Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
MỤC
I
1
2
3
4
5
II
1
2
3
III
1
2
NÔÔI DUNG
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu, nhiê m
ê vụ của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Giới hạn của đề tài
Phương pháp nghiên cứu
Phần nô Ôi dung
Cơ sở lý luâ ên
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Nô êi dung và hình thức của giải pháp
Phần kết luâ Ôn, kiến nghi
Kết luâ ên
Kiến nghi
Tài liê Ôu tham khảo
TRANG
1
2
2
3
4
4
4
4
4
6
10
25
25
26
28
I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người
học. Chính vì vâ êy mà Bộ GD và ĐT đã đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng
ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn
bởi kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 1 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
tình huống của cuộc sống. Có thể nói kỹ năng sống chính là nhip cầu giúp con
người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử
thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường
thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính
mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bi vấp váp, dễ bi thất bại trong
cuộc sống.
Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cơ chế thi trường hiện
nay, thế hệ trẻ thường xuyên chiu đan xen giữa những yếu tố tích cực và tiêu cực:
một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống
trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn đinh; hai là những em sống trong gia
đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái. Môi trường
hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em một thiếu sót lớn
trong từng bước trưởng thành, đó là kỹ năng sống. Giáo dục kỹ năng sống càng trở
nên cấp thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và
mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. Bởi vì các em
là những chủ nhân tương lai của đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình
thành những giá tri nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá
song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bi lôi
kéo, kích động,…
Ở bậc tiểu học, các môn học vừa cung cấp cho học sinh những kiến thức ban
đầu về văn hoá,… vừa cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn
mực hành vi đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kỹ năng sống. Chính vì vậy
việc rèn kỹ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người làm
công tác giáo dục cần quan tâm. Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ
trương dạy kỹ năng sống là một trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân
thiện - học sinh tích cực.” Trên tinh thần đó, bản thân nhận thấy rằng: chính ở dưới
mái trường các em học được nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường trở nên là ngôi
nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có
khả năng hội nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một
nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo. Với học sinh tiểu học, đây là giai
đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kỹ năng sống
tốt cho tương lai sau này.
Giáo dục kỹ năng sống đã được lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học.
Tuy nhiên, để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố
chứ không chỉ từ các bài giảng. Học để tự tin, tự lập, tự thích ứng với môi trường
thế giới xung quanh. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hiê ên nay được đông đảo
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 2 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
phụ huynh và xã hô êi quan tâm. Bởi nhiều ý kiến cho rằng, các trường học đã quá
nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
dẫn đến có một số học sinh trong các trường chưa có kĩ năng sống như: ứng xử,
giao tiếp còn rụt rè, hành vi, lối sống đạo đức thiếu chuẩn mực dẫn đến nhiều tê ê
nạn xã hô êi đáng thương tâm xảy ra.
Vậy làm thế nào để chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho học sinh? Tôi nghĩ
có nhiều phương pháp, nhiều cách thức để thực hiện việc này nhưng việc giáo dục
và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được thể hiện rõ nét nhất trong môn Tiếng
Việt. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh kỹ
năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết), thể hiện ưu thế của Tiếng Việt là kỹ
năng giao tiếp, sau đó là kỹ năng nhận thức, ra quyết đinh, hợp tác, ứng xử, …
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi quyết đinh lựa chọn và nghiên cứu
đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn
Tiếng Việt ở trường Tiểu học Trưng Vương” để góp một phần nhỏ vào việc thực
hiện nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường và thực
hiện mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ trên cơ sở
tiếp thu được các kỹ năng sống đầy đủ.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Mục tiêu
- Đề ra mô êt số biê ên pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông
qua môn Tiếng Viê êt;
- Giúp HS ý thức được giá tri của bản thân trong mối quan hệ xã hội; Hiểu
biết về thể chất, tinh thần của mình; Có hành vi, thói quen ứng xử có văn hoá và
chấp hành pháp luật…;
- Giúp học sinh có kỹ năng sống trong học tập và trong cuộc sống như mạnh
dạn, tự tin và trở thành những con người có văn hóa phù hợp với thời đại mới;
- Nâng cao giá tri kỹ năng sống cho học sinh, nâng cao giá tri văn hóa nhà
trường;
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh;
- Tăng cường được sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, tạo môi
trường thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài;
- Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kỹ năng sống;
- Phân tích, đánh giá thực trạng mà đề tài đã đă êt ra;
- Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Viê êt ở trường Tiểu học Trưng Vương;
- Rút ra bài học kinh nghiê êm trong công tác giáo dục kỹ năng sống.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 3 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
- Mô êt số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn
Tiếng Viê êt để giáo dục học sinh có những thái độ, phẩm chất, kỹ năng sống phù
hợp.
4. Giới hạn của đề tài.
- Tập trung nghiên cứu đề tài “Một số biê ên pháp giáo dục kỹ năng sống của
học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt” tại trường Tiểu học Trưng Vương, ở lớp
5A, năm học 2015 – 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu.
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luâ ên
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp khái quát hoá các nhâ nê đinh đô êc lâ pê .
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp thực hành luyện tập;
- Phương pháp khảo nghiê êm, thử nghiê êm.
II. Phần nô Ôi dung
1. Cơ sở lý luận
Thực hiện Quyết đinh số 2994/QĐ-BGD và ĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010
của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kỹ năng sống trong một số môn
học và hoạt động giáo dục ở các cấp học; Thực hiện Chỉ thi của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2015-2016; Dựa trên cơ sở
những đinh hướng của đợt tập huấn tăng cường giáo dục kỹ năng sống trong các
môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông. Giáo dục cho
người học những kỹ năng cơ bản, cần thiết, hướng tới hình thành những thói quen
tốt giúp người học thành công, đảm bảo vừa phù hợp với thực tiễn và thuần phong
mỹ tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước.
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây dựng
những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở
giúp HS có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá tri cá nhân thích hợp với thực tế xã hội.
Mục tiêu cơ bản của giáo dục KNS là làm thay đổi hành vi của HS, chuyển từ thói
quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả tiêu cực thành những hành vi
mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá
nhân, rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; có thói quen và kỹ
năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói
quen rèn luyện sức khoẻ, ý thức bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông,
đuối nước và các tệ nạn xã hội.
Kỹ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của
cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 4 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
một con người mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải
nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về
kỹ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian
học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. Kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời
và luôn luôn được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến
động. Người trưởng thành cũng vẫn cần học kỹ năng sống. Ở lứa tuổi lớp 5, học
sinh có những nhận biết nhất đinh về thế giới xung quanh, biết đánh giá nhận xét sự
việc xảy ra quanh mình. Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em
thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng
khái quát hoá, về tình cảm các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên đất
nước. Các em dễ xúc động và bắt đầu biết mơ ước có trí tưởng tượng phong phú.
Thích nghi lại các vấn đề mà mình đã quan sát được và có thể có khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống của cuộc sống. Ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục
kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức
truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn
chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5 Trường TH Trưng Vương, bản thân tôi thấy kỹ
năng sống của đa số học sinh chưa cao, phần lớn các em có nhâ nê xét, đánh giá về
sự viê êc nhưng chưa có thái đô ê và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh
còn rụt rè chưa mạnh dạn thể hiê ên kỹ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại
đứng dâ êy trả lời, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế. Chính vì vâ êy mà viê êc
rèn kỹ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Để nâng cao kỹ năng sống
cho học sinh tiểu học, với cương vi là người giáo viên chủ nhiê êm, bản thân hết sức
băn khoăn và trăn trở, luôn đặt trong đầu câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao kỹ năng
sống cho học sinh? Làm thế nào để học sinh biết cách vận dụng kỹ năng sống vào
trong cuộc sống hằng ngày? Với mong muốn góp phần vào việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh ngày càng tốt hơn nên bản thân chọn đề tài: “ Một số biện pháp
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Viê tê ở trường Tiểu
học Trưng Vương”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân mà rất nhiều
đồng nghiê êp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình có những kỹ
năng sống tốt, trở thành những con người tốt, có ích cho xã hội. Đây cũng là một
vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức quan tâm.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo; Ban giám hiệu nhà
trường; sự giúp đỡ của đồng nghiệp và cha mẹ học sinh;
Là người trực tiếp giảng dạy và có kinh nghiệm chủ nhiệm khối lớp 5 nhiều
năm liền. Tôi luôn tận tụy với nghề, thích học hỏi, tìm tòi sáng tạo;
Đô êi ngũ cán sự lớp là những thành viên khá tích cực, ham hoạt đô nê g;
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 5 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Bên cạnh đó, đại đa số học sinh chăm ngoan, hiếu học. Các em gắn bó, xem
lớp học là ngôi nhà thứ hai của mình nên có thái độ tích cực và hợp tác. Có kỹ năng
vận dụng kiến thức học được vào thực tế cuộc sống;
Được sự quan tâm giúp đỡ của hội cha mẹ học sinh lớp 5A và hầu hết các
phụ huynh cũng đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục, đặc biệt
là giáo dục ở bậc Tiểu học – bậc học nền tảng cho quá trình học của con em mình.
Họ đã có ý thức tự giác, thái độ tích cực trong việc giáo dục con em mình và kết
hợp với nhà trường để giáo dục học sinh.
Bên cạnh những thuâ ên lợi thì viê êc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn
có những khó khăn như sau:
Các em học sinh tiểu học còn nhỏ dại, đặc điểm tâm lí, nhận thức, ngôn ngữ
của các em chưa đạt tới đỉnh. Kỹ năng sống còn hạn chế, chưa có khả năng tự lập
cho bản thân, chưa biết cách phòng vệ trước những tệ nạn xã hội. Các em chưa có
các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của mình. Một số em nhà ở xa trường học nên
việc thực hiện nội quy trường, lớp của các em còn hạn chế. Một số học sinh thiếu
thốn tình cảm (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, hay ở với ông bà, cha mẹ làm ăn xa) nên
các em không được quan tâm, giáo dục toàn diện như các bạn cùng trang lứa, có
em còn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, không dám hòa mình trong mọi hoạt
động chung của lớp. Đa số các em còn hiếu động, suy nghĩ chưa sâu sắc. Học sinh
chưa có động cơ tự học tập, thiếu hứng thú, chưa thấy lợi ích của việc học, chưa có
thói quen và kỹ năng lao động trí óc.
Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vô êi trong viê êc dạy con; họ chỉ chú
trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán
thì lo lắng một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuô nê g con cái khiến trẻ không
có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống
như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay
không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để
làm gì?
Về phía giáo viên, thực tế, lâu nay GV chỉ tập trung dạy kiến thức văn hóa
mà chưa có thói quen dạy thêm kỹ năng sống cho HS nên khi thực hiện dạy lồng
ghép còn có phần lúng túng. Ở một số bài, thời gian giảng dạy trong 1 tiết là 35
phút nhiều khi không đủ. Vì thế, khi dạy lồng ghép kỹ năng sống vào môn học thì
GV phải chọn những phương pháp lồng ghép thích hợp để tránh “cháy” giáo án và
nặng thêm nội dung cho bài học.
Một số phụ huynh học sinh vì lí do điều kiện kinh tế còn khó khăn, bươn
chải cuộc sống đi làm xa như đi làm ở Malaixia, Đài Loan, Thành phố Hồ Chí
Minh… nên chưa quan tâm đến việc học và kĩ năng sống của con em ở nhà cũng
như ở trường, việc giáo dục con cái của họ là “Trăm sự nhờ thầy”.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 6 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Do bố mẹ của các em đều làm nghề nông nên thu nhập của người dân chưa
cao dẫn đến đời sống kinh tế còn thấp và mặt bằng dân trí còn thấp nên nhận thức
của phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho con
em chưa đến nơi đến chốn, chưa đúng mức, nhiều phụ huynh còn quan niệm việc
giảng dạy và giáo dục học sinh là của giáo viên và nhà trường đảm nhiệm. Việc
này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên.
Bên cạnh những thuâ nê lợi và khó khăn thì viê êc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh còn có những thành công như: Sau những tiết học Tiếng Việt, tôi thấy học
sinh trong lớp có hứng thú, tích cực học tập. Tôi đã đạt được kết quả khả quan. Các
kĩ năng sống cần thiết được hình thành: Học sinh biết vâng lời và yêu quý thầy cô
giáo, luôn tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập, nề nếp tốt, lao động vệ sinh trường
lớp sạch sẽ, chấp hành tốt mọi nội quy của trường của lớp đề ra, không còn đối
tượng học sinh cá biệt, tập thể học sinh biết thương yêu đoàn kết và giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ đặc biệt các em tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, mạnh dạn trao
đổi ý kiến, chia sẻ và hợp tác trong mọi công việc chung của lớp. Chính vì thể lớp
tôi là một lớp luôn dẫn đầu trong khối về mọi hoạt động, phong trào.
Tiết học đa dạng, phong phú về hình thức tổ chức, nội dung luôn mới mẻ và
cập nhật những vấn đề mà lứa tuổi các em quan tâm nên bản thân các em rất thích
thú và tích cực, hứng thú học tập.
Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Về phía giáo viên:
Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ năng
sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Mặc dù GV đã được tiếp cận về
nội dung lồng ghép giáo dục kĩ năng sống của Bộ Giáo dục và mỗi giáo viên đều
được tập huấn về cách dạy và rèn kĩ năng sống cho học sinh nhưng nhận thức của
nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kĩ năng sống cho học sinh
trong mỗi tiết học là gì? Vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được
biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kỹ năng sống cho học sinh. Hoặc nếu
có xem giáo trình của BGD đã ban hành thì các kỹ năng sống trong các môn học
nói chung và môn Tiếng Viê êt nói riêng giáo viên còn gặp rất nhiều khó khăn trong
việc tổ chức các hoạt động học tập, sử dụng phương pháp và hình thức dạy học
thích hợp để giáo dục các kĩ năng đó.
Trong quá trình giáo dục học sinh, giáo viên chưa thường xuyên chú ý phân
loại các đối tượng, chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh, chưa quan tâm nhiều
đến điều kiện gia đình của từng học sinh
- Việc rèn kỹ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học nói chung và
môn Tiếng Viê êt nói riêng còn hạn chế, thời gian ít.
- Các hoạt động ngoại khoá như văn nghệ, thể dục, thể thao, hoạt động Đội
chưa được chú trọng đúng mức để nhằm phát huy tính hiệu quả của nó trong việc
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 7 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
nâng cao giá tri giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít, việc đổi
mới phương pháp dạy học của giáo viên chưa nhiều, chưa phát huy được tinh thần
tự tìm tòi sang tạo trong học tập cho học sinh.
* Về phía học sinh
- Trong lớp học ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi nhau, chửi nhau,
chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp… Mô êt số em còn khá rụt rè chưa
quen với cách học cũng như chưa mạnh dạn bày tỏ ý kiến với cô giáo và các bạn.
Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít
nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè… Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở
nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...
- Đa số học sinh chưa có nhận thức đúng về ý thức tự giác, tích cực trong học
tập, chưa có ước mơ hoài bảo, kỹ năng diễn đạt trình bài trước đám đông, kỹ năng
hợp tác, kỹ năng ra quyết đinh cho bản thân,… còn hạn chế, một số học sinh ứng
xử với nhau chưa thật sự có văn hóa….
- Bên cạnh đó các trò chơi vô bổ như điện tử cũng như những phim ảnh
không lành mạnh đã trực tiếp tác động làm ảnh hưởng không ít đến việc học tập
cũng như kĩ năng sống của các em.
* Về phía các bậc cha mẹ học sinh
Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiê ên dạy các em các kỹ năng
sống cơ bản chưa nhiều. Hơn nữa cha mẹ học sinh còn mải đi làm lo kinh tế gia
đình chưa dành nhiều thời gian quan tâm đến con em mình mà tất cả việc học tập
của con em là do các cô giáo và nhà trường.
Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kỹ năng sống do sự hạn chế của giáo
dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội và cuộc sống xung quanh học
sinh là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong ứng xử với tình
huống thực của cuộc sống.
Kỹ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn
tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kĩ năng sống đơn giản
là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những
thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại,
xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp HS có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá tri cá nhân thích hợp với thực
tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục kỹ năng sống là làm thay đổi hành vi của
học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả tiêu cực
thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất
lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 8 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Kỹ năng sống là cái có sau những trải nghiệm thực tế nên việc lồng ghép này
sẽ không dừng lại ở mức giảng dạy lý thuyết mà sẽ cụ thể hóa thành từng trường
hợp, hoàn cảnh và yêu cầu học sinh xử lý.
Thực trạng việc rèn kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học: Học tập
không chỉ dừng lại ở việc nhận thức các tri thức khoa học thuần túy mà còn được
hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử
với môi trường xung quanh. Kỹ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng
đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay
đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri thức
vận dụng cho đời sống hàng ngày bi thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chiu
nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động
ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái
độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kỹ năng sống
đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải
chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
Trong những năm gần đây, toàn ngành đã chú trọng đến công tác đổi mới nội
dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển mà xã hội đặt ra. Một số giáo viên còn chú trọng vào việc
trang bi kiến thức cho học sinh mà xem nhẹ việc rèn luyện kỹ năng ứng xử, kỹ
năng thực hành cho học sinh. Còn một số quan điểm lệch lạc chỉ nên tập trung vào
việc học các môn học chính thức trong chương trình mà xem nhẹ công tác giáo dục
cho các em ý thức công dân, tinh thần đoàn kết và các kỹ năng sống thông qua các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Điều này đã dẫn đến tình trạng kỹ năng sống
của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kỹ năng tốt. Còn
phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách
ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực, thể hiện thái độ, tình cảm trong quá trình giao
tiếp với thầy cô giáo còn rụt rè, với bạn bè trong lớp chưa tình cảm tự tin, cũng có
khi một số học sinh do học được cách nói năng của người lớn trong gia đình chưa
đúng mực nên nói năng chưa khiêm nhường. Học sinh thể hiện kỹ năng sống còn
đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kỹ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại
viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn nhiều hạn chế, nhút nhát.
Ngoài ra, đội ngũ giáo viên cũng chưa được đào tạo cơ bản để dạy về kỹ
năng sống trong từng môn học, từng bài giảng. Thêm vào đó, chính các em học
sinh cũng chưa có nhận thức đầy đủ và ý thức trau dồi kỹ năng sống, chưa tích cực
chủ động tham gia các họat động trải nghiệm để tạo lập, rèn luyện kỹ năng sống.
Để các em bộc lộ được những kỹ năng của bản thân, bản thân tổ chức cho
các em tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá như: “Đố vui để học”, “Trò chơi học
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 9 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
tập” nhằm phát huy tính tích cực học tập của các học sinh. Qua đó học sinh có điều
kiện học mà vui, vui mà học giảm bớt đi sự căng thẳng.
Như vậy, việc rèn kỹ năng sống thông qua các môn học, hoạt động ngoài giờ
lên lớp nói chung và môn Tiếng Viê êt nói riêng là một trong những nội dung quan
trọng góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học
sinh. Và cần được tổ chức một cách thường xuyên, hiệu quả.
Từ cơ sở và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu tôi đã tìm ra một số biện
pháp giúp giáo viên rèn kỹ năng sống cho học sinh tiểu học có tính khả thi sau.
3. Nô êi dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà
trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu
của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin,
tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác đinh được các kỹ năng cơ
bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm
để dạy trẻ .
Nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình môn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng để
nắm chắc kiến thức và kỹ năng của môn học, cũng như kỹ năng sống mà HS cần
được học và tiếp cận. Từ đó, tuỳ từng bài cụ thể, nội dung cụ thể để lựa chọn nội
dung, phương pháp, hình thức và các kĩ thuật dạy học tích cực thích hợp các hoạt
động học tập và giáo dục lồng ghép kỹ năng sống cho HS, giúp các em có thể thực
hành kỹ năng sau khi tiếp cận.
Ngoài ra, trong khi giảng dạy kiến thức và giáo dục lồng ghép kỹ năng sống,
cần có sự khuyến khích kip thời khi HS có tiến bộ (dù chỉ là một tiến bộ rất nhỏ) để
khích lệ học sinh tham gia các hoạt động một cách tích cực và có đủ tự tin thể hiện
khả năng của mình trước lớp.
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp.
Môn Tiếng Việt có nhiều thuận lợi hơn cả vì bản thân nội dung bài học buộc
học sinh phải vận dụng rất nhiều kỹ năng như: thu thâ êp, xử lí thông tin; hợp tác;
xác đinh giá tri; thể hiê ên sự cảm thông; tư duy sáng tạo, tư duy phê phán; giải
quyết vấn đề.... Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp
dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao
tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức
hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được
phát huy trải nghiệm, rèn kỹ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học
sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kỹ năng sống cần thiết.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 10 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Để áp dụng một số biện, giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5
thông qua môn Tiếng Viê êt ở trường TH Trưng Vương có hiệu quả, tôi đi sâu vào 4
nội dung chính sau đây:
-Tìm hiểu nội dung giáo dục kỹ năng sống và đia chỉ trong chương trình sách
giáo khoa môn Tiếng Viê êt lớp 5;
- Xác đinh nội dung giáo dục kỹ năng sống cho HS trong môn Tiếng Viê êt
lớp 5;
- Xây dựng góc Tiếng Việt;
- Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiê ên dạy các em các kỹ năng
sống cơ bản;
Tìm hiểu nội dung giáo dục kỹ năng sống và địa chỉ trong chương trình sách
giáo khoa môn Tiếng viê êt lớp 5.
Tuần
2
4
5
6
9
10
Môn học
Tên bài dạy
Các kỹ năng sống cần đạt
- Thu thâ êp, xử lí thông tin
Tâ êp làm văn Luyê ên tâ pê làm báo - Hợp tác
cáo thống kê
- Thuyết trình kết quả tự tin
- Xác đinh giá tri.
Tâ êp đọc
Những con sếu bằng - Thể hiện sự thông cảm.
giấy
- Xác đinh giá tri
Tiếng vĩ cầm ở Mỹ - Thể hiện sự thông cảm.
Kể chuyê ên
Lai
- Phản hồi / lắng nghe tích cực
- Tìm kiếm và xử lí thông tin
Tâ êp làm văn Luyê ên tâ pê làm báo - Hợp tác
cáo thống kê
- Thuyết trình kết quả tự tin
Tâ êp làm văn Luyê ên tâ pê làm đơn
- Ra quyết đinh
- Thể hiện sự thông cảm.
Luyê ên tâ êp thuyết - Thể hiê ên sự tự tin
Tâ êp làm văn trình, tranh luâ nê
- Lắng nghe tích cực
- Hợp tác
Luyê ên tâ êp thuyết - Thể hiê ên sự tự tin
Tâ êp làm văn trình, tranh luâ nê - Lắng nghe tích cực
(Tiếp theo)
- Hợp tác
Ôn tâ êp giữa HKI - Hợp tác
Tâ êp đọc
(Tiết 1)
- Thể hiê ên sự tự tin
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 11 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
11
13
14
17
- Ra quyết đinh.
Tâ êp làm văn Luyê ên tâ pê làm đơn
- Đảm nhâ nê trách nhiê êm với cô êng
đồng.
Người gác rừng tí - Ứng phó với căng thẳng.
Tâ êp đọc
hon
- Đảm nhâ nê trách nhiê êm với cô êng
đồng.
Làm biên bản cuô êc - Ra quyết đinh / giải quyết vấn đề.
Tâ êp làm văn họp
- Tư duy phê phán.
Luyê ên tâ pê làm biên - Ra quyết đinh / giải quyết vấn đề.
Tâ êp làm văn bản cuô êc họp
- Hợp tác
- Tư duy phê phán.
- Ra quyết đinh / giải quyết vấn đề
Tâ êp làm văn Ôn tâ pê về viết đơn
- Hợp tác làm viê êc nhóm, hoàn
thành biên bản vụ viê êc.
Tâ êp đọc
18
Tâ êp đọc
20
Ôn tâ êp giữa HKI - Thu thâ êp, xử lí thông tin.
(Tiết 1)
- Kỹ năng hợp tác làm viê êc nhóm,
Lâ êp bảng thống kê
hoàn thành bảng thống kê.
Ôn tâ êp giữa HKI - Thu thâ êp, xử lí thông tin.
(Tiết 2)
- Kỹ năng hợp tác làm viê êc nhóm,
Lâ êp bảng thống kê
hoàn thành bảng thống kê.
Ôn tâ êp giữa HKI - Thể hiê ên sự cảm thông
Tâ êp làm văn (Tiết 5)
- Đă êt mục tiêu
Viết thư
Lâ pê
chương trình - Hợp tác
Tâ êp làm văn hoạt đô nê g
- Thể hiê ên sự tự tin
- Đảm nhâ nê trách nhiê êm.
Tâ êp đọc
Trí dũng song toàn
- Tự nhận thức
- Tư duy sáng tạo.
21
Lâ êp chương
Tâ êp làm văn hoạt đô nê g
23
Tâ êp làm văn Lâ êp
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
chương
trình - Hợp tác
- Thể hiê ên sự tự tin
- Đảm nhâ nê trách nhiê êm.
- Hợp tác
trình - Thể hiê ên sự tự tin
- Trang 12 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
25
26
29
35
hoạt đô nê g
Tâ êp viết đoạn đối
Tâ êp làm văn thoại; phân vai đọc,
diễn màn kich
Tâ êp viết đoạn đối
Tâ êp làm văn thoại; phân vai đọc,
diễn màn kich
- Đảm nhâ nê trách nhiê êm.
- Thể hiê ên sự tự tin.
- Kỹ năng hợp tác.
- Thể hiê ên sự tự tin.
- Kỹ năng hợp tác.
- Tự nhâ ên thức
Tâ êp đọc
Mô êt vụ đắm tàu
- Giao tiếp, ứng xử phù hợp.
- Kiểm soát cảm xúc.
- Ra quyết đinh.
- Tự nhâ ên thức
Kể chuyê ên
Lớp trưởng lớp tôi
- Giao tiếp, ứng xử phù hợp.
- Tư duy sáng tạo.
- Lắng nghe, phản hồi tích cực.
- Kỹ năng tự nhận thức
Tâ êp đọc
Con gái
- Giao tiếp, ứng xử phù hợp giới
tính.
- Ra quyết đinh
- Thể hiê ên sự tự tin.
Tâ êp làm văn Tâ êp viết đoạn đối - Kỹ năng hợp tác có hiê êu quả để
thoại; phân vai đọc, hoàn chỉnh màn kich.
diễn màn kich
- Tư duy sáng tạo.
Ôn tâ pê cuối HKII
Tâ êp đọc
(Tiết 3)
Lâ êp bảng thống kê
Tâ êp làm văn Ôn tâ pê cuối học kì II
(Tiết 4)
Viết biên bản cuô cê
họp
- Thu thâ êp, xử lí thông tin: Lâ pê
bảng thống kê.
- Ra quyết đinh.
- Ra quyết đinh.
- Xử lí thông tin
Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong môn Tiếng
Viê êt lớp 5.
* Kỹ năng thể hiện sự tự tin:
Tự tin là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình có
thể trở thành người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghi
lực để hoàn thành nhiệm vụ;
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 13 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Kỹ năng thể hiện sự tự tin giúp các nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn
bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc đưa ra quyết đinh và giải
quyết vấn đề, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong
cuộc sống;
Kỹ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng,
ra quyết đinh, đảm nhận trách nhiệm.
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Luyện tập thuyết trình, tranh luâ ên”,
“Lâ pê chương trình hoạt đô nê g”, “Tâ êp viết đoạn đối thoại; phân vai đọc, diễn màn
kich”… người giáo viên cần tổ chức cho các em đóng vai, đối thoại, tự bô êc lô ê. Sau
vài lời khuyến khích đầu tiên, tổ chức cho các em đứng đóng vai, nêu những lí lẽ,
dẫn chứng, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu các em có thể rất ái ngại không tự tin khi
đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng nếu được giáo viên nhập cuộc và kip thời
nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái
ngại. Thay vào đó là thái đô ê bình tĩnh, tự tin cùng những câu nói rõ ràng, diễn đạt
gãy gọn và linh hoạt hơn trong khi tham gia đóng vai, đối thoại với các
thuyết trình viên.
*Kỹ năng thể hiện sự cảm thông:
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn
cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những
người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người
khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Những con sếu bằng giấy” Tôi yêu cầu HS trả lời câu
hỏi. + Các bạn nhỏ đã làm gì để giúp đỡ Xa-xa-cô?
Tôi yêu cầu HS trả lời câu hỏi. Khuyến khích nhiều em phát biểu theo cách
khác nhau. Chẳng hạn: (Các bạn nhỏ trên khắp thế giới đã gấp những con sếu bằng
giấy gửi tới cho Xa-xa-cô. Khi Xa-xa-cô chết các bạn đã quên góp tiền xây tượng
đài tưởng nhớ những nạn bi bom nguyên tử sát hại.)
+ Em đã làm được việc gì để tỏ lòng cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ những
người nạn nhân bi bom nguyên tử sát hại? Tôi khuyến khích nhiều em phát biểu
theo các cách hiểu của các em. Chẳng hạn: Chúng tôi gét chiến tranh. Tôi sẽ cùng
mọi người đấu tranh xoá bỏ vũ khí hạt nhân. Quên góp tiền, sách vở, quần áo để
ủng hô ê những nạn bi bom nguyên tử sát hại....)
Ví dụ: Khi kể chuyê nê bài “ Tiếng vĩ cầm ở Mĩ Lai ” Tôi yêu cầu HS trả lời
câu hỏi:
+ Em đã làm được việc gì để tỏ lòng cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ những nạn
nhân của vụ thảm sát Mỹ Lai, đồng cảm với hành đô nê g dũng cảm của những người
lính Mỹ có lương tâm? Học sinh tự nói về sự thông cảm, chia sẻ và giúp đỡ người
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 14 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
khác của các nhân vật trong bài. Từ đó giúp học sinh hiểu được cần phải biết quan
tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
Sau đó, tôi YCHS kể chuyê ên theo nhóm thể hiê ên KNS cảm thông, chia sẻ
theo từng đoạn của câu chuyê ên.
Hoặc khi dạy Tâ êp làm văn “Luyê Ôn tâ Ôp làm đơn” KNS cần lồng ghép là sự
cảm thông: HS tự nói về sự chia sẻ, cảm thông với nỗi bất hạnh của nạn nhân chất
đô êc màu da cam.Từ đó giúp học sinh hiểu được cần phải biết quan tâm đến người
khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
* Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình
thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và
văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác ngay cả khi bất
đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu,
mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn khi cần thiết.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc
nhưng không làm hại hay gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này giúp chúng
ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích
cực với các thành viên trong gia đình nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta,
đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất
quan trọng đối với niềm vui cuốc sống.
Khi dạy các bài: “Mô Ôt vụ đắm tàu; Lớp trưởng lớp tôi; con gái….” Tôi
cho HS nhận xét cách xưng hô của các nhân vật trong truyện, lời lẽ, của các nhân
vật khi giao tiếp…
Học sinh nhận biết cách xưng hô của các nhân vật trong truyện là đúng thứ
bậc, lời nói thể hiện sự thân mật, dễ đạt được mục đích giao tiếp. HS biết thể
hiện sự cần thiết phải ứng xử lich sự khi giao tiếp trong cuộc sống. Dù trong mỗi
hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, mục đích giao tiếp khác nhau nhưng các em luôn có
thể hiện cách ứng xử lich sự để đạt được mục đích giao tiếp và hơn hết là xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Có thể là trình bày nguyện vọng
của mình với người khác kèm theo cử chỉ, nét mặt, lời nói, ngữ điệu. Có thể lắng
nghe tích cực khi người khác nói.
Ví dụ: Khi học bài: “Con gái” Tôi hỏi học sinh:
+ Cuô êc trò chuyện thân mật trình bày nguyện vọng, ý kiến của Mơ với mẹ
thì Mơ có thái độ như thế nào? Tôi cho học sinh trả lời ý kiến khác nhau. Sau đó,
tôi chốt lại: Mơ lắng nghe mẹ nói thể hiê ên sự giao tiếp thứ bâ êc giữa mẹ và con cái.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 15 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
+ Mơ đã ứng xử như thế nào khi bạn Hoan bi rơi xuống nước? (Mơ ứng xử
phù hợp đã lao xuống để cứu bạn).
Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Mô Ôt vụ đắm tàu” Tôi hỏi HS: Em có nhâ ên
xét gì về cách giao tiếp của các nhâ nê vâ êt trong bài? (Mi-ri-ô là mô êt bạn trai kín
đáo, cao thượng đã nhường sự sống cho bạn. Giu-li-ét-ta là mô êt bạn gái tốt bụng,
giàu tình cảm biết lo lắng, chăm sóc khi bạn bi thương... Cách giao tiếp giữa các
bạn thân mâ êt, gần gũi thể hiê ên những tính cách điển hình của nữ giới và nam giới).
Từ những viê êc làm của các nhân vâ êt trong bài mà tôi hướng dẫn học sinh vâ ên
dụng vào cuô êc sống.
+ Ví dụ: Khi học xong bài: “Lớp trưởng lớp tôi” Tôi hỏi HS:
+ Em có nhâ ên xét gì về cách xưng hô của các bạn trong câu chuyê ên? (Các
bạn thể hiê ên giao tiếp tự tin, mạnh dạn, thân mâ êt, gần gũi).
Tiếp theo, tôi yêu cầu học sinh kể câu chuyê ên theo nhóm có phân vai các
nhân vâ êt để các em thể hiê ên được kĩ năng giao tiếp của mình.
Cuối cùng, tôi tổ chức cho học sinh thực hành Kĩ năng sống bằng cách cho
học sinh thảo luận đóng vai để đưa ra các tình huống xảy ra trong cuộc sống và các
cách xử lí tình huống của các nhóm.
*Kỹ năng tự nhận thức:
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng của con người hiểu về chính bản thân
mình, như cơ thể, tư tưởng các mối quan hệ xã hội; biết nhìn nhận, đánh giá đúng
về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen… của bản thân mình, quan tâm và luôn
ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng
thẳng.
Để tự nhận thức đúng về bản thân cẩn phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc
biệt là qua giao tiếp với người khác.
Ví dụ 1: Bài “ Trí dũng song toàn”
+ Vì sao vua nhà Minh sai người ám hại ông Giang Văn Minh?
Tôi yêu cầu HS trả lời câu hỏi. Khuyến khích nhiều em phát biểu theo cách
khác nhau. Chẳng hạn: (Vì vua Minh mắc mưu Giang Văn Minh, phải bỏ lê ê góp
giỗ Liễu Thăng nên căm gét ông. Vì thấy Giang Văn Minh không những không
chiu nhún nhường trước câu đối của đại thần triều đình, còn dám lấy viê êc quân đô iê
cả ba triều đại Nam Hán, Tống và Nguyên đều thảm bại trên sông Bạch Đằng để
đối lại, nên vua giâ nê quá sai người ám hại ông…).
+ Vì sao có thể nói ông Giang Văn Minh là người trí dũng song toàn? (Vì
Giang Văn Minh vừa mưu trí, vừa bất khuất. Giữa triều đình nhà Minh, ông biết
dùng mưu để vua nhà Minh buô êc phải bỏ lê ê góp giỗ Liễu Thăng...)
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Mô Ôt vụ đắm tàu”. Sau khi HS hiểu được hoàn cảnh
và mục đích chuyến đi của Ma-ri-ô và Giu-li-ét-ta thì Giu-li-ét-ta chăm sóc Ma-ri-ô
như thê nào khi bạn bi thương? ( Thấy Ma-ri-ô bi sóng lớn â êp tới, xô câ êu ngã dụi,
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 16 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Giu-li-ét-ta hoảng hốt chạy lại, quỳ xuống bên bạn, lau máu trên trán bạn, diu dàng
gỡ chiếc khăn đỏ trên mái tóc băng vết thương cho bạn. Qua đó, cho thấy Giu-li-étta đã tự nhâ ên thức được trách nhiê êm và vai trò của mình khi thấy bạn bi thương).
+ Quyết đinh nhường bạn xuống xuồng cứu nạn của Ma-ri-ô nói lên điều gì?
( Ma-ri-ô có tấm lòng cao thượng, nhường sự sống cho bạn, hi sinh bản thân vì bạn.
Qua đó, cho thấy Ma-ri-ô đã tự nhâ ên thức được trách nhiê êm và vai trò của mình
khi thấy bạn biết bạn còn bố mẹ).
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Lớp trưởng lớp tôi ” Em có nhâ ên xét gì về lớp
trưởng qua câu chuyê nê ? ( Vừa học giỏi vừa chu đáo, xốc vác công viê êc của lớp,
khiến các bạn nam trong lớp ai cũng nể phục). Sau dó tôi cho HS thực hành Kĩ
năng sống đó bằng cách cho HS thực hành: “Tự giới thiệu về lớp trưởng lớp mình”.
Trong lời giới thiệu: HS nêu những điểm mạnh, điểm yếu của lớp trưởng. Ví dụ:
Học sinh tự nhận xét về chữ viết của bạn, hoặc giới thiệu những khả năng và hạn
chế của bạn. Tôi khích lệ để HS tự tin, mạnh dạn khi nói trước cả lớp để học sinh
có cơ hội được rèn kĩ năng nói trước tập thể.
Ví dụ 4: Khi dạy Bài “Con gái” Sau khi HS nhận biết được những viê êc làm
của Mơ như học giỏi, chăm làm, dũng cứu bạn... thì mọi người đã thay đổi cách
hiểu chưa đúng của cha mẹ về viê êc sinh con gái. Qua câu chuyê ên này thì chúng ta
đã tự nhâ nê thức về sự bình đẳng nam nữ.
*Kỹ năng xác đinh giá tri:
Giá tri là những gì con người cho là quan trọng, có ý nghĩa đối với bản thân
mình, có tác dụng đinh hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân
trong cuộc sống. Giá tri có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái
độ và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó…
Giá tri có thể là giá tri vật chất hoặc giá tri tinh thần, có thể thuộc các lĩnh
vực văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế…
Giáo dục kĩ năng “Xác đinh giá tri ” ở một số bài trong môn Tiếng Viê êt tôi
đã thực hiện như sau :
Ví dụ : Khi dạy bài “Những con sếu bằng giấy” TV5 tập I.
Giáo dục kĩ năng sống “Xác đinh giá tri. ” trong bài là: HS nhận biết được ý
nghĩa của tấm lòng nhân hậu trong cuộc sống.
GV nêu:
+ Tìm những câu các bạn nhỏ đã làm gì để tỏ tình đoàn kết với Xa-xa-cô?
+ Các bạn nhỏ đã làm gì để bày tỏ nguyê nê vọng hoà bình?
+ Theo em, nếu được đứng trước tượng đài, em sẽ nói gì với với Xa-xa-cô?
Tôi để nhiều HS được trình bày, sau đó tôi chốt ý đúng và đưa ra câu hỏi, tổ
chức cho HS thảo luận nhóm đôi: “Câu chuyê ên muốn nói với các em điều gì?
GV kết luận để HS nhận thấy: Chúng ta đều ghét chiến tranh mà yêu hoà bình. Chỉ
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 17 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
có hoà bình thì cuô êc sống của chúng ta bình yên, có giá tri muốn sống, có khát
vọng sống.
*Kỹ năng kiểm soát cảm xúc:
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình
trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân
và người khác như thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh, thể hiện cảm xúc một
cách phù hợp. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm
xúc, kiềm chế cảm xúc, quản lý cảm xúc.
Một người biết kiềm chế cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng, giúp giao
tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giúp ra quyết đinh và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Kĩ năng xử lý cảm xúc cần sự kết hợp với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng xử
với người khác và kĩ năng ứng phó với căng thẳng …
Ví dụ: Khi học bài: “ Mô Ôt vụ đắm tàu” Tôi hỏi HS: + Mi-ri-ô đã kiểm soát
cảm xúc của mình như thế nào? (Mi-ri-ô là mô êt bạn trai kín đáo giấu nỗi bất hạnh
của mình, không kể với bạn, cao thượng đã nhường sự sống cho bạn. Từ những
viê êc làm của các nhân vâ êt trong bài mà tôi hướng dẫn học sinh vâ ên dụng vào cuô êc
sống.
*Kỹ năng tư duy sáng tạo:
Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách
mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả
năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan điểm, sự
việc; độc lập trong suy nghĩ. Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng
động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi, có
tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn những người khác, không bi bó hẹp vào
kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua, tư duy minh mẫn và khác biệt. Tư duy sáng
tạo là một Kĩ năng sống quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên
bi đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hoàn
cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó một cách
linh hoạt và phù hợp. Khi một người biết kết hợp tốt giữa kĩ năng tư duy phê phán
và tư duy sáng tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ
giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và
phù hợp nhất.
* Kỹ năng lắng nghe tích cực:
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người có
kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm
lắng nghe ý kiến hoặc trình bày của người khác, biết đưa ra ý kiến phản hồi mà
không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lý trong qúa trình giao tiếp.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 18 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn bài: “Luyện tập thuyết trình, tranh luâ Ôn”,
người giáo viên tổ chức cho các em thuyết trình, tranh luâ ên. Trong quá trình thuyết
trình, tranh luâ nê thì các em phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người cùng tranh
luâ nê .
Ví dụ: Khi dạy Kể chuyê Ôn bài: “Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai”, Lớp trưởng lớp
tôi”. Tôi yêu cầu học sinh kể chuyê nê theo nhóm. Trong quá trình kể chuyê ên thì các
em phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người kể. Sau khi lắng nghe bạn kể chuyê nê
xong, tôi yêu cùng học sinh nhâ ên xét lời kể, điê êu bô ê, cử chỉ của bạn.
Sau khi dạy xong những bài học trên, tôi hướng dẫn học sinh vâ ên dụng kĩ
năng sống đó vào thực tế. Đó là các em phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người
cùng đối thoại.
* Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm:
Đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và
ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận
trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm
kiếm thêm sự giúp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
Khi các thành viên trong nhóm có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm sẽ tạo
được một không khí hợp tác tích cực và xây dựng trong nhóm, giúp giải quyết vấn
đề, đạt được mục tiêu chung của cả nhóm, đồng thời tạo sự thoả món và thăng tiến
cho mỗi thành viên.
Kĩ năng đảm nhận trách nhiêm có liên quan đến kĩ năng tự nhận thức kĩ năng
thể hiện sự cảm thông, kĩ năng hợp tác và kĩ năng giải quyết vấn đề.
*Kỹ năng hợp tác:
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công
việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Luyện tập thuyết trình, tranh luâ ên”,
“Lâ pê chương trình hoạt đô nê g”, “Tâ êp viết đoạn đối thoại; phân vai đọc, diễn màn
kich”; “Ôn tâ êp về viết đơn; “Lâ êp bảng thống kê”… người giáo viên cần tổ chức
cho các em hợp tác với nhau tìm ra lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục để luyê nê tâ pê
thuyết trình, tranh luâ ên. Các em hợp tác với nhau tìm kiếm thông tin để hoàn thành
bảng thống kê...
*Kỹ năng ra quyết đinh:
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình
huống, những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn, đưa ra quyết đinh
hành động. Kĩ năng ra quyết đinh là khả năng của cá nhân biết quyết đinh lựa chọn
phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 19 -
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Tiếng Việt
một cách kip thời. Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết đinh cho bản thân; không nên
trông chờ, phụ thuộc vào người khác; mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những
người tin cậy trước khi ra quyết đinh. Để đưa ra quyết đinh phù hợp, chúng ta cần:
- Xác đinh vấn đề hoặc tình huống mà chúng ra đang gặp phải.
- Thu thập thông tin về vấn đề hoặc tình huống đó.
- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đó có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả sẽ xảy ra nếu chúng ta lựa chọn mỗi phương
án giải quyết.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu giải quyết theo từng
phương án đó.
- So sánh giữa các phương án để quyết đinh lựa chọn phương án tối ưu. Kĩ
năng ra quyết đinh rất cần thiết trong cuộc sống, giúp con người có đựơc sự lựa
chọn phù hợp và kip thời, đem lại thành công trong cuộc sống. Ngược lai, nếu
không có kĩ năng ra quyết đinh, con người ta có thể có những quyết đinh sai lầm
hoặc chậm chễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc và
cuộc sống của bản thân; đồng thời còn có thể ảnh hưởng đến gia đình, bạn bè và
những người có liên quan. Để ra quyết đinh một cách phù hợp, cần phối hợp với
những KNS khác như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác đinh giá tri, kĩ năng thu
nhập thông tin, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo…Kĩ năng ra quyết
đinh là phần rất quan trọng của kĩ năng giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Luyện tập làm đơn”; “Làm biên bản
cuô êc họp”, “Luyê ên tâ êp làm biên bản cuô êc họp”; “Ôn tâ pê về viết đơn; người giáo
viên cần tổ chức cho các em trao đổi, hợp tác cùng ra mô êt quyết đinh, hiểu được
trường hợp nào cần lâ pê biên bản; trường hợp nào không cần lâ pê biên bản.
*Kỹ năng giải quyết vấn đề:
Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết đinh lựa chọn
phương án tối ưu và hành động theo phương án đó chọn để giải quyết vấn đề hoặc
tình huống gặp phải trong cuộc sống. Giải quyết vấn đề có liên quan tới kĩ năng ra
quyết đinh và cần nhiều KNS khác như: giao tiếp; xác đinh giá tri; tư duy phê
phán; tư duy sáng tạo; tìm kiến sự hỗ trợ, kiên đinh…
Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, chúng ta cần:
Xác đinh rõ vấn đề hoặc tình huống đang gặp phải, kể cả tìm kiếm thêm
thông tin cần thiết.
- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đó có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả xảy ra nếu ta lựa chọn phương án giải quyết
nào đó.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu thực hiện phương án giải
quyết đó
- So sánh các phương án để đưa ra quyết đinh cuối cùng.
Người thực hiện: Ngô Thị Minh
- Trang 20 -
- Xem thêm -