PHẦN I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp
tục học tốt ở bậc Trung học cơ sở.
Để thực hiện mục tiêu trên thì việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở các
trường Tiểu học là cần thiết. Đặc biệt là ở các trường HS 100% là người dân tộc
H.Mông, học sinh chủ yếu là tiếp thu học tập tại trường, về nhà thường không có
sự quan tâm của phụ huynh tạo thời gian cho con học, ôn bài. Làm thế nào để nâng
cao chất lượng giảng dạy và hoạt động 2 buổi/ ngày mà vẫn đảm bảo được phương
châm của giáo dục Tiểu học là “ Học nhẹ nhàng- tự nhiên- hứng thú- hiệu quả” ?
Dạy học 2 buổi/ ngày là phương thức bổ sung thêm thời gian cho việc học
tập, hoạt động của HS ở trường. Dạy học 2 buổi/ ngày sẽ sử dụng hiệu quả thời
gian tăng thêm ở trường để tổ chức các hoạt động giáo dục theo một chương trình,
kế hoạch được điều chỉnh và mở rộng. HS tham gia thực hiện phương thức học cả
ngày sẽ được học tập, hoạt động cả buổi sáng, buổi chiều tại trường vào các ngày
trong tuần.
Dạy học 2 buổi/ ngày là giải pháp tích cực để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện ở Tiểu học. Học 2 buổi/ ngày nhằm tăng thêm thời lượng học tập và rèn các kĩ
năng cho học sinh trên một đơn vị kiến thức đồng thời có thời gian dành cho các
hoạt động giáo dục tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường, giúp học
sinh củng cố kiến thức và phát triển năng khiếu, tránh được tình trạng quá tải trong
học tập, làm cho việc dạy học trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn và tránh được
tình trạng dạy thêm, học thêm ở Tiểu học.
Trước yêu cầu trên, thầy, cô, những người làm công tác sư phạm phải hiểu và
phải tìm kiếm những giải pháp giáo dục sao cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi
của các em thông qua các hoạt động vừa học- vừa chơi trong ngày do nhà trường tổ
1
chức. Đó chính là sự trăn trở không chỉ của các thầy, cô mà còn là của các nhà
quản lý ngành giáo dục, của các bậc phụ huynh và của cả xã hội.
Vậy làm thế nào để tổ chức dạy- học 2 buổi/ ngày có hiệu quả Để trả lời được
câu hỏi trên tôi đã chọn nghiên cứu "Một số biện pháp giúp giáo viên Tiểu học tổ
chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả”.
PHẦN II
PHẠM VI VÀ THỜI GIAN ÁP DỤNG
Phạm vi áp dụng : Giáo viên, học sinh tại trường tiểu học Bản Phố - Bắc Hà .
Thời gian áp dụng:Kinh nghiệm được áp dụng thực hiện trong năm học 2013- 2014
PHẦN III
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC2 BUỔI /NGÀY
TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC BẢN PHỐ
1.Thuận lợi:
1.1. Giáo viên.
- 100% đội ngũ giáo viên của nhà trường có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn
và đều được tham gia bồi dưỡng hè có nội dung về dạy học 2 buổi/ ngày.
- Phần đa giáo viên nhiệt tình, có kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học có
hiệu quả.
1.2. Cơ sở vật chất.
- Cơ sở vật chất, điều kiện dạy học, đồ dùng trang thiết bị được cấp trên đầu
tư, hỗ trợ tương đối đầy đủ nên việc dạy học của thầy và trò diễn ra khá thuận lợi.
1.3. Học sinh.
- Đa số các em học sinh ngoan, ham học và biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong
học tập. Các em được trang bị tương đối đầy đủ sách vở và đồ dùng phục vụ học
tập.
2. Khó khăn:
2.1. Giáo viên.
2
- Một số giáo viên còn lúng túng, chưa tự tin với việc lựa chọn nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập cho từng đối tượng học
sinh ở buổi 2.
- Thời gian giành cho việc soạn bài, nghiên cứu của giáo viên ở buổi 2 còn
ít; không có tiết thiết kế, bài soạn sẵn cho từng tiết, giáo viên phải căn cứ vào đối
tượng HS để lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp.
- Một số giáo viên chưa có sự đầu tư cho việc soạn giảng buổi 2; lựa chọn
nội dung đơn điệu, chưa phong phú các dạng bài tập, chưa thể hiện sự phân hóa
học sinh theo vành đai chất lượng.
- Hình thức dạy buổi 2 nghèo nàn, chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa tạo
được hứng thú cho học sinh.
- Còn một số GV chưa coi trọng việc dạy buổi 2, xem dạy buổi 2 như là giờ
làm bài tập của học sinh và học sinh giải quyết hết bài tập đó là hết nhiệm vụ của
tiết học. Còn trong tiết đó, có bao nhiêu học sinh cần rèn kiến thức, kĩ năng? Cần
rèn đến đâu? Các em có hứng thú học không? Có nhu cầu học hay không thì giáo
viên ít chú ý đến vì thế chưa giúp được học sinh yếu rèn kiến thức, kĩ năng cũng
như phát triển được năng lực cho học sinh khá giỏi. Vì vậy chất lượng dạy học
buổi 2 chưa được theo mong muốn.
2.2. Học sinh.
- Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh như: (Giỏi, khá,TB, yếu,
khuyết tật, cá biệt...) nên GV gặp nhiều khó khăn khi thiết kế bài dạy và lúng túng
khi dạy học theo đối tượng.
- Một số HS yếu, ngại học, chóng chán, ỉ lại.
- Một bộ phận không ít phụ huynh học sinh chưa quan tâm tới việc học của
con em mình, không cho con đi học buổi 2 ở nhà trông em, đi làm nương, cắt cỏ
ngựa …vv
2.3. Cơ sở vật chất.
- Chưa có phòng đa chức năng nên việc tổ chức các hoạt động tập thể cũng
gặp nhiều khó khăn.
3
- Tài liệu tham khảo còn ít, còn thiếu các phương tiện nghe, nhìn…
Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã nghiên cứu và tìm ra các giải pháp
nhằm giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả hơn.
PHẦN IV
NHỮNG BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ÁP DỤNG
Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và phụ huynh.
Tuyên truyền cho đội ngũ giáo viên có nhận thức đúng đắn về việc tổ chức
dạy học 2 buổi/ ngày thông qua nói chuyện, sinh hoạt chuyên môn, qua hội đồng
giáo dục, qua dự giờ đồng nghiệp để họ thấy được tầm quan trọng của việc tổ chức
dạy học 2 buổi/ ngày sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong nhà
trường.
Phân tích cho giáo viên hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa của việc dạy 2 buổi/
ngày để từ đó định hướng cho mình trong công tác chuẩn bị và thiết kế bài dạy
phù hợp.
Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa, các phong trào thi đua của nhà
trường để tuyên truyền cho các bậc phụ huynh thấy được tầm quan trọng của dạy
học 2 buổi/ ngày và sự phối kết hợp của phụ huynh trong công tác giáo dục của
nhà trường là rất quan trọng.
Biện pháp 2: Xác định số tiết tăng thêm cho các môn, các khối lớp và
phân loại đối tượng học sinh.
a) Xác định số tiết tăng thêm cho các môn, các khối lớp.
Trên cơ sở số tiết quy định theo QĐ16/2016 của Bộ GD&ĐT, theo yêu cầu
của chuẩn KTKN cho từng môn học, dựa vào hướng dẫn của ngành và các yêu cầu
cụ thể, các kĩ năng cần giáo dục cho học sinh, lấy ý kiến từ tổ chuyên môn, Hội
đồng chuyên môn để thống nhất thời lượng các tiết cần tăng thêm ở các môn học
đảm bảo 35 tiết/ tuần trong đó bao gồm (Các tiết cần tăng thêm về các môn Toán,
Tiếng Việt… các môn tự chọn Ngoại ngữ, Tin, Rèn kĩ năng sống; Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ…).
4
Trên cơ sở định lượng số tiết tăng thêm đó, chỉ đạo các tổ khối chuyên môn
chủ động lập kế hoạch vừa đảm bảo nội dung cần rèn luyện, vừa đảm bảo lượng
thời gian quy định và phù hợp với đặc thù riêng của từng lớp.
Thời lượng dạy theo phân loại đối tượng học sinh được bố trí hợp lý theo
từng khối lớp: Khối lớp 1,2 dành 2 tiết riêng cho bồi dưỡng các môn năng khiếu, tự
chọn và phụ đạo cho học sinh yếu. Khối 3,4,5 bố trí thời khóa biểu cho phân hóa
đối tượng vào 2 tiết tăng buổi của Toán và Tiếng Việt.
b) Rà soát và phân loại đối tượng học sinh.
- Mỗi lớp học đều có nhiều đối tượng học sinh. Muốn dạy đến từng học sinh
và dạy theo nhu cầu người học một cách hợp lý thì việc đầu tiên phải tìm hiểu và
phân loại được đối tượng học sinh. Đây là việc làm rất quan trọng vì khi phân loại
được học sinh của lớp, giáo viên mới hình dung ra nhóm học sinh nào cần gì để
giáo viên để giáo viên có định hướng và kế hoạch phù hợp.
+ Kết hợp với kết quả của năm học trước và chất lượng khảo sát đầu năm
học để giáo viên phân loại học sinh theo từng đối tượng: Yếu, trung bình, khá giỏi.
+ Tìm hiểu năng lực sở trường của HS qua giao tiếp, qua các hoạt động …
Biện pháp 3: Lập thời khóa biểu phù hợp và định hướng nội dung giảng
dạy cho số tiết tăng thêm.
* Thời khóa biểu: Xây dựng thời khóa biểu cụ thể đến từng giáo viên và
từng lớp, từng đối tượng học sinh trên cơ sở thời khóa biểu đó giáo viên xây dựng
kế hoạch giảng dạy cho cá nhân mình theo tuần, tháng và học kì.
+ Thời khóa biểu chính gồm phần cứng cho toàn bộ các lớp, đây là thời khóa
biểu được định lượng hóa cho các tiết học chính khóa và một số tiết tăng buổi tự
chọn cố định.
+ Thời khóa biểu được mềm hóa, đây là thời khóa biểu được sắp xếp luân
chuyển theo từng tháng. VD:1 tuần có 1 tiết Tiếng Việt và 1 tiết Toán có thể thay
thế luân chuyển cho nhau tùy theo lượng kiến thức bài học cần rèn luyện bổ sung
trong tuần.
5
+ Hai tuần có 1 buổi năng khiếu tự chọn cho khối 1,2 ( gồm: Âm nhạc, Mĩ
thuật, Tiếng Anh). Một tháng có một buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo khối.
*Định hướng nội dung giảng dạy:
Chương trình dạy chính khóa được dạy phân bố thành bài, đan xen trong
suốt chương trình, không tường minh thành dạng cụ thể. Vì thế, nhà trường kết hợp
với tổ khối chuyên môn tiến hành nghiên cứu kiến thức theo từng khối lớp và phân
định kiến thức chính khóa thành các phần trọng tâm. Từ đó định ra các mảng, dạng
tăng buổi cho từng nhóm đối tượng học sinh trong từng khối cụ thể như sau:
* Các môn Toán và Tiếng Việt:
+ Khối 1-2: Tập trung vào lượng kiến thức trong tuần, hệ thống bổ sung kiến
thức học sinh còn gặp khó khăn. Yêu cầu giáo viên dạy chắc kiến thức cơ bản, chú
trọng đến đối tượng học sinh yếu sao cho học sinh đọc thông, viết thạo, biết tính
toán trong phạm vi 100. Chú ý đến rèn chữ viết cho học sinh.
+ Khối 3: Đây là lớp thu nhận kiến thức bản lề của toàn cấp học. Yêu cầu
giáo viên dạy kĩ các kiến thức trọng tâm để các em thuận lợi trong việc tiếp thu
kiến thức ở lớp trên. Dù kiến thức ở lớp 3 chưa tường mình thành dạng như lớp 4,5
nhưng đã xuất hiện. Bởi vậy, yêu cầu giáo viên phải nắm được chương trình toàn
cấp học để xác định được điểm dừng của chương trình và cung cấp các mảng kiến
thức phù hợp cho từng loại đối tượng. Chú ý hướng dẫn phương pháp tự học cho
học sinh.
+ Khối 4,5; Dạy theo các mảng đã học nhưng phát triển theo hình thức
chuyên sâu và mở rộng cùng với việc bổ sung một số kiến thức mới. Chú ý cách
rèn phương pháp tự học và nghiên cứu tài liệu
- Đối với học sinh chưa đạt chuẩn ( còn yếu, kém) cần tập trung vào chuẩn
kiến thức và kĩ năng cơ bản; giải quyết những kiến thức cơ bản mà học sinh chưa
nắm vững, hay nhầm lẫn, hay quên; phân công bố trí giáo viên kèm cặp thêm và tổ
chức một số sân chơi riêng.
6
- Đối với đội tuyển học sinh giỏi, đội tuyển giáo lưu: Được dạy lồng ghép
trong các buổi phân hóa đối tượng; Ở các tiết này, các em được giao việc riêng và
được hệ thống, tổng hợp kiến thức vào 2 buổi/ tháng theo lịch bồi dưỡng đội tuyển.
- Hoạt động ngoài giờ lên lớp: Căn cứ vào chủ đề năm học, chủ đề từng
tháng, các nội dung giáo dục lồng ghép ( Giáo dục môi trường, giáo dục Quyền và
bổn phận trẻ em, giáo dục An toàn giao thông, giáo dục kĩ năng sống…) và tài liệu
hướng dẫn tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp do Bộ GD&ĐT biên soạn, giáo
viên lựa chọn những nội dung phù hợp chủ đề để tổ chức HĐNGLL cho học sinh
( Hoạt động thư viện, trò chơi dân gian, hát, múa, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch,
vẽ tranh, thể dục thể thao; Tổ chức các ngày Hội; Hoạt động kỉ niệm các ngày lễ
lớn; Hoạt động tham quan du lịch; Hoạt động nhân đạo; Hoạt động giao lưu; Hoạt
động môi trường; Hoạt động Đội, Sao; Hoạt động câu lạc bộ,…). Lựa chọn hình
thức tổ chức các hoạt động phong phú và sự tham gia tích cực của học sinh.
- Đối với việc rèn kĩ năng sống: Tập trung rèn kĩ năng sống cho học sinh
mọi lúc, mọi nơi, lồng ghép trong các môn học và mọi hoạt động của nhà trường.
Các kĩ năng cơ bản cần được quan tâm như cách cầm thìa, cầm đũa, cách mời
người thân khi ăn; vệ sinh cá nhân, cách chào hỏi bạn bè, thầy cô… kĩ năng tự
chăm sóc bản thân, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, kĩ năng giao tiếp, ứng xử các tình
huống hàng ngày, ý thức xây dựng đoàn kết tập thể, vệ sinh sức khỏe, ăn uống.
Biện pháp 4: Lựa chọn, phân công, bố trí giáo viên.
Để tạo sự công bằng trong định mức lao động cho giáo và phân công cụ thể
công việc cho từng nhóm giáo viên, ngoài việc phân công theo chuyên môn còn
phải dựa vào năng lực, sở trường của từng người để phân giáo viên theo các nhóm.
+ Nhóm dạy học sinh giỏi: Là những giáo viên dạy được toàn cấp, có kinh
nghiệm trong giảng dạy, năng lực chuyên môn vững chắc, có khả năng hệ thống
hóa các mạch kiến thức, có ý thức học hỏi và tìm tòi trong chuyên môn…
+ Nhóm phụ đạo học sinh yếu: Là những giáo viên chịu khó, nhẹ nhàng, gần
gũi và yêu thương học sinh, hiểu biết tâm lý độ tuổi, dễ thông cảm sẻ chia, kiên trì
rèn luyện và giáo dục học sinh…
7
+ Nhóm tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Là những giáo viên có
năng lực tổ chức các hoạt động, sự kiện; vui vẻ, cởi mở, hòa đồng, có năng khiếu
hát, múa, hiểu biết về vấn đề xã hội… ( Gồm: Tổng phụ trách, giáo viên âm nhạc,
cán bộ y tế học đường và một giáo viên dạy văn hóa có năng lực tổ chức các hoạt
động tập thể).
+ Nhóm dạy các môn tự chọn: Gồm giáo viên Tiếng Anh.
+ Nhóm dạy các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng học sinh: Gồm
BGH nhà trường và Hội đồng chuyên môn.
Biện pháp 5: Nhân rộng tiên tiến điển hình
Đây là giải pháp có hiệu quả, giải pháp này sẽ phát huy tinh thần tương trợ
và tính tự giác của mỗi giáo viên trong công tác dạy học 2 buổi/ ngày.
Chỉ đạo, xây dựng và tổ chức các chuyên đề dạy học buổi thứ 2 các môn
học, ở các khối lớp.
Giao trách nhiệm cho lực lượng nòng cốt để giúp đỡ đồng nghiệp như dạy
mẫu, dự giờ, rút kinh nghiệm... phát hiện những thiếu sót để bổ sung kịp thời.
Biện pháp 6: Đa dạng hóa các phương pháp và hình thức dạy học
Trong dạy học không có phương pháp nào là vạn năng, không có hình thức
dạy học nào là tối ưu cả. Vì vậy chúng ta phải biết phối hợp các phương pháp và
hình thức dạy học một cách linh hoạt để phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo của
học sinh. Nếu hình thức dạy học đơn điệu, nghèo nàn, học sinh sẽ rất ngại học,
chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ động chọn nội dung, thời lượng thích hợp thì
giáo viên quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức dạy học nhằm tạo hứng
thú học tập cho học sinh để phát huy tốt nhất vai trò chủ động, sáng tạo, ý thức tự
học, tự rèn của học sinh. Chẳng hạn trong tiết dạy giáo viên có thể đan xen giữa
hình thức học tập cá nhân, học nhóm, học cả lớp, góc khám phá; thay đổi các dạng
bài tập trắc nghiệm, tự luận, câu đố, xen kẽ giữa việc dùng đồ dùng học tập như
bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,…Cụ thể có 1 số tiết trên lớp, một số tiết học ngoài
thiên nhiên hay qua sân chơi trí tuệ, qua các cuộc thi,…Thế nhưng dù ở hình thức
nào, phương pháp nào cũng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
8
+ Không ảnh hưởng đến thời lượng của tiết học.
+ Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh.
+ Cách thức dạy học kết hợp với nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính
cách, năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều
thích học.
Vị dụ: Luyện Tiếng Việt ( Lớp 3)
Bài: Ôn về các kiểu câu, nhân hóa, dấu phẩy.
I. Mục tiêu.
- Học sinh cả lớp:
+ Củng cố hiểu biết về các kiểu câu Ai- làm gì? Ai- là gì? Ai- thế nào? (
Thông qua các mô hình) và thành phần câu ( Thông qua các câu hỏi).
+ Củng cố hiểu biết về nhân hóa và rèn luyện kĩ năng sử dụng biện pháp nhân
hóa.
+ Ôn luyện về dấu phẩy.
- Học sinh khá giỏi: Ngoài những yêu cầu chung, học sinh khá giỏi tổng hợp được
nhiều kiến thức, kỹ năng trong một đơn vị và luyện khả năng tưởng tượng, liên
tưởng, phản ứng nhanh.
II. Chuẩn bị:
- Học sinh: Bảng con, phấn, …
- Giáo viên: Hoa điểm 10, 3 bảng nhóm.
III. Các hoạt động dạy học:
* Hoạt động 1: Học sinh làm bài cá nhân
- Giáo viên gắn bảng phụ đã ghi bài 1 lên bảng.
Bài 1: Gạch 1 gạch dưới bộ phận trả lời câu hỏi Ai; Gạch 2 gạch dưới bộ phận trả
lời câu hỏi “ là gì?”, “ làm gì?”, “ thế nào?”.
a) Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
b) Khi được chăm sóc chu đáo, chị hồng nhung rất xinh tươi.
c) Suốt ba tháng hè, bác trống ngủ khì trên giá.
- Học sinh tự làm bài vào vở ô ly.
9
- Giáo viên chấm 1 số bài.
- Chữa bài: Cho học sinh chia sẻ để khắc sâu kiến thức. Chẳng hạn:
H. Từng câu trên thuộc mẫu câu nào bạn đã học?
H. Trong 3 câu trên, câu nào sử dụng biện pháp nhân hóa? Câu nào sử dụng biện
pháp so sánh? Vì sao bạn biết?...
H. Tại sao phải sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh?
H. Để người đọc, người nghe hiểu ý thì khi viết, khi nói bạn cần chú ý gì?
* Hoạt động 2: Trò chơi “ Ai tài nhân hóa”
Bước 1: Yêu cầu một học sinh có năng khiếu văn nghệ của lớp hát một bài trong
đó có các con vật được nhân hóa ( VD: Chị ong nâu và em bé).
Bước 2: Học sinh nêu tên con vật được nhân hóa trong lời bài hát? Nêu từ ngữ thể
hiện sự nhân hóa .
Bước 3: Chơi “ Ai tài nhân hóa” – Nhóm
+ Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm. Các nhóm thi đua với nhau.
+ Giáo viên nêu tên trò chơi và luật chơi.
+ Giáo viên nêu 1 từ chỉ đối tượng nhân hóa như: cây lúa, cây tre, mây, con cá,
mầm cây…Từng nhóm thảo luận nhanh, đưa ra 1 cụm từ hoặc 1 câu có cách nhân
hóa đúng.
+ Giáo viên lần lượt ghi điểm qua các lượt thi.
+ Nâng cao mức độ phân hóa học sinh:
Mức 1: Yêu cầu học sinh nói câu có đối tượng được nhân hóa nhưng hạn
chế 1 trong 3 cách nhân hóa theo lệnh của trò chơi.
Mức 2: Yêu cầu học sinh nói nhanh câu có dùng biện pháp nhân hóa câu
đó có mẫu: Ai- làm gì?
+ Tổng kết trò chơi.
*Hoạt động 3: Thi điền dấu câu
Bài 3: Điền dấu phẩy vào vị trí thích hợp trong câu sau:
a) Bé Lan múa hát rất hay.
b) Trước cổng trường cờ khẩu hiệu đã được căng lên.
10
c) Gió lớn làm những chị lúa ấp mình vào nhau e thẹn.
- Học sinh làm bài cá nhân vào vở.
- Chọn học sinh trung bình, yếu nêu kết quả- chữa bài, đổi vở kiểm tra chéo.
- Chia sẻ:
H. Tại sao bạn điền dấu phẩy ở vị trí đó?
H. Khi đọc gặp dấu phẩy bạn cần lưu ý gì?
- Cho học sinh đọc lại các câu văn đã được điền dấu .
- Yêu cầu cao hơn: Đọc câu có hình ảnh nhân hóa trong bài tập 3.
* Củng cố: Trò chơi “ Ai nhanh, ai đúng”
- Nói câu theo mẫu Ai- thế nào? Có dùng hình ảnh nhân hóa và sử dụng
dấu phẩy?
Biện pháp 7: Giúp giáo viên lựa chọn nội dung buổi 2 phù hợp với đối
tượng học sinh và dạy phân hóa theo đối tượng.
a) Lựa chọn nội dung kiến thức cho phù hợp với từng nhóm đối tượng học
sinh.
Việc lựa chọn nội dung kiến thức cho từng tiết dạy ở buổi 2 là một công việc
hết sức quan trọng và có ý nghĩa nhằm giúp giáo viên có định hướng trong quá
trình giảng dạy (Tùy vào điều kiện và trình độ của học sinh lớp mình mà giáo viên
cần linh hoạt vận dụng đưa nội dung kiến thức vào trong từng tiết học cho phù
hợp).
Việc lựa chọn nội dung phải dựa trên nhu cầu của người học. Các nội dung
đưa ra cho học sinh phải gắn với nhiệm vụ học tập tương ứng để đạt được mục
tiêu của tiết học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học thì hệ thống các bài tập phải
được lựa chọn sao cho đa dạng và phong phú về nội dung, phải mang tính vừa sức
và phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Khi lựa chọn nội dung cho dạy buổi 2 phải căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ
năng cần đạt của từng bài, từng phần và khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh ở
buổi 1. Xem các em đã tiếp thu kiến thức ở mức độ nào? Những gì đã đạt được so
11
với chuẩn và những gì cần bồi dưỡng thêm? Nắm bắt được những vấn đề đó thì
giáo viên sẽ biết mình cần lựa chọn nội dung gì cho học buổi 2.
Cụ thể:
+ Đối với học sinh yếu: Đây là học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản
hay nói cách khác là các em chưa nắm được kiến thức theo chuẩn KTKN cần đạt.
Với những học sinh này thì giáo viên cần chú ý hơn và hướng dẫn các em bằng
những lời động viên, đưa ra hệ thống bài tập nhằm củng cố kiến thức cơ bản và câu
hỏi gợi mở để các em nắm được chuẩn KTKN cần đạt. Giáo viên không ra thêm
kiến thức mới cho các em.
+ Đối với học sinh trung bình: Qua tiết học chính khóa cơ bản các em đã
nắm được nội dung kiến thức và biết vận dụng để làm các bài tập song các em
cũng chỉ mới dừng lại ở tính rập khuôn, máy móc chứ chưa thành thạo và có kĩ
năng làm bài. Với những học sinh này giáo viên cần đưa ra những nội dung kiến
thức mang tính củng cố để hình thành kĩ năng vận dụng cho các em.
+ Đối với học sinh khá, giỏi: Đây là những học sinh có khả năng tiếp thu bài
nhanh, sau tiết học chính khóa các em đã có kĩ năng vận dụng tốt kiến thức vào
làm các bài tập. Chính vì thế ở tiết học buổi 2 ngoài việc rèn kĩ năng vận dụng kiến
thức để làm bài tập thì cần tạo điều kiện để các em được phát triển năng khiếu của
mình. Khi đưa ra nội dung kiến thức cho học sinh khá, giỏi phải dựa vào kiến thức
cơ bản và nâng dần lên tùy vào mức độ nhận thức và tư duy của học sinh. Tránh
quá khó gây sự nhàm chán của học sinh khi làm bài.
b) Dạy học phân hóa đối tượng học sinh theo vành đai chất lượng.
Với thời lượng số tiết tăng thêm không nhiều trong khi nội dung giáo dục
Tiểu học đòi hỏi toàn diện, đổi mới phương pháp, yêu cầu phải dạy sát đối tượng.
Để đảm bảo những vấn đề này giáo viên cần dạy phân hóa đối tượng song song hai
hình thức:
+ Dạy phân hóa lồng ghép trong các tiết cơ bản. Với hình thức này, yêu cầu
giáo viên phải đảm bảo 100% số học sinh nắm được nội dung bài theo chuẩn và có
12
hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh khá giỏi, học sinh năng khiếu có cơ hội phát
triển tư duy; học sinh yếu được luyện tập và củng cố kiến thức.
+ Dạy phân hóa theo các nhóm riêng biệt cho từng loại đối tượng, được tổ
chức dưới dạng câu lạc bộ ( Câu lạc bộ Toán, Tiếng Việt, Âm nhạc, Ngoại ngữ…).
Đối với các tiết học buổi 2 là chương trình thuộc phần mềm nên giáo viên có
thể tham khảo và xây dựng cho mình kế hoạch bài giảng theo quy trình sau:
* Mục tiêu: ( Cần nêu rõ từng đối tượng)
* Đồ dùng dạy học.
* Các hoạt động dạy học.
- Hoạt động 1: Củng cố kiến thức ( Ôn kiến thức cần luyện)
- Hoạt động 2: Luyện kĩ năng và phát triển tư duy ( Thực hành luyện tập)
( Hệ thống bài tập đưa ra phải theo từng đối tượng và trình độ nhận thức của HS)
- Hoạt động 3: Củng cố, dặn dò.
Ví dụ về một tiết dạy học buổi 2:
Luyện tập về dấu hiệu chia hết cho 2 và 5 ( Toán lớp 4)
I. Mục tiêu:
* Đối với học sinh yếu:- Biết dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.- Biết kết hợp dấu
hiệu chia hết cho 2 và 5.
* Đối với học sinh trung bình.- Biết dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.- Biết kết
hợp dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.- Luyện kĩ năng làm bài.
* Đối với học sinh khá, giỏi: Ngoài những mục tiêu như học sinh trung bình
còn yêu cầu cao hơn đó là: Vận dụng kiến thức về dấu hiệu chia hết cho 2 và 5 để
làm dạng toán tìm một số khi chia cho 2 và 5 có dư.
II. Chuẩn bị:
- Học sinh: Bảng con, phấn, dẻ lau
- Giáo viên: Bảng phụ
13
III. Các hoạt động dạy học:
1. Hoạt động 1: Củng cố kiến thức ( 5 – 7 phút)
- Những số chia hết cho 2 là những số nào? Lấy ví dụ.
- Những số chia hết cho 5 là những số nào? Lấy ví dụ.
- Em có nhận xét gì về số vừa chia hết cho 2, vừa chia hết cho 5.
- Giáo viên chốt lại kiến thức ôn.
2. Hoạt động 2: Luyện kỹ năng và phát triển tư duy
Chia lớp thành các nhóm đối tượng: Học sinh yếu, trung bình, khá giỏi.
* Đối với học sinh yếu: Củng cố lại kiến thức cơ bản của tiết chính khóa.
Bài 1. Cho các số sau:
125; 678; 645; 1254; 1780; 1426; 575; 2170
a) Những số nào chia hết cho 2?
b) Những số nào chia hết cho 5?
c) Những số nào vừa chia hết cho cả 2 và 5?
+ Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Đố bạn ( Một bạn nêu câu hỏi, một bạn trả
lời).
+ Cho học sinh chia sẻ để khắc sâu cách nhận biết về dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.
* Đối với học sinh trung bình: Luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào làm bài tập.
Ngoài bài tập của học sinh yếu thì làm thêm bài tập sau:
Bài 2: Với bốn chữ số 2; 4; 5; 0 hãy viết tất cả các số có 4 chữ số vừa chia hết cho
2 và 5.
+ Tổ chức cho học sinh hoạt động theo hình thức cá nhân, sau khi học sinh hoàn
thành bài tập thì chuyển sang hình thức thi đua xem ai viết nhanh và đúng nhất.
+ Chốt kiến thức.
+ Lưu ý: Đối với những dạng bài mang tính củng cố kiến thức giáo viên nên gọi
những học sinh trung bình và học sinh yếu trình bày.
14
* Đối với học sinh khá, giỏi: Ngoài việc luyện kĩ năng thì giúp học sinh phát triển
năng lực tư duy. Vì vậy ngoài các bài tập như học sinh trung bình thì giáo viên đưa
thêm bài tập sau:
Bài tập 3: Tìm số lớn nhất có 2 chữ số mà khi chia cho 2 và 5 đều dư 1.
+ Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm 2 ( Hoặc hoạt động góc khám phá)
+ Các nhóm trình bày kết quả
+ Cho học sinh chia sẻ để rút ra quy tắc chung khi gặp dạng toán này.
Ngoài ra ta có thể tổ chức dưới dạng phương pháp góc, sau khi thực hiện các
yêu cầu của học sinh cả lớp, học sinh khá giỏi sẽ vào góc khám phá để thực hiện
bài tập với yêu cầu cao hơn, nhằm phát triển năng lực tư duy đồng thời tận dụng
được tối đa thời gian dôi dư của học sinh khá giỏi, vì khi các em thực hiện các yêu
cầu của học sinh cả lớp sẽ hết ít thời gian hơn các em học sinh trung bình.
3. Hoạt động 3: Củng cố , dặn dò.
- Hệ thống lại kiến thức vừa luyện
- Nhận xét đánh giá tiết học.
Đây là một trong những tiết dạy rất thực tế và thường xuyên trong chương
trình dạy học buổi 2; vì chỉ cần nắm chắc trình độ của từng đối tượng học sinh và
giáo viên chịu khó nghiên cứu, tìm tòi để lựa chọn nội dung kiến thức phù hợp với
từng đối tượng học sinh thì sẽ đem lại hiệu quả cho tiết học.
Biện pháp 8. Mạnh dạn điều chỉnh thời lượng, kết hợp đan xen các tiết học một
cách hợp lý, tích hợp các kiến thức ở các lĩnh vực qua sân chơi trí tuệ cho học
sinh.
Ngoài những tiết ôn luyện kiến thức trên lớp thì việc tổ chức các sân chơi trí
tuệ cho học sinh cũng vô cùng quan trọng bởi lúc đó các em được ôn kiến thức,
được luyện kĩ năng, được phát triển toàn diện trong không khí thi đua sôi nổi, vui
tươi, lành mạnh. Để làm được điều đó thì giáo viên cần xây dựng tốt các tiết hoạt
động tập thể nhằm đảm bảo mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh. Giáo viên có
15
thể đan xen các tiết vào nhau, xâu chuỗi các tiết tạo thành một buổi sinh hoạt câu
lạc bộ ( Câu lạc bộ toán học, câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ mĩ thuật…), một buổi
sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, một sân chơi trí tuệ cho học sinh như các cuộc thi:
Rung chuông vàng, nhà sử học nhỏ tuổi…
Ví dụ: Cuộc thi “ Rung chuông vàng”- Dành cho học sinh khối 5.
I. Mục tiêu:
- Thực hiện yêu cầu giáo dục toàn diện cho học sinh.
- Tạo không khí thi đua học tập qua đó kiểm tra đánh giá kết quả cũng như khả
năng ghi nhớ kiến thức của học sinh ở các môn học.
II. Chuẩn bị:
- Học sinh: Bảng con, phấn, dẻ lau.
- Giáo viên: Còi, chuông, bảng phụ.
III. Thành phần
- Học sinh trong lớp
- Giáo viên chủ nhiệm.
IV. Tiến hành:
- Giáo viên đưa từng câu hỏi xen kẽ các lĩnh vực khác nhau đã chuẩn bị trong giáo
án trình chiếu.
- Học sinh ghi đáp án vào bảng con. Chẳng hạn:
Câu hỏi môn Toán:
Câu 1: Có bao nhiêu gam trong 2,7 tấn?
Câu 2: 3% của 6m là?
Câu 3: Số lớn nhất có 2 chữ số chia hết ch 5 là số nào?
Câu 4: Hình vuông có diện tích 36cm2 thì có chu vi là bao nhiêu?
Câu 5: Trong cùng một năm, ngày 8 tháng 3 là thứ 5 thì ngày 2 tháng 4 là thứ
mấy?
16
Câu 6: Bán kính hình tròn tăng thêm 0,5 thì diện tích hình tròn như thế nào?
Câu 7: Tích sau có tận cùng là chữ số mấy?
7 x 17 x 27 x 37 x …x 87 x 97
Câu hỏi môn Tiếng Việt:
Câu 1: Có mấy kiểu câu em đã được học?
Câu 2: Tìm 2 từ đồng nghĩa với từ bất diệt?
Câu 3: Từ lời khuyên thuộc từ loại gì?
Câu 4: Nêu 2 cặp từ chỉ quan hệ nguyên nhân- kết quả?
Câu 5. Chủ ngữ trong câu “ Đằng sau những câu đơn giản là ý nghĩ đơn giản.” là từ
gì?
A. Đằng sau
B. Đằng sau những câu đơn giản
C. Những câu đơn giản
Câu 6: Từ nào sau đây cùng nghĩa với từ phức tạp?
A. đơn giản
B. đơn sơ
C. đơn cử
Câu 7: Trong một bài văn có mấy cách mở bài?
Câu hỏi về các môn khác:
Câu 1: Sống ở đồng bằng Nam Bộ chủ yếu là dân tộc nào?
A. Kinh, Thái, Khơ- me, Hoa.
B. Kinh, Khơ- me, Mông, Hoa.
C. Kinh, Khơ- me, Chăm, Hoa.
Câu 2: Vị vua cuối cùng của triều đình nhà Lý là ai?
Câu 3: Chiến thắng trên sông Bạch Đằng do ai lãnh đạo?
17
Câu 4: Ải Chi Lăng ở tỉnh nào của nước ta?
Câu 5: Các loại cây cho củ cần chất khoáng nào nhiều hơn?
Câu 6: Trong hoạt động hô hấp của con người, chất khí nào được thấm vào máu ở
phổi đi nuôi cơ thể?
Biện pháp 9: Đánh giá học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng và theo
năng lực.
Khâu đánh giá và ghi nhận kết quả của học sinh cũng rất quan trọng. Dù học
ở buổi nào thì việc đánh giá không những ghi nhận được kết quả học tập của học
sinh mà còn phải tạo ra động lực giúp các em cố gắng vươn lên, tránh đánh giá
máy móc làm học sinh tự ti, mặc cảm. Đặc biệt ở dạy buổi 2 khi mà vấn đề dạy học
phân hóa càng rõ nét thì việc đánh giá học sinh cũng cần lựa chọn từng nội dung,
từng hình thức đánh giá theo năng lực từng em, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
học sinh, đề cao quyền đánh giá lẫn nhau của học sinh. Với học sinh yếu cần đánh
giá việc nắm chuẩn kiến thức cần đạt. Với học sinh trung bình thì ngoài việc nắm
vững chuẩn kiến thức cần đánh giá thêm về kĩ năng làm bài của các em. Với học
sinh khá giỏi, ngoài việc đánh giá những yêu cầu như học sinh trung bình cần đánh
giá thêm ở khả năng tư duy, sáng tạo. Nghĩa là, khi đánh giá học sinh giáo viên cần
quan tâm đến sự tiến bộ và đối tượng học sinh, không đánh giá ngang bằng, đại trà;
việc đánh giá phải tế nhị, khéo léo thì mới có hiệu quả.
Biện pháp 10: Phối hợp với các lực lượng giáo dục.
a) Phối hợp sự hợp tác của đồng nghiệp.
Trong sinh hoạt tổ chuyên môn, nội dung không thể thiếu là thảo luận bài
mới, bài khó dạy của tuần học sau; góp ý bổ sung cho nhau để lựa chọn những nội
dung dạy buổi 2 chất lượng hơn ( Tuy nhiên phải phù hợp với đối tượng học sinh
của từng lớp).
b) Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội, sao..
Mỗi tiết học có hiệu quả hơn nếu nền nếp lớp học tốt. Bởi vậy cần phối hợp
với ban thi đua để chấm điểm nề nếp và trao đổi về các hoạt động ngoài giờ phù
18
hợp, chẳng hạn, có thể dành 15 phút truy bài đầu giờ để tổ chức các hoạt động
như: Đến giao lưu cùng các lớp bằng một số câu Tiếng Anh đơn giản trong giao
tiếp hàng ngày hoặc kiểm tra bảng cửu chương, kĩ năng đọc, kĩ năng tính toán …
như vậy, chỉ với 15 phút truy bài các em được rèn rất nhiều các kĩ năng nhờ vào
các anh chị phụ trách sao.
c) Phối hợp với cha mẹ học sinh.
Mời cha mẹ học sinh tham dự một số tiết học, một số tiết sinh hoạt để nắm
bắt, lắng nghe, trao đổi, bàn bạc các biện pháp giáo dục qua thông tin hai chiều
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Ghi nhật kí chủ nhiệm hàng ngày để nắm bắt những học sinh có tiến bộ và
chưa có tiến bộ, trao đổi kịp thời với phụ huynh để có biện pháp phát triển những
ưu điểm và tháo gỡ những hạn chế.
Biện pháp 11: Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm là việc làm không thể thiếu
trong chỉ đạo và quản lý nhà trường. Với quản lý- chỉ đạo dạy học 2 buổi/ ngày,
việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm lại càng phải được quan tâm và đòi hỏi
CBQL phải có năng lực chuyên môn sâu để cùng với giáo viên nghiên cứu, tổ chức
thực hiện, cập nhật được chương trình nội dung giảng dạy. Từ đó để có hướng chỉ
đạo việc đánh giá, rút kinh nghiệm hàng tuần, hàng tháng một cách thiết thực, kịp
thời và điều chỉnh nội dung, phương pháp và có kế hoạch chỉ đạo phù hợp cho
những tháng tiếp theo.
Kiểm tra thường xuyên giáo án, chất lượng giờ dạy, tích lũy chuyên môn
nghiệp vụ để bổ trợ cho việc học tăng buổi và kiểm tra chất lượng học sinh để lấy
cơ sở đánh giá xếp loại giáo viên và học sinh.
Sau mỗi đợt kiểm tra phải phân tích và chỉ ra những ưu điểm mà giáo viên
đã đạt được; đồng thời điều chỉnh kịp thời những vướng mắc cho giáo viên; có
đánh giá, xếp loại theo tháng.
19
Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những giáo viên, học sinh tích cực
trong công tác dạy và học 2 buổi / ngày.
Nêu gương những phụ huynh tích cực phối kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm, với nhà trường trong công tác giáo dục.
PHẦN V
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi áp dụng các biện pháp vào thực tế dạy học 2 buổi/ ngày của nhà
trường, tôi thấy chất lượng dạy và học được nâng lên rõ nét cụ thể là:
* Đối với giáo viên:
Giáo viên hiểu rõ hơn mục đích và ý nghĩa của dạy học 2 buổi/ ngày; Khi
giáo viên được phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng, được tạo điều kiện để
phát huy được năng lực của bản thân, có thời gian nghiên cứu sâu bài dạy, biết
cách xây dựng và lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt
động học tập một cách sáng tạo và phù hợp với đối tượng học sinh, không cảm
thấy khó khăn khi thiết kế bài giảng ở buổi 2. Giáo viên cảm thấy tự tin hơn, không
còn e sợ khi có ai vào dự giờ các tiết dạy buổi 2; Tâm lý của giáo viên phấn khởi vì
khẳng định được mình trước tập thể. Cụ thể là:
Kết quả thực nghiệm
Trước khi
Sau khi
vận dụng các
vận dụng các
biện pháp
biện pháp
30/36
36/36
20/36
36/36
18/36
36/36
18/36
36/36
- Giáo viên hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của dạy
học 2 buổi/ ngày. Có ý thức nghiên cứu và đầu
tư cho công tác soạn, giảng buổi 2.
- Giáo viên có kĩ năng lựa chọn nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động
dạy học 2 buổi/ ngày.
- Giáo viên có kĩ năng dạy học phân hóa theo
đối tượng học sinh.
- Giáo viên tự tin, biết vận dụng linh hoạt các
20
- Xem thêm -