Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn-Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết chữ rõ ràng, sạch đẹp...

Tài liệu Skkn-Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết chữ rõ ràng, sạch đẹp

.PDF
26
2924
90

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM TRƯỜNG TH THỊ TRẤN MỎ CÀY ***** SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT VIẾT CHỮ RÕ RÀNG, SẠCH ĐẸP Ñeà taøi thuoäc lónh vöïc chuyeân moân: GDTH Hoï vaø teân ngöôøi thöïc hieän: LEÂ THÒ THANH BÌNH Chöùc vuï: Giaùo vieân dạy LỚP 1. Sinh hoaït toå chuyeân moân: Tổ 1 Thị Trấn Mỏ Cày, thaùng10/ 2011 PHẦN MỞ ĐẦU I. Bối cảnh của đề tài: Có người cho rằng trong thời đại khoa học kỹ thuật tiên tiến, khi việc sử dụng máy vi tính trở thành phổ biến, chữ viết của học sinh không cần phải quan tâm nhiều nữa. Với quan điểm này đã buộc thầy cô giáo suy nghĩ nhiều và nghiêm túc hơn trước thực trạng học sinh của mình viết sai, viết xấu và viết rất chậm. Bối cảnh giáo dục có bước chuyển mình quan trọng để “Chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo duïc” hướng mạnh vào hình thức kiểm tra, thi bằng trắc nghiệm khách quan càng làm cho giáo viên trở nên trăn trở khi dạy trẻ học viết chữ trong trường Tiểu học. II. Lý do chọn đề tài: Hiện nay một trong những kỹ năng hàng đầu của việc dạy học trong nhà trường là kỹ năng viết chữ. Nếu viết đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy kết quả học tập của các em sẽ cao hơn. Nếu viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Do đó “Rèn cho học sinh viết chữ rõ ràng, sạch đẹp ” là một trong những mục tiêu quan trọng mà giáo dục Tiểu học đã đề ra. Nó góp phần rất lớn vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỹ luật và khiếu thẩm mỹ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời từng căn dặn: “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người; dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và thái độ tôn trọng người khác trong giao tiếp bằng chữ viết; cần giữ gìn và quý trọng chữ viết mang bản sắc dân tộc Việt Nam,….”. Là một giáo viên dạy lớp một nhiều năm tôi rất tâm đắc lời dạy của cố Thủ tướng nên ngoài việc dạy học theo chương trình quy định, tôi còn đặc biệt coi trọng việc giúp trẻ học lớp 1 tập viết chữ, rèn chữ viết là mục tiêu tôi đặt ra và kiên trì thực hiện. Đồng thời nhằm góp phần thúc đẩy phong trào Giữ vở sạch, rèn chữ đẹp của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học Tập viết của giáo viên. Vì thế ngay từ đầu năm, khi nhận học sinh vào học lớp 1 tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một viết chữ rõ ràng, sạch đẹp” để tiến hành thực nghiệm và nghiên cứu. III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: - Phạm vi nghiên cứu là trẻ học lớp 1 ở trường Tiểu học… - Đối tượng nghiên cứu là chữ viết của học sinh lớp Một. IV. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm làm rõ quá trình rèn chữ viết cho học sinh: giúp trẻ học lớp 1 tập viết không gặp lúng túng khi tiếp thu kỹ thuật viết chữ mà giáo viên cung cấp, rèn thói quen viết chữ cẩn thận cho trẻ từ đó giúp trẻ viết đúng viết đẹp. V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu: - Tỉ lệ học sinh viết chữ đúng, đẹp được nâng cao. - Chất lượng chữ viết của trẻ học lớp 1 ngày càng được nâng cao và quá trình rèn chữ viết cho học sinh được tiến hành thuận lợi hơn. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận: - Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hoá, khoa học và đời sống… Do vậy, ở trường tiểu học, việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt. - Vấn đề “Rèn chữ viết ” cho học sinh được trường chúng tôi đặt lên hàng đầu, là phong trào được phát động rộng khắp trong trường. Hàng năm trường tôi đều tổ chức cho học sinh thi viết chữ đẹp vào dịp kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11. Nhưng đó chỉ là “phong trào”, việc thực hiện “Viết đúng, viết đẹp” dường như chỉ dừng lại ở một bộ phận học sinh giỏi, khá có ý thức và tập trung ở một số môn học…Việc duy trì xuyên suốt phong trào rèn chữ viết cho học sinh hiển nhiên là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm thực hiện theo quyết định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 14/06/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về Mẫu chữ viết trong trường tiểu học, thực hiện theo Chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học ở tiểu học. II. Thực trạng của vấn đề: Trong quá trình thực hiện việc “Rèn cho học sinh lớp Một viết chữ rõ ràng, sạch đẹp”, tôi rút ra được những khó khăn và thuận lợi sau: 1. Khó khăn. - Do chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập (từ mẫu giáo sang lớp 1) nên các em còn hiếu động, thiếu kiên trì và khó thực hiện các động tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. - Các em còn lúng túng khi tiếp thu kỹ thuật viết chữ mà giáo viên cung cấp. Tri giác của học sinh còn thiên về nhận biết tổng quát đối tượng, các em chưa tri giác thật sự tỉ mỉ từng nét chữ, từng động tác kỹ thuật viết chữ. - Học sinh chưa có thói quen viết liền nét, liên kết giữa các con chữ trong chữ và khoảng cách giữa các chữ chưa đều lúc nhặt lúc thưa, viết chữ chưa đều nét. - Học sinh viết chữ còn thừa và thiếu nét (ví dụ: ay viết aj, nụ viết mụ, thư viết tlư), chưa ghi đúng vị trí của dấu thanh trong chữ (ví dụ: quý viết qúy,hoàng viết hòang) và viết chưa đúng độ cao con chữ (ví dụ các chữ l, h, b, k, g, y độ cao là 2,5 đơn vị các em viết cao 2 hoặc 3 đơn vị…) - Phần lớn học sinh ngồi viết chưa đúng tư thế, một số ít học sinh chưa biết cách cầm bút và cầm bút chưa đúng cách. Bàn ghế, phòng học, ánh sáng,…tuy có nhiều cải tiến, tạo điều kiện tối ưu cho các em học tập nhưng nhìn chung so với yêu cầu thực tế vẫn chưa đáp ứng (vẫn một kích cỡ bàn ghế khiến cho một số em phải thể hiện tư thế rất khó khăn khi tập viết chữ….). - Sĩ số học sinh quá đông ở mỗi lớp (trên 30 em). - Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận phụ huynh chưa ý thức được tầm quan trọng của chữ viết nên còn xem nhẹ việc rèn chữ viết, giao khoán cho nhà trường, chỉ chú trọng cho con làm tính, học bài thuộc lòng….Điều đáng quan tâm là ngay trong đội ngũ giáo viên, vẫn còn một số giáo viên viết chữ chưa đẹp, chưa đúng mẫu, chưa coi trọng trong việc dạy học phân môn Tập viết, chưa hướng dẫn học sinh viết đúng theo trình tự tiết dạy Tập viết. Có tư tưởng cho rằng chữ viết không quan trọng, tới đây văn bản, đơn từ có mẫu, học sinh dùng máy vi tính đánh chữ là chủ yếu, chữ đẹp không còn là vấn đề khiến học sinh và phụ huynh phải nhọc công. 2. Thuận lợi. - Trường tôi được đặt ở khu vực… và còn là trường đạt chuẩn Quốc gia mức 1, hiện đang phấn đấu lên trường đạt chuẩn Quốc gia mức 2 theo Quyết định số 32/2005/QĐ-BGD&ĐT nên được trang bị khá đầy đủ về vật chất: bàn ghế đúng quy cách, phòng học có đủ ánh sáng đến từng học sinh, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học tương đối đầy đủ. - Các bậc phụ huynh hầu hết đều quan tâm đến việc học của con em mình, đặc biệt là về chữ viết. - Giáo viên được sự quan tâm của Ban giám hiệu. - Đa số học sinh vào lớp 1 đều được đi học mẫu giáo, đều biết được mặt chữ, biết được cấu tạo con chữ, biết được các nét cơ bản và biết được một số chữ ghi âm Tiếng Việt. - Phong trào giữ vở sạch - viết chữ đẹp cũng được thực hiện xuyên suốt trong kế hoạch năm học. - Phong trào thi viết đúng viết đẹp cũng được các cấp lãnh đạo quan tâm. III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: - Để “Rèn cho học sinh lớp Một viết chữ rõ ràng, sạch đẹp ” điều đầu tiên tôi suy nghĩ và trăn trở là: Giáo viên cần phải nắm vững chương trình và vở Tập viết hiện hành của Bộ Giáo dục và đào tạo để không chỉ nâng cao chất lượng dạy viết chữ mà còn phối hợp, lồng ghép, tích hợp với các môn học khác nhằm phát huy vai trò công cụ của phân môn Tập viết. Vấn đề này đã được chương trình sách giáo khoa, các lớp tập huấn, bồi dưỡng bàn đến khá nhiều. + Phần Học vần: Học sinh tập viết chữ cỡ vừa theo nội dung từng bài học âm, vần trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập một, tập hai và theo yêu cầu của tiết tập viết ở từng tuần học, cụ thể: . Từ bài 1 đến bài 27: Học sinh tập viết chữ cái ngay trong giờ âm và chữ ghi âm, theo nội dung bài học tương ứng trong sách giáo khoa. Ví dụ: Bài 7 học sinh tập viết hai chữ cái ê, v và hai từ bê, ve theo nội dung bài 7 trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập một: ê v bê ve. Hai tuần có 2 tiết Tập viết riêng (sau 9 bài học), học sinh tập viết các từ ứng dụng nhằm ôn các chữ cái đã học và luyện tập về kỹ thuật viết liền mạch (nối các chữ trong chữ ghi tiếng). . Từ bài 29 đến bài 103: Học sinh tập viết chữ ghi vần, tiếng ngay trong giờ học vần, theo nội dung bài học tương ứng trong sách giáo khoa. Ví dụ: Bài 70 học sinh tập viết 2 vần: ôt - ơt và 2 từ: cột cờ, cái vợt theo nội dung bài 70 trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập một. Hai tuần có 2 tiết Tập viết riêng (sau 9 bài học), học sinh tập viết các từ ứng dụng nhằm ôn các chữ cái đã học và tiếp tục luyện tập về kỹ thuật viết liền mạch (nối các chữ trong chữ ghi tiếng), để khoảng cách hợp lí giữa các chữ. + Phần Luyện tập tổng hợp: Mỗi tuần có 1 tiết Tập viết để thực hiện các yêu cầu: tập tô chữ cái viết hoa (hoặc tập viết các chữ số) theo cỡ vừa, luyện viết vần, từ ngữ theo cỡ chữ vừa và nhỏ; nội dung bài học trong vở tập viết được ghi rõ trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập hai. + Ngoài ra các em còn được rèn chữ viết ở buổi thứ hai mỗi tuần 2 tiết. - Vấn đề cốt lõi thứ hai theo kinh nghiệm của tôi là chất lượng chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ sư phạm của giáo viên…) mà còn có sự tác động của những yếu tố khách quan (điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy và học tập viết…). Do vậy, muốn rèn cho học sinh viết chữ rõ ràng, sạch đẹp giáo viên cần quan tâm hướng dẫn và nhắc nhở các em thường xuyên về các mặt chủ yếu dưới đây: * Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập Hoạt động chủ đạo của học sinh trong giờ học tập viết là thực hành luyện tập nhằm mục đích hình thành kĩ năng viết chữ ngày càng thành thạo. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông qua hai hình thức: viết trên bảng và viết ở vở tập viết. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, giáo viên hướng dẫn học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau: + Bảng con, phấn trắng, khăn lau . Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có chất lượng tốt, có độ dài vừa phải khi viết sẽ làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Khăn lau sạch sẽ, có độ ẩm vừa phải, dễ cầm tay sẽ giúp cho việc xóa bảng vừa đảm bảo vệ sinh vừa không ảnh hưởng đến chữ viết. . Sử dụng bảng con hợp lý, đảm bảo vệ sinh: ngồi viết đúng tư thế, viết theo hướng dẫn của giáo viên; cầm và điều khiển viên phấn đúng cách. . Viết xong cần kiểm tra lại, tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra, nhận xét. . Đọc lại chữ đã viết trước khi xóa bảng; xóa bảng hợp vệ sinh; để bảng đúng chỗ khi đã dùng xong. + Vở tập viết, bút chì, bút mực . Vở tập viết cần được giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc làm bẩn. . Bút chì cần được gọt cho cẩn thận (không nhọn quá hay tày quá) để dễ viết rõ nét chữ. Kích thước thân bút phải tương ứng với kích thước tay học sinh. . Bút mực: mực phải xuống đều. * Thực hiện đúng quy định khi viết chữ Giáo viên phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo vệ sức khoẻ cho học sinh trong quá trình tập viết chữ, công việc này thể hiện qua các bước cụ thể như sau: + Tư thế ngồi viết: Tôi hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ về tư thế ngồi viết: lưng thẳng, không tì ngực vào bàn; đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25-30 cm; tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch; hai chân song song thoải mái. Chú ý rèn tư thế viết thật thoải mái, không gò ép, cứng nhắc dễ làm các em bị mệt mỏi, căng thẳng khi viết. + Cách cầm bút: Tôi hướng dẫn học sinh cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa với độ chắc vừa phải nhẹ nhàng từ trái sang phải ( chú ý không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt giấy), cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo mềm mại, thoải mái, không nên cầm bút tay trái. + Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Tôi hướng dẫn học sinh khi viết cần để vở ngay trước mặt. Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở cần xê dịch vở sang bên trái để mắt nhìn thẳng nét chữ tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp. + Cách trình bày bài viết: Tôi hướng dẫn học sinh nhìn, viết đúng theo mẫu; viết theo hướng dẫn của giáo viên, tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ không được tẩy xóa mà cầm bút chì gạch nhẹ chữ viết sai rồi viết lại. Giáo viên cần uốn nắn kịp thời những em có tư thế ngồi viết không đúng, cầm bút sai, đặt vở không đúng vị trí; phải thường xuyên nhắc nhở học sinh từng lúc, ngay cả khi viết ở bảng, ở vở để tránh bệnh cong vẹo cột sống, bệnh cận thị học đường…Đối với những học sinh mắt bị kém hay có dấu hiệu bị cận thị thì tôi cho em ngồi ở bàn trên và quan tâm đến em nhiều hơn để điều chỉnh tư thế ngồi viết cho đúng. Đồng thời trao đổi, phối hợp với phụ huynh để hướng dẫn tư thế ngồi viết đúng cho em khi tự học ở nhà và nhắc nhở phụ huynh đưa em đến bác sĩ khám mắt định kỳ. - Vấn đề thứ ba: Giáo viên cần quan tâm kiến nghị nhà trường, phụ huynh tham gia giải quyết, đầu tư cho những yêu cầu, điều kiện về cơ sở vật chất cho phù hợp tạo đó là: + Ánh sáng phòng học: phòng học phải có đủ ánh sáng cho tất cả học sinh ngồi học đúng qui định của vệ sinh học đường. Cụ thể: Trong quá trình học sinh viết chữ tôi bật bốn bóng đèn để phòng học có đủ ánh sáng cho các em đồng thời hướng dẫn các em khi tự học ở nhà cũng cần phải ngồi viết nơi có đủ ánh sáng. + Bảng lớp: bảng lớp được treo ở độ cao vừa phải. Trên bảng có dòng kẻ như ở vở Tập Viết. Bảng chống loá để không làm chói mắt một số học sinh. + Phấn, bông lau: Dùng phấn không bụi, phấn không quá cứng, quá mềm. Bông lau bảng cần phải sạch sẽ, có độ ẩm, có đồ cầm thích hợp để học sinh, giáo viên xoá bảng sạch sẽ không dơ tay. + Bàn ghế: kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao của từng đối tượng học sinh để học sinh ngồi viết đúng tư thế, dáng ngồi thẳng đứng, tránh cong vẹo cột sống. + Vở Tập viết: Phải do nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành, in sẵn chữ mẫu thể hiện nội dung và yêu cầu của bài Tập viết. - Vấn đề thứ tư: Giáo viên phải quan tâm giúp đỡ học sinh, gọt bút chì khi bút bị hỏng để tạo cho các em có một tâm lý vui vẻ, thoải mái, phấn khởi được giáo viên quan tâm khi viết chữ. Từ đó, các em học tập tích cực và viết chữ đẹp. Cụ thể: Ở năm học này lớp tôi có em Trúc Ly, Hân, Tài, Tín, Vy, Thịnh, Lan, Nguyên viết chữ rất xấu, chậm và không đúng mẫu. Các em lại có tính nhút nhát, bút của các em thường bị gãy, các em thường khóc và không viết kịp bài. Tôi đến gọt bút cho các em, cầm tay hướng dẫn các em viết từng nét chữ, lưu ý lại độ cao từng con chữ. Dần dần, các em viết đẹp, viết đúng mẫu chữ và tốc độ viết cũng nhanh dần lên, các em trở nên mạnh dạn tự tin không còn khóc mỗi khi viết bài. - Vấn đề thứ năm: Giáo viên giúp học sinh nắm vững các nét cơ bản, độ cao từng con chữ theo Quyết định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT. Từ đó các em sẽ có kỹ năng phân tích cấu tạo chữ viết và thực hiện viết theo qui trình hợp lý, chủ động được nét bút của mình. Đây là điều cơ bản để giúp học sinh đúng, viết đẹp. * Giáo viên giúp các em viết đúng, biết và nhớ được tên gọi của các nét cơ bản, cụ thể là: Nét ngang: Nét thẳng: Nét móc hai đầu có thắt ở giữa: Nét móc trên: Nét móc dưới: Nét móc hai đầu: Nét xiên trái: Nét xiên phải: Nét hất: Nét khuyết trên: Nét khuyết dưới: Nét thắt: Nét cong kín: Nét cong hở trái: Nét cong hở phải: * Giáo viên giúp các em nắm vững độ cao các con chữ, cụ thể là: + Nhóm chữ có độ cao 1 đơn vị là a, o, ô, ơ, u, ư, i, v, n, m, ă, â, c, e, ê, x. + Nhóm chữ có độ cao 1.25 đơn vị là s, r. + Nhóm chữ có độ cao 1.5 đơn vị là t. + Nhóm chữ có độ cao 2 đơn vị là d, đ, q, p. + Nhóm chữ có độ cao 2.5 đơn vị là l, k, h, b, y, g. - Vấn đề thứ sáu: Giáo viên hướng dẫn các em từng bước làm quen và thực hiện được các kĩ thuật nối chữ, viết liền mạch và đặt dấu thanh để trau dồi kĩ năng viết chữ ngày càng thành thạo. * Kĩ thuật nối chữ: Quá trình hướng dẫn học sinh về kĩ thuật nối chữ được thực hiện qua các trường hợp như sau: + Trường hợp 1: Nét móc của chữ cái trước nối với nét móc (nét hất) đầu tiên của chữ cái sau. Ví dụ: Khi viết: an (a - n = an), im (i - m = im), ai (a - i = ai), tư (t - ư = tư) tôi hướng dẫn học sinh viết như sau: + Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái sau. Ví dụ: Khi viết: em (e - m = em), cư (c - ư = cư), ơn (ơ - n = ơn), oi (o - i = oi) tôi hướng dẫn học sinh như sau: + Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau. Ví dụ: Khi viết: ác (a – c = ac), họ (h – o = ho), ga (g – a = ga), yêu (y – ê = yê) tôi hướng dẫn học sinh viết như sau: + Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau. Ví dụ: Khi viết: oe (o – e = oe), oa (o – a = oa), xo (x – o = xo), eo (e – o = eo) tôi hướng dẫn học sinh viết như sau: * Cách viết liền mạch: Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu theo trình tự dấu phụ trước (từ trái sang phải), dấu thanh sau. Ví dụ: Khi viết chữ ghi tiếng ruộng giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong, sau đó đặt dấu mũ trên o và dấu nặng dưới ô để thành ruộng * Cách đặt dấu thanh: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách đặt dấu thanh trong chữ viết phải cân đối và mang tính thẩm mĩ. Chẳng hạn các dấu huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng thường được đặt vào vị trí khoảng giữa đối với các chữ cái: a, ă, o, ơ, e, i (y), u, ư; riêng đối với các chữ cái: â, ê, ô các dấu huyền sắc được đặt về phía bên phải của dấu mũ cụ thể như sau: Ngoài việc hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu về viết chữ ghi tiếng như đã nêu trên, giáo viên còn phải nhắc nhở các em lưu ý để khoảng cách giữa các chữ sao cho đều đặn, hợp lý. Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng thường được ước lượng bằng chiều rộng của một chữ cái o viết thường. - Vấn đề thứ bảy: Giáo viên cần nâng cao nhận thức của bản thân, đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh về việc rèn chữ viết ở phân môn Tập viết và các phân môn khác. Cụ thể là: Trong họp tổ chuyên môn và thao giảng chuyên đề dạy “Rèn chữ viết” của trường chúng tôi cũng bàn sâu về quy trình dạy, phương pháp dạy học để giúp hoc sinh viết đúng - viết đẹp. Trong các lần Đại hội phụ huynh học sinh tôi cũng trao đổi và hướng dẫn phụ huynh về cách viết chữ, về độ cao con chữ để phụ huynh nắm vững và hỗ trợ thêm khi các em học ở nhà và được sự đồng tình ủng hộ rất nhiệt tâm của phụ huynh nên chữ viết của các em ngày càng đẹp hơn. - Vấn đề thứ tám: Đó là chữ viết của bản thân giáo viên, giáo viên phải luôn chú ý rèn luyện chữ viết đẹp, đúng mẫu và cẩn thận khi viết vì chữ viết của mình khi viết, chấm, sửa bài trên bảng sẽ được học sinh quan sát và xem như chữ mẫu. Đồng thời chủ động cùng với học sinh tham gia phong trào viết chữ đẹp dưới nhiều hình thức. Ngoài ra, phải luôn luôn chú ý đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng nhiều phương pháp nhằm gây hứng thú cho học sinh trong giờ học, nâng cao hiệu quả giờ học Tập viết và các môn học khác. Các phương pháp thường sử dụng trong giờ dạy tập viết là: phương pháp trực quan, phương pháp đàm thoại, phương pháp gợi mở, phương pháp luyện tập thực hành, phương pháp trò chơi,... Ví dụ: Khi hướng học sinh tô chữ hoa A, tôi sử dụng phương pháp trực quan: tôi viết chữ hoa A mẫu trên bảng lớp. Và tôi đưa ra hệ thống câu hỏi: “Chữ hoa A gồm những nét nào? Chữ hoa A cao mấy dòng li? Nét nào tô trước, nét nào tô sau?” Nếu học sinh không nhớ một cách chính xác các câu hỏi thì giáo viên định hướng câu trả lời cho các em. Sau đó tổ chức cho các em luyện tập thực hành viết trên không, tô vào vở Tập viết. - Vấn đề thứ chín: Trong quá trình lên lớp, cần thiết chuẩn bị một số trò chơi trong tiết dạy Tập viết : thi viết đúng, đẹp, nhanh, dùng hộp quay ghép chữ,….để tạo không khí vui tươi, thoải mái trong tiết học, tạo sự ham thích viết chữ và để học sinh không nhàm chán trong giờ học. Kết hợp việc giảng dạy phân tích viết mẫu với việc luyện tập trên bảng con của học sinh trong cùng một nội dung. Hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp thu. Theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho học sinh từng lúc trên bảng, trong vở. Chú ý đặc biệt đến học sinh yếu, học sinh không biết cầm viết. Giáo viên cần động viên, khuyến khích, giúp đỡ học sinh từng lúc. Khen ngợi, tuyên dương để khích lệ tinh thần học tập, viết chữ đẹp của các em. Sự nỗ lực, kiên trì của học sinh cũng góp phần không nhỏ trong việc viết chữ đẹp và học tập của các em. Chẳng hạn: Khi dạy Tập viết tôi tổ chức cho các em thi viết đúng viết đẹp ở cuối tiết để tạo không khí vui tươi trong học tập; cho học sinh xem vở bạn viết đẹp; trưng bày bài viết đẹp của học sinh lên tường và tuyên dương khen ngợi học sinh. Chụp ảnh một số học sinh có tư thế ngồi viết đúng dán trên tường để học sinh ham thích và tạo thói quen đúng khi viết chữ cho các em. Đồng thời báo với phụ huynh để khen ngợi học sinh kịp thời. * Việc rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh phải được tiến hành đồng bộ ở lớp, ở nhà (giáo viên hướng dẫn, trao đổi những vấn đề cốt yếu để có thể vận động phụ huynh hỗ trợ học sinh rèn chữ viết thêm ở nhà, xây dựng góc học tập cho học sinh thích hợp, đúng cách…). * Sau đây tôi xin giới thiệu quy trình 1 tiết dạy tập viết mà tôi thường sử dụng và đã đạt hiệu quả. Tập viết tuần 21 bập bênh, tốp ca , lợp nhà, xinh đẹp , bếp lửa, giúp đỡ, ướp cá I.Mục tiêu: - Viết đúng các từ bập bênh, tốp ca, lợp nhà, xinh đẹp, bếp lửa, giúp đỡ, ướp cá kiểu chữ viết thường, cỡ vừa theo vở tập viết tập 2. - Học sinh khá giỏi viết được đủ số dòng quy định. Học sinh trung bình, học sinh hoà nhập viết mỗi dòng 1 từ. - Học sinh viết đúng, đẹp, đều nét, đều khoảng cách. - Học sinh trình bày sạch, đẹp, thích viết chữ đẹp. II.Chuẩn bị: - Giáo viên: Chữ mẫu. - Học sinh: Vở Tập viết, bảng, phấn, bút. III.Các hoạt động: Hoạt động dạy Hoạt động học 1.Kiểm tra: 3p - Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh. - Nhận xét. 2.Bài mới: 17p - Giáo viên giới thiệu bài. Hoạt động 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh viết từ ở bảng con - Giáo viên đính từ: bập bênh. - 1 học sinh đọc từ. - Gọi học sinh phân tích từ. Nhận xét. - Học sinh phân tích. - Gọi học sinh phân tích tiếng trong từ. Nhận xét. - Học sinh phân tích. - Giáo viên hướng dẫn học sinh cách viết từ, lưu ý độ cao con chữ b, p, h. - Cho học sinh viết từ. Nhận xét. - Lớp viết bảng con. - Giáo viên đính từ: tốp ca. Gọi học sinh đọc. - Học sinh đọc. - Cho học sinh phân tích từ, nêu cách viết tiếng, - Học sinh phân tích, nêu. từ. Nhận xét. - Giáo viên lưu ý độ cao con chữ t, p. - Cho học sinh viết từ. - Học sinh viết từ. - Các từ còn lại: lợp nhà, xinh đẹp, giúp đỡ, ướp cá tiến hành tương tự. Giáo viên lưu ý độ cao con chữ l, h, n, g, p. - Giáo viên giải thích từ: lợp nhà, ướp cá . - Học sinh lắng nghe. Nghỉ 3p Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh viết ở vở tập viết 15p - Cho học sinh đọc lại từ ở vở tập viết. - Học sinh đọc lại từ. - GV nhắc học sinh tư thế ngồi viết, cách cầm - Học sinh lắng nghe. bút. Lưu ý học sinh viết liền mạch, viết liêt kết giữa các chữ cái; ghi dấu thanh, dấu phụ đúng vị trí; viết đúng khoảng cách tiếng trong từ, đúng khoảng cách từ và từ. - Cho học sinh viết vào vở Tập viết, giáo viên yêu cầu học sinh trung bình, học sinh hoà nhập viết mỗi dòng 1 từ nếu còn thời gian viết thêm. - Giáo viên theo dõi uốn nắn, sửa sai cho học - Học sinh viết bài. sinh. - Giáo viên chấm bài, nhận xét sửa sai các lỗi học sinh mắc phải. - Cho học sinh xem vở viết đúng, đẹp, khen ngợi - 5 tập. tuyên dương học sinh., động viên nhắc nhở học sinh cố gắng viết đẹp hơn. 3.Nhận xét,dặn dò: 2p - Giáo viên nhận xét tiết học. - Dặn học sinh về viết tiếp (nếu chưa viết đủ số dòng) và tập viết lại bài cho đẹp. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. - Qua việc thực hiện những biện pháp trên, chất lượng chữ viết của học sinh lớp tôi phụ trách cũng tăng dần lên rõ rệt. Trong đợt thi viết chữ đẹp chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm nay lớp tôi có ba học sinh tham dự và đạt giải hai học sinh, hiện đang tiếp tục rèn luyện để dự thi cấp huyện. - Đầu năm học sinh lớp tôi phụ trách viết chữ rất xấu và không đúng mẫu.Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng chữ viết của 36 học sinh lớp mình phụ trách với kết quả vở sạch chữ đẹp như sau: + Loại A: 10HS – 27.8 %. + Loại B: 17HS – 47.2 %. + Loại C: 9HS – 25 %. - Sau khi thực hiện đề tài này đến cuối học kỳ I chất lượng chữ viết của học sinh lớp tôi đạt được như sau: + Loại A: 23HS – 63.9 %. + Loại B: 11HS – 30.6 %. + Loại C: 2 HS – 5.5 %. - Ở năm học này, tôi cùng đồng nghiệp cố gắng rèn cho học sinh ở lớp tôi nói riêng và học sinh tổ tôi nói chung vừa có học sinh đạt giải Hội thi viết chữ đẹp các cấp, vừa chú ý rèn cho mọi học sinh lớp tôi nói riêng và học sinh nhà trường đều viết chữ đẹp. Và nếu có điều kiện tôi sẽ trao đổi chia sẻ cùng với các anh chị đồng nghiệp trong huyện để nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh huyện nhà. PHẦN KẾT LUẬN I. Những bài học kinh nghiệm: Qua nghiên cứu và tìm hiểu các biện pháp rèn chữ viết cho học sinh, tôi nhận thấy: muốn đạt được mục tiêu giúp trẻ học lớp 1 viết chữ đúng mẫu, đúng chính tả, viết rõ ràng và sạch đẹp người giáo viên cần thực hiện một quá trình lâu dài (trong từng lúc dạy trên lớp và trong suốt bậc học), không phải một sớm một chiều có kết quả ngay được. Ngay từ đầu năm học, tôi phải có những hướng dẫn cụ thể với phụ huynh về đồ dùng học tập: vở, bút, bảng, phấn, bông lau, thước, tẩy đầy đủ; hướng dẫn cho phụ huynh hỗ trợ thêm ở nhà. Đồng thời, tôi phải dành thời gian rèn chữ viết cho học sinh, phải chịu khó và kiên trì. Vì ở lớp 1, viết xấu, viết không cẩn thận, viết sai chính tả thì lên các lớp trên rất khó rèn. Bên cạnh đó, khi dạy học sinh viết chữ, tôi chú trọng nhiều đến phương pháp luyện tập thực hành, gắn viết đúng - viết đẹp với nói hay, giúp học sinh hình thành và trao dồi kỹ năng viết - nói một cách đồng bộ, tạo thế tác động thuận chiều hỗ tương cho nhau. II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm: Việc thực hiện quá trình giúp trẻ học lớp 1 tập viết góp phần rất lớn trong việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt: tính cẩn thận, khiếu thẩm mỹ. Đồng thời giúp cho học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập. Và giúp cho giờ dạy học của giáo viên nhẹ nhàng hơn. Có thể khái quát những việc làm trên đây của tôi qua những vấn đề trao đổi chính là sự thể hiện cụ thể, sinh động quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn Tập viết lớp 1, tạo điều kiện cho học sinh chủ động tự quan sát, tự nhận xét, ghi nhớ qua hướng dẫn của giáo viên.Với những biện pháp trên, chữ viết của học sinh dần dần đạt đến độ chuẩn và đẹp. Điều cần lưu ý là để rèn chữ viết cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải rèn xuyên suốt trong lớp học, cấp học chứ không phải dừng lại ở lớp 1 và vấn đề còn đặt ra ở chỗ nhà trường phải có quy hoạch phân công, bố trí cho giáo viên đáp ứng yêu cầu rèn chữ viết cho học sinh. Mặt khác chúng ta cần lưu ý : đối với học sinh lớp 1 nói riêng, bậc Tiểu học nói chung, sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng chữ viết ở tất cả các môn học là cần thiết. Có như vậy, việc rèn chữ viết mới được củng cố, đồng bộ và thường xuyên.Việc làm này đòi hỏi người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự kiên trì, tận tụy với nghề, chu đáo, cẩn thận và giàu lòng yêu mến trẻ. III. Khả năng ứng dụng, triển khai. Tôi thiết nghĩ quá trình này giúp tôi rút ra nhiều bài học có thể coi là kinh nghiệm của bản thân nhưng đem lại hiệu quả cao, xin giới thiệu với đồng nghiệp tham khảo trao đổi thêm và được nhân rộng ra ở các lớp trong tổ, các trường trong huyện nhà để việc rèn chữ viết cho tất cả học sinh đạt dần đến độ chuẩn hơn trước. IV. Những kiến nghị, đề xuất: - Cần duy trì “Hội thi Viết đúng viết đẹp” hàng năm tại huyện nhà. - Cần cung cấp bàn ghế đáp ứng phù hợp với nhu cầu về thể lực của học sinh. - Giảm bớt số lượng học sinh ở mỗi lớp thì việc rèn chữ viết cho học sinh càng thuận lợi hơn. MỤC LỤC Nội dung Phần mở đầu Trang 1-2 I. Bối cảnh của đề tài 1 II. Lý do chọn đề tài 1 III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 2 IV. Mục đích nghiên cứu 2 V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 2 Phần nội dung 3 - 15 I. Cơ sở lý luận 3 II. Thực trạng của vấn đề 3 1. Khó khăn 3 2. Thuận lợi 3-4 III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Phần kết luận 5 - 16 16 17 - 18 I. Những bài học kinh nghiệm 17 II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 17 III.Khả năng ứng dụng,triển khai 17 IV. Những kiến nghị, đề xuất 17 Mục lục 19 Tài liệu tham khảo 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan