và viết lên bài thơ này. - Ở bài thơ hai-cư số 6: Cùng với nội dung phần chú thích số (5) về hồ Bi-oa hồ lớn nhất của Nhật Bản, giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh hình ảnh về hồ nước có hình dáng giống như cây đàn tì bà ở trung tâm tỉnh Si-ga, gần quê của Basô. Hình ảnh này vừa tác động trực quan học sinh, lại vừa giúp học sinh hiểu thấu đáo mối tương giao màu nhiệm giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên. (Hồ Bi-oa – Hồ Tì bà) - Ở bài thơ hai-cư số 7: phần chú thích số (6) chưa giúp học sinh hiểu về hoàn cảnh ra đời của bài thơ này. Giáo viên sẽ là người cung cấp thêm những thông tin lí thú về sự ra đời của bài thơ. Điều đó sẽ tạo thêm sự hứng thú cho học sinh, cuốn hút các em vào bài học: Trong tác phẩm Lối lên miền Ô-ku, đoạn viết về chùa Riu-sa-kuji, Ba-sô có kể chuyện mình leo lên núi đá để thăm chính diện ngôi chùa: “khi chúng tôi đến nơi, trời vẫn chưa tắt nắng (…) Các điện xây trên đá thảy đều đóng cửa, bốn bề im lặng như tờ. Chúng tôi đi quanh triền núi, leo qua những tảng đá để vào lễ ở chánh điện. Cảnh sắc tuyệt vời, tịch mịch. Tôi thấy trong lòng cô cùng thanh thản”. (Vĩnh Sính, Lối lên miền Ô-ku, trong Việt Nam và Nhật Bản – giao lưu văn hoá, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.483). Và bài thơ hai-cư đã ra đời để ghi lại khoảnh khắc ấy. - Và ở bài thơ hai-cư số 8: Ngoài thông tin ngắn ngủi của phần chú thích số (7), giáo viên có thể cung cấp thêm thông tin về hoàn cảnh ra đời của bài thơ để giúp học sinh cảm nhận sâu sắc về tâm hồn yêu cuộc đời tha thiết, tình yêu thiên nhiên và khát khao tự do của nhà thơ Ba-sô: Bài thơ viết ngày 8 tháng 10 năm Nguyên Lộc VII (1694) ở Ô-sa-ka. Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó ông thấy mình yếu lắm rồi, nhưng cuộc đời Ba-sô là cuộc đời lang thang, phiêu bồng, lãng du. Vì thế 16 Sáng kiến kinh nghiệm GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng tâm hồn mình. Mỗi nội dung ở trên sẽ được tìm hiểu và giới thiệu theo từng bài theo tiến trình đọc – hiểu 8 bài thơ hai-cư của Ba-sô. Khi thống kê, tìm hiểu trọn vẹn hoàn cảnh ra đời của 8 bài thơ hai-cư được giới thiệu trong SGK Ngữ văn 10 chúng ta mới thấy hết ý nghĩa của nó đới với việc cảm nhận và tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô. Bởi việc đọc văn bản và đọc chú thích là việc làm tạo tiền đề cho học sinh cảm nhận sâu sắc bài thơ. II.2.3. Hướng dẫn học sinh khám phá nội dung và nghệ thuật bài thơ: Khám phá nội dung và nghệ thuật của bài thơ là một bước tiếp nhận dường như trọn vẹn nhất đối với một bài thơ. Bởi ở đó, người đọc vận dụng tất cả những hiểu biết của mình về bài thơ để đối diện với toàn bộ cấu trúc thẩm mĩ của tác phẩm, với nhận thức và đánh giá hiện thực, với tình cảm và tư tưởng của tác giả. Người đọc sẽ đưa hình tượng vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng, nâng cấp lí giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính hệ thống, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hoá, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật. Và đúng theo lí thuyết tiếp nhận văn học ở trên, sau khi giới thiệu hoàn cảnh ra đời tạo tiền đề cho học sinh tìm hiểu bài thơ, giáo viên sẽ tiếp tục định hướng cho các em bằng những tri thức đã tự học ở nhà về phần đặc điểm hình thức và nội dung, nghệ thuật thơ hai-cư các em sẽ chủ động khám phá nội dung và nghệ thuật của từng bài thơ. * Thứ nhất, học sinh có thể nhận diện những từ ngữ trực tiếp và gián tiếp chỉ mùa (quý ngữ) trong từng bài thơ. Quý ngữ ở các bài thơ hai-cư của Ba-sô trong SGK là: Bài 1 2 3 4 5 6 7 8 Quý ngữ Chỉ mùa Mùa sương Mùa thu Chim đỗ quyên Mùa hè Sương thu Mùa thu Gió mùa thu Mùa thu Mưa đông Mùa đông Hoa đào Mùa xuân Tiếng ve Mùa hè Cánh đồng hoang vu (cánh đồng khô) Mùa đông * Thứ hai, học sinh đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác để cảm nhận về nội dung của bài thơ. Đồng thời, giáo viên định hướng và gợi ý học sinh liên hệ mở rộng với những bài thơ, ý thơ, câu thơ đã học hoặc đã biết (nếu có) để đối sánh làm nổi bật nội dung và nghệ thuật của từng bài thơ: - Ở bài 1: Sáng kiến kinh nghiệm 17 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô + Bài thơ thể hiện tình cảm thân thiết gắn bó với mảnh đất nơi mình ở. + Liên hệ: So sánh với bài Độ Tang Càn của Giả Đảo đề thấy bài thơ của Ba-sô có thể học tập tứ thơ nhưng lại vô cùng súc tích. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có hai câu thơ “gặp gỡ” với bài thơ của Ba-sô về tứ thơ: Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn! - Ở bài 2: + Tiếng chim đỗ quyên (còn gọi là chim quyên, chim đỗ vũ, chim tử quy,…) – những tiếng kêu thê thiết – được dùng với nghĩa tiếc thương thời gian, và đặc biệt thể hiện nỗi buồn và sự vô thường. Ba-sô quay trở về Kinh đô (trong hiện tại) sau hai mươi năm xa cách, nghe tiếng đỗ quyên hót mà nhớ Kinh đô xưa ( một Kinh đô đầy kỉ niệm, một kinh đô đã vĩnh viễn qua rồi). Đó là tiếng chim hay tiếng người? Điều ấy mơ hồ không biết được, có thể là cả hai. + Liên hệ: Tiếng chim cuốc trong thơ Bà huyện Thanh Quan: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc – Thương nhà mỏi miệng cái gia gia (Qua đèo ngang). - Ở bài 3: + Nỗi xót xa thể hiện ở giọt lệ nóng hổi rơi xuống bàn tay đang cầm mớ tóc bạc của người mẹ đã khuất. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay là mái tóc bạc của mẹ như sương, hay cuộc đời như giọt sương – ngắn ngủi, vô thường? Hình tượng làn sương khiến bài thơ mờ ảo, đa nghĩa. Bài thơ thể hiện nỗi đau đớn, xót xa, xúc động của Ba-sô khi về quê thì mẹ đã mất, và tình cảm lớn lao ông giành cho ngưòi mẹ. + Liên hệ: hình ảnh “làn sương” cũng thường được dùng trong văn học, nhưng trong các thể thơ khác nó có vẻ đa nghĩa hơn:  Mẹ già phơ phất mái sương Con thơ măng sữa vả đương bù trì. (Chinh phụ ngâm)  Tuổi già hạt lệ như sương, Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan. (Nguyễn Khuyến, Khóc Dương Khuê) - Ở bài 4: + Tiếng vượn hú là thật hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc trong gió thu là thật? Gió mùa thu tái tê đang than khóc cho nỗi đau buồn của con người hay chính là lòng người đang tái tê? Thơ hai-cư không nói rõ, nó chừa một khoảng trống để người đọc bằng kinh nghiệm của bản thân sẽ hình dung ra một hình ảnh riêng. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc. Bài thơ là tình yêu thương của Ba-sô dành cho trẻ em đói khổ, đoản mệnh. + Liên hệ: Tình yêu thương của Ba-sô trong bài thơ này rất gần với tâm hồn Tố Như trong Văn tế thập loại chúng sinh: Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha Lấy ai bồng bế vào ra Sáng kiến kinh nghiệm 18 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. - Ở bài 5: Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh những người nông dân Nhật Bản, những em bé nghèo đang co ro trong cơn mưa lạnh. Bài thơ thể hiện lòng từ bi của nhà thơ với những sinh vật nhỏ bé tội nghiệp, cũng là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ. - Ở bài 6: Xung quanh hồ Bi-oa có trồng nhiều hoa anh đào. Mùa xuân, mỗi khi gió thổi, cánh hoa đào lại rụng lả tả như mây. Cánh hoa hồng nhạt, mong manh rụng xuống mặt hồ, làm cho mặt hồ gợn sóng. Một cảnh tượng rất đẹp, rất giản dị như thế lại thể hiện một triết lí sâu sắc: sự tương giao của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Đó chính là cảm thức thẩm mĩ ka-ru-mi (nhẹ nhàng) trong thơ Ba-sô. - Ở bài 7: + Tiếng ve là thanh, đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, thấm vào đá. Liên tưởng thật độc đáo, kì lạ mà không hề khoa trương. + Liên hệ: Nguyễn Trãi cũng có tứ thơ tương tự: Ngư ca tam xướng yên hồ khoát Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao. (Ông chài hát lên ba lần làm cho mặt hồ phủ khói mở rộng ra Trẻ mục đồng thổi một tiếng sáo làm cho trăng trên trời cao hơn) (Chu trung ngẫu thành – Bài 2) - Ở bài 8: + Trước khi viết bài thơ này Ba-sô thấy mình yếu lắm rồi, nhưng cuộc đời ông là cuộc đời lang thang, phiêu bồng, lãng du. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng tâm hồn mình. Và ta lại như thấy tâm hồn Ba-sô lang thang trên khắp các cánh đồng hoang vu. + Liên hệ: Thú giang hồ là hứng thú của nhiều nhà thơ, nhà văn xưa nay như: Tư Mã Thiên, Lí Bạch, Tản Đà, Nguyễn Tuân,... Thú giang hồ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên, vừa thể hiện khát khao tự do của con người. Ví dụ, trong thơ Tản Đà: Trời sinh ra bác Tản Đà Quê hương thời có, cửa nhà thời không Nửa đời nam, bắc, tây, đông Bạn bè xum họp, vợ chồng biệt li Túi thơ đeo khắp ba kì, Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng... (Thú ăn chơi) Học sinh khám phá được nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng nghĩa với việc các em đã cảm nhận được các giá trị của bài thơ (cả giá trị nội dung, tư tưởng và giá trị nghệ thuật), có thể bằng trải nghiệm của mình mà lấp đầy những khoảng trống mà thơ hai-cư đã chừa ra. Như vậy đã là một thành công trong quá trình đọc – hiểu một thể thơ nước ngoài, lại rất mới mẻ này. Sáng kiến kinh nghiệm 19 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương Đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 10 tiếp nhận thơ hai-cư của Ba-sô II.2.4. Củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học và vận dụng sáng tạo kiến thức bài học để tập sáng tác thơ hai-cư bằng tiếng Việt: Củng có bài học luôn là một phần quan trọng trong tiến trình dạy –học, nó có tác dụng giúp học sinh nắm bắt được những kiến thức trọng tâm trong bài học, đồng thời, từ đó học sinh sẽ phát huy khả năng tự học và khả năng sáng tạo, vận dụng của mình trên cơ sở kiến thức đã học. III.2.4.1. Củng cố kiến thức: Ở bài học này, giáo viên có thể củng cố lại bài học cho học sinh theo hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan để nhằm mục đích vừa kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh, vừa khắc sâu kiến thức để các em nhận thấy những kiến thức trọng tâm trong bài cần nắm vững. Ví dụ: - Về tác giả Ba-sô: giáo viên có thể kiểm tra các em nhớ một số thông tin về tác giả (có thể về quê quán, bút danh, tác phẩm tiêu biểu,...). Chẳng hạn, trong số đó giáo viên đặt câu hỏi: Tác phẩm nào được đánh giá là nổi tiếng nhất của nhà thơ Ma-su-ô Ba-sô? A. Áo tơi cho khỉ (1691). B. Lối lên miền Ô-ku (1689). C. Cánh đồng hoang (1689). D. Đoản văn trong đãy (1688). - Về đặc điểm thơ hai-cư: Phần này có nhiều tri thức cho nên giáo viên có thể đặt nhiều câu hỏi liên quan tới các đặc điểm (có thể là về hình thức, nội dung hoặc nghệ thuật thơ hai-cư). Chẳng hạn: + Thơ hai-cư là một thể thơ có số từ thuộc vào loại ít nhất trên thế giới, theo cách phiên âm La-tinh thơ hai-cư cũng được ngắt đoạn khác với trong tiếng Nhật. Em hãy chỉ ra đáp án ĐÚNG về số từ và hình thức của bài thơ haicư? A. 15 âm tiết, ngắt thành ba đoạn theo thứ tự thường là 5-5-5 âm tiết. B. 17 âm tiết, ngắt thành ba đoạn theo thứ tự thường là 5-7-5 âm tiết. C. 30 âm tiết, ngắt thành ba đoạn theo thứ tự thường là 10-10-10 âm tiết. D. 31 âm tiết, ngắt thành ba đoạn theo thứ tự thường là 10-11-10 âm tiết. + Những từ ngữ: Vắng lặng, Đơn sơ, U huyền, Mềm mại, Nhẹ nhàng,… là để nói về điều gì trong nghệ thuật thơ hai-cư? A. Ngôn ngữ thơ hai cư. B. Quý ngữ trong thơ hai-cư. C. Cảm thức thẩm mĩ của thơ hai-cư. D. Tứ thơ của thơ hai-cư. - Về nội dung hoặc nghệ thuật của những bài thơ hai-cư của Ba-sô được tìm hiểu trong chương trình: giáo viên có thể đặt hai dạng câu hỏi ở mức độ nhận biết hoặc thông hiểu để kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh. Ví dụ: + Hãy xác định từ chỉ mùa (quý ngữ) trong bài thơ hai-cư sau của Ba-sô: Nằm bệnh giữa cuộc lãng du mộng hồn còn phiêu bạt những cánh đồng hoang vu. A. cuộc lãng du. B. phiêu bạt. Sáng kiến kinh nghiệm 20 GV thực hiện: Lê Thị Thu Dương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan