Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn tiế...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn tiếng việt

.DOC
20
3189
123

Mô tả:

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt MỤC NỘI DUNG TRANG MỤC LỤC 1 I PHẦN MỞ ĐẦU 2 1 Lí do chọn đề tài 2 2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3 3 Đối tượng nghiên cứu 3 4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 4 5 Phương pháp nghiên cứu 4 II PHẦN NỘI DUNG 4 1 Cơ sở lí luận 4 2 Thực trạng 5 3 Giải pháp, biện pháp 12 4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 23 III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 24 1 Kết luận 24 2 Kiến nghị 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 1 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Học sinh sống trong xã hội phát triển cần phải được trang bị những kỹ năng thích hợp để hòa nhập với cộng đồng, với xu thế toàn cầu hóa. Đối với học sinh, đặc biệt là học sinh bậc Tiểu học cần phải được giáo dục một số giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống. Giáo dục kỹ năng sống càng trở nên cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi vì các em là những chủ nhân tương lai của đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động,…Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết. Ở bậc tiểu học, các môn học vừa cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về Toán học, Khoa học và Nhân văn,… vừa cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kỹ năng sống, biết phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm. Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương dạy kỹ năng sống là một trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân thiện - học sinh tích cực.” Trên tinh thần đó, bản thân nhận thấy rằng: chính ở dưới mái trường các em học được nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo. Với học sinh tiểu học, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kỹ năng sống tốt cho tương lai sau này. Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Học để tự tin, tự lập, tự thích ứng với môi trường thế giới xung quanh. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của nhiều học sinh. Trường Tiểu học Hà Huy Tập xã Dray Sáp – Krông Ana đang thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, trong nhiều năm qua trường có nhiều thành tích về công tác dạy và học cũng như các hoạt động giáo dục khác. Chính vì vậy học sinh trong và ngoài địa bàn tập trung về đây rất đa dạng. Việc học trên lớp, Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 2 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt giao tiếp hàng ngày với bạn bè, thầy cô đối với học sinh diễn ra thường xuyên, đòi hỏi các em phải có kỹ năng chuẩn mực. Chính vì lẽ đó tôi đã quyết tâm bồi dưỡng cho học sinh kỹ năng sống, trau dồi thái độ ứng xử có văn hoá, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho các em. Bản thân tôi đã cố gắng thử nghiệm nhiều biện pháp song theo tôi nhận thấy việc giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được thể hiện rõ nét nhất trong môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói đọc, viết), thể hiện ưu thế của Tiếng Việt là kỹ năng giao tiếp, sau đó là kỹ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định,… Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt ”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu Thực hiện đề tài này giúp: - Bồi dưỡng cho học sinh kỹ năng sống trong học tập và trong cuộc sống nhằm giúp các em mạnh dạn, tự tin và trở thành những con người có văn hóa phù hợp với thời đại mới; - Nâng cao giá trị kỹ năng sống cho học sinh, nâng cao giá trị văn hóa nhà trường; - Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh; - Giúp giáo viên chủ động, tích cực trong việc tự bồi dưỡng kỹ năng sống cho bản thân và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; - Tăng cường được sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, tạo môi trường thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Nhiệm vụ của đề tài - Xây dựng cơ sở lí luận về việc bồi dưỡng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt. Nghiên cứu, phân tích, đối chiếu với thực trạng của nhà trường trong thời điểm hiện tại để qua đó tìm ra các biện pháp, giải pháp mới hiệu quả hơn cho các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tại trường TH Hà Huy Tập – Huyện Krông Ana. 3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng học sinh và giá trị kỹ năng sống của học sinh lớp 4A năm học: 2014 -2015 trường Tiểu học Hà Huy Tập 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 3 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt - Tập trung nghiên cứu đề tài “Một số biên pháp giáo dục kỹ nắng sống của học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt” tại trường Tiểu học Hà Huy Tập, ở lớp 4A, năm học 2014 – 2015. Qua các hoạt động học tập nói chung và học môn Tiếng Việt nói riêng, trong sinh hoạt và qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy của bản thân trong nhiều năm. 5. Phương pháp nghiên cứu -Phương pháp quan sát -Phương pháp phân tích tổng hợp -Phương pháp thực hành luyện tập -Phương pháp phỏng vấn II. PHẦN NỘI DUNG 1.Cơ sở lí luận của vấn đề Thực hiện Chỉ thị số 3008/CT-BGDĐT ngày 18/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2014-2015, Bộ GDĐT hướng dẫn việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục: Giáo dục cho người học những kỹ năng cơ bản, cần thiết, hướng tới hình thành những thói quen tốt giúp người học thành công, đảm bảo vừa phù hợp với thực tiễn và thuần phong mỹ tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế trong giai đoạn Công nghiệp hoá đất nước. Nội dung giáo dục giáo dục kỹ năng sống phải phù hợp với từng lứa tuổi và tiếp tục được rèn luyện theo mức độ tăng dần. Đối với học sinh tiểu học, việc giáo dục giáo dục kỹ năng sống cần tập trung vào hình thành cho học sinh kỹ năng giao tiếp với cha mẹ, thầy cô, bạn bè; kỹ năng xây dựng tình bạn đẹp; kỹ năng kiên trì trong học tập; kỹ năng đúng giờ và làm việc theo yêu cầu, kỹ năng đồng cảm,... tạo tiền đề cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất, học vấn và năng lực của học sinh. Đứng trước những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao thì mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu đối với mỗi đơn vị trường học, mỗi cấp học. Kỹ năng sống thúc đẩy phát triển cá nhân và xã hội, có thể nói Kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Theo một nghiên cứu mới được ngành giáo dục công bố, có 37% sinh viên ra trường không tìm được việc làm do thiếu kỹ năng thực hành xã hội ( khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, giao tiếp...). Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và khả năng giao tiếp lại rất kém, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống. Chính vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là việc làm vô cùng quan trọng, vô cùng thiết thực. Kỹ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 4 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt một con người mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kỹ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. Kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng vẫn cần học kỹ năng sống. Ở lứa tuổi lớp 4, học sinh có những nhận biết nhất định về thế giới xung quanh, biết đánh giá nhận xét sự việc xảy ra quanh mình. Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hoá, về tình cảm các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Các em dễ xúc động và bắt đầu biết mơ ước có trí tưởng tượng phong phú. Thích nghi lại các vấn đề mà mình đã quan sát được và có thể có khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Học sinh Tiểu học thật ngây thơ và trong sáng, các em như tờ giấy trắng, thầy cô là những người có trách nhiệm viết lên những điều đẹp đẽ nhất, những điều thật ý nghĩa đối với các em và đối với đất nước. Học sinh Tiểu học như mầm cây mới nhú, rất cần sự che chở, bảo vệ, chăm sóc, uốn nắn không chỉ của thầy cô giáo mà còn của gia đình, và của cả xã hội. Các em có thể tiếp nhận mọi điều được giáo dục từ thầy cô, gia đình và ngoài xã hội. Vì vậy nhà trường, gia đình và xã hội cần biết quan tâm, có phương pháp giáo dục phù hợp nhằm góp phần giáo dục kỹ năng sống cho các em. 2. Thực trạng của vấn đề 2.1.Thuận lợi - khó khăn * Thuận lợi Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ của đồng nghiệp và cộng đồng Bản thân là một giáo viên trẻ, nhiệt huyết, sáng tạo, năng động, kiên trì trong việc tìm tòi nội dung và nhiều năm liền chủ nhiệm lớp 4, lớp 5. Có sự thấu hiểu mong muốn của từng thành viên trong mọi hoạt động, luôn học hỏi, biết lắng nghe sự góp ý xây dựng của Lãnh đạo nhà trường, đồng nghiệp, phụ huynh học sinh. Học sinh đã được thực hiện theo mô hình trường học mới từ các lớp trước nên các em có ý thức học tập, biết vâng lời. Hơn nữa các em sinh sống trên cùng một địa bàn. Các em gắn bó, coi lớp học là ngôi nhà thứ hai của mình nên có thái độ tích cực và hợp tác. Có kĩ năng vận dụng kiến thức học được vào thực tế cuộc sống. Được sự quan tâm giúp đỡ của Hội cha mẹ học sinh lớp 4A. Một số phụ huynh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục, đặc biệt là giáo dục ở bậc Tiểu học – bậc học nền tảng cho quá trình học của con em mình. Họ đã có ý thức tự giác, thái độ tích cực trong việc giáo dục con em mình và kết hợp với nhà Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 5 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt trường để giáo dục học sinh. Đây là điều rất cần thiết góp phần quyết định thành công của giáo viên, của người thầy và của nhà trường. * Khó khăn Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vô ôi trong viê ôc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuô nô g con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? Không ít giáo viên hiện nay chỉ tập trung chủ yếu vào các tiết dạy văn hóa làm sao cho tốt, cho giỏi, còn việc giáo dục, rèn luyện học sinh thì chưa quan tâm nhiều. Trường TH Hà Huy Tập đóng địa bàn xã Dray Sáp, một địa bàn tương đối rộng, đa số học sinh là con em lao động, trình độ cha mẹ học sinh còn nhiều hạn chế nên chưa mẫu mực trong hành vi ứng xử hoặc chưa quan tâm đến giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho con em đến nơi đến chốn. Một số em sống với ông bà nội ngoại hoặc người thân do hoàn cảnh của gia đình nên tâm lý cũng có nhiều thay đổi. 2.2. Thành công và hạn chế * Thành công Sau những tiết học Tiếng Việt, tôi nhận thấy các em có tiến bộ hơn rõ rệt. Các kĩ năng sống cần thiết được hình thành: Cơ bản các em rất ngoan, luôn tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập, nề nếp tốt, lao động vệ sinh trường lớp sạch sẽ, chấp hành tốt mọi nội quy của trường của lớp đề ra, không còn đối tượng học sinh cá biệt. Các em nhiệt tình giúp nhau trong học tập để cùng tiến bộ, đặc biệt các em tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, mạnh dạn trao đổi ý kiến, chia sẻ và hợp tác trong mọi công việc chung của lớp. Chinh vì thể lớp tôi là một lớp luôn dẫn đầu trong khối về mọi hoạt động, phong trào. Tiết học đa dạng, phong phú về hình thức tổ chức, nội dung luôn mới mẻ và cập nhật những vấn đề mà lứa tuổi các em quan tâm nên bản thân các em rất thích thú và tích cực, hứng thú học tập. *Hạn chế Bản thân nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp ở các lớp gia đình học sinh có điều kiện kinh tế còn khó khăn, bố mẹ thường xuyên đi làm thuê theo thời vụ, thiếu sự quan tâm đến việc học tập cũng như kỹ năng sống của con em, trình độ dân trí trên địa bàn chưa đồng đều, quan niệm sống của các bậc cha mẹ không giống nhau, tầm hiểu biết về kỹ năng sống còn hạn chế, điều kiện học tập của các em còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến còn một số học sinh chưa ngoan, kỹ năng sống chưa tốt. 2.3. Mặt mạnh - mặt yếu * Mặt mạnh. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 6 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt *Mặt mạnh Bản thân tôi được tham gia lớp tập huấn ở các cấp về vai trò của công tác chủ nhiệm lớp nói chung về mô hình dạy VNEN và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nói riêng nên đã học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu. Và tìm hiểu thực tế từ đồng nghiệp của đơn vị mình công tác và trường bạn để có thêm kinh nghiệm cho kế hoạch thiết kế các tiết dạy Tiếng Việt ở lớp 4 nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh theo mô hình trường học mới tại đơn vị mình. Bước vào đầu năm học, trường tôi đã tổ chức một buổi tham luận về tác dụng của việc tổ chức tốt, có hiệu quả giá trị giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, liên quan đến xây dựng môi trường học tập thân thiện. Giáo viên được trao đổi chia sẻ những khó khăn, thu thập thêm kinh nghiệm, những ý kiến sáng tạo, các biện pháp đã tổ chức mang lại hiệu quả. Lãnh đạo nhà trường nhận xét, gợi ý một số cách tổ chức có tính giáo dục giúp giáo viên tham khảo, lựa chọn. Nhà trường đã tổ chức chuyên đề giáo dục kỹ năng sống, thường xuyên có sự trao đổi của cụm trường,... *Mặt yếu Trong những năm qua, mặc dù tiết học nói chung và tiết Tiếng Việt nói riêng đã được thực thi một cách ổn định. Tuy nhiên vẫn còn chú trọng nhiều về phương pháp dạy học, nội dung kiến thức bài dạy mà chưa được chú trọng đúng mức đến các hình thức bồi dưỡng giá trị kỹ năng sống cho học sinh thông qua các tiết học đó. Việc dự giờ thao giảng rút kinh nghiệm chưa mang tính phổ biến. Bước đầu bản thân chưa nắm hết về nội dung phải dạy trẻ những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Thời gian đầu tôi còn lúng túng, chưa có giải pháp hữu hiệu phải vừa học, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nên hiệu quả công việc đôi khi còn chưa cao. Một số học sinh lúc đầu còn rụt rè, e ngại; kỹ năng giao tiếp của các em còn nhiều hạn chế. Một vài phụ huynh chưa hiểu hết bản chất của việc giáo dục kỹ năng sống cho con em mình mà chỉ quan tâm, chú trọng đến việc học kiến thức. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động * Về phía giáo viên: Nhận thức chưa rõ tầm quan trọng, cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. Giáo dục kỹ năng sống trong các môn học ở tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh sử dụng quyền và bổn phận của mình đồng thời phát triển một cách toàn diện. - Trong quá trình giáo dục học sinh, giáo viên chưa thường xuyên chú ý phân loại các đối tượng, chưa quan tâm nhiều đến điều kiện gia đình của từng học sinh. - Các hoạt động ngoại khoá như văn nghệ, thể dục, thể thao, hoạt động Đội chưa được chú trọng đúng mức để nhằm phát huy tính hiệu quả của nó trong việc Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 7 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt nâng cao giá trị giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. * Về phía các bậc cha mẹ học sinh Cha mẹ chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục các em, còn khoán trắng cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em học tập. Kỹ năng sống của một số phụ huynh chưa chuẩn mực để làm gương cho trẻ. * Về phía học sinh - Học sinh trong trường về tinh thần và thái độ học tập chưa cao, còn nhiều học sinh lười học, các em rất dễ bị kích động dẫn đến gây gổ đánh nhau, nói tục, chửi thề - Đa số học sinh chưa có nhận thức đúng về ý thức tự giác, tích cực trong học tập, chưa có ước mơ hoài bảo, kỹ năng diễn đạt trình bài trước đám đông, kỹ năng hợp tác, kỹ năng ra quyết định cho bản thân,… còn hạn chế, một số học sinh ứng xử với nhau chưa thật sự có văn hóa…. Bên cạnh đó các trò chơi vô bổ như điện tử cũng như những phim ảnh không lành mạnh đã trực tiếp tác động làm ảnh hưởng không ít đến việc học tập cũng như kĩ năng sống của các em. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra Trong chương trình lớp 4, ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, …hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Và quan trọng hơn cả là phải hiểu và nắm bắt được tâm lý học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. Sau khi điều tra phân loại từng đối tượng học sinh đầu năm. Tôi đã trực tiếp trao đổi với phụ huynh về từng đối tượng học sinh và đồng thời nhân được những thông tin từ phía phụ huynh, từ đó kịp thời có những kế hoạch cụ thể để tập trung cho từng học sinh. Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 8 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt Không hạ thấp các em. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ. Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn. Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi. Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở các em. Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh. Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của não bộ. Bên cạnh đó, tôi còn tổ chức cho các em tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá như: “Đố vui để học”, “Trò chơi học tập” nhằm phát huy tính tích cực học tập của các học sinh. Qua đó học sinh có điều kiện học mà vui, vui mà học giảm bớt đi sự căng thẳng và cũng từ đó các em bộc lộ được những kỹ năng của bản thân. 3. Giải pháp - biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp - biện pháp Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là đối với học sinh học theo mô hình VNEN. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ . Tổ chức lớp học, hướng dẫn học sinh học tập nội quy học sinh, thực hiện tốt kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp và đạt các chỉ tiêu phấn đầu trong các năm học nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh. Tìm hiểu nguyện vọng, đề nghị chính đáng của phụ huynh học sinh. Điều tra điều kiện học tập của học sinh. Từ đó có biện pháp kết hợp, hợp tác, tạo điều kiện nhằm tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện học tập, nguyện vọng, sở thích của học sinh, giáo viên có cơ sở, có điều kiện tốt để có định hướng, kế hoạch phân loại điều kiện học sinh và có phương pháp dạy học và giáo dục phù hợp với từng học sinh có hiệu quả. 3.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp Với thực trạng về các mặt và chất lượng học sinh như trên, giáo viên đã thực Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 9 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt hiện áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như sau: Bản thân giáo viên chủ nhiệm là người phải có lập trường tư tưởng vững vàng. Không ngừng học tập tu dưỡng đạo đức, chính trị. Luôn luôn trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện, đúc rút nhiều kinh nghiệm từ chính bản thân và đồng nghiệp trong quá trình công tác. Luôn thực hiện đúng kế hoạch của nhà trường đề ra, quy chế chuyên môn. Luôn luôn học hỏi, tìm tòi các phương pháp kĩ thuật dạy học mới, tích cực thực hiện đúng mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục học sinh tại lớp mình phụ trách và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh của nhà trường. Môn Tiếng Việt có nhiều thuận lợi hơn cả vì bản thân nội dung bài học buộc học sinh phải vận dụng rất nhiều kỹ năng (tư duy sáng tạo, xúc cảm, trình bày suy nghĩ, vấn đáp, giải quyết vấn đề...). Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai, …học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết. a. Xác định các giá trị kỹ năng cần giáo dục cho học sinh thông qua các bài học trong môn Tiếng Việt - Kỹ năng hợp tác - Kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giáo tiếp - Kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích phán đoán, tư duy phê phán - Thể hiện sự thống cảm và chia sẻ - Thể hiện sự tự tin. b. Xác định các bài học trong môn Tiếng Việt có nội dung giáo dục kỹ năng sống, giúp học sinh tiếp nhận, học tập các giá trị sống qua các bài học * Giáo dục kỹ năng biết hợp tác tốt trong nhóm: Là lớp học theo mô hình VNEN chủ yếu là tổ chức học theo nhóm, có đủ cả 3 đối tượng để học sinh giúp đỡ lẫn nhau. Tôi luôn quan tâm đến việc phát huy vai trò của Hội đồng tự quản; quan tâm đến việc chia nhóm, thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và thay đổi chỗ ngồi của từng học sinh để để các em có điều kiện được hợp tác lần lượt với tất cả các bạn trong lớp. Trong quá trình các em hợp tác trong nhóm để hoàn thành yêu cầu của bài học đề ra, giáo viên quan sát theo dõi để giúp đỡ, bồi dưỡng cho những học sinh còn rụt rè, còn ỉ lại. Thông qua những nội dung bài học, kết quả thảo luận của nhóm. Vi dụ : Khi dạy bài 16A ( tiết 1). Qua bài tập đọc: Kéo co Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 10 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt Cho học sinh nhận xét về cách chơi kéo co của làng Hữu Trấp và làng Tích Sơn đồng thời nêu câu hỏi: - Để thực hiện được trò chơi đó mọi người trong mỗi đội phải như thế nào? Học sinh sẽ trả lời : Phải cố gắng hết sức, phải biết phối hợp ăn ý với nhau,… - Qua bài đọc em rút ra được điều gì cho bản thân trong cuộc sống hàng ngày? Học sinh sẽ trả lời: Cần phải biết hợp tác với mọi người để làm tốt công việc. * Thực hành kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giao tiếp. Với lớp học VNEN học sinh thường xuyên được thực hành giao tiếp trong tất cả các tiết học. Chính vì vậy, khả năng giao tiếp của các em ngày càng được hoàn thiện. Tôi luôn tổ chức các giờ học một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái nên việc “giao tiếp” của các em diễn ra trong tiết học sẽ trôi chảy, mạch lạc, làm cho người nghe cảm thấy thích thú, thoải mái, hài lòng. Với hình thức này một số em giao tiếp tạm được và chưa được sẽ bình tĩnh, tự tin và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. Ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn, dẫn đến phát huy được khả năng giao tiếp của mình. Dạy học theo nhóm giúp cho học sinh phát triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đông, nhằm giúp cho các em tự tin khi giao tiếp. Khi học sinh trả lời câu hỏi chưa đầy đủ ý và khúc chiết gãy gọn tôi hướng dẫn cho các em nói lại, đặc biệt không nói thay học sinh. Qua nội dnng các bài học như: Bài tập đọc: Thư thăm bạn, Người ăn xin hay bài Tập làm văn Viết thư, Luyện từ và câu: Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi, Thưa chuyện với mẹ,…tôi thường cho học sinh nhận xét về cách giáo tiếp và thái độ giao tiếp của nhân vật trong bài đọc, trong các ví dụ. Từ đó giúp các em học tập kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giáo tiếp. Ví dụ: Khi dạy bài: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị” tiết Luyện từ và câu: bản thân cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi : “Theo em, như thể nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu cầu đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình. * Thể hiện sự thông cảm và chia sẻ Thông qua các bài học như: Bài tập đọc Thư thăm bạn, Người ăn xin, Mẹ ốm, Đôi dày ba ta màu xanh, Dế Mèn bênh vực kẻ yếu. Sau mỗi bài học tôi thường cho học sinh tự nói về sự thông cảm, chia sẻ và giúp đỡ người khác của các nhân vật trong bài. Từ đó giúp học sinh hiểu được cần phải biết quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ. * Kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích phán đoán, tư duy phê phán Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 11 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt Qua tiết tiết học, bài có nội dung liên quan đến Kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích phán đoán, tư duy phê phán như tiết Tập làm văn Tả ngoại hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện; hay trong bài 17 B: Một phát minh nho nhỏ, qua bài Tập đọc Một người chính trự… Cho học sinh nhận xét về tính cách, cách xử lý tình huống của nhân vật, qua đó liên hệ giáo dục kỹ năng kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin - tư duy sáng tạo, tư duy phê phán. * Xác định nhiệm vụ của bản thân, đảm nhận trách nhiệm - Tự nhận thức về bản thân. Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc “Chuyện cổ tích về loài người”). Giáo viên đă tô những câu hỏi gợi mở như: Trong “câu chuyện cổ tích” này, ai là người được sinh ra đầu tiên? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay mặt trời? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay người mẹ? Bố giúp trẻ những gì? Thầy giáo giúp trẻ những gì?…. c. Xây dựng góc Tiếng Việt Góc Tiếng Việt vừa là nơi để các em chia sẻ, học tập lẫn nhau và cũng là nơi các em chiếm lĩnh và hình thành kĩ năng Tiếng Việt. Trưng bày những bài làm tốt của học sinh cũng là một hình thức tuyên dương, khen ngợi các em và việc định hướng cho các em tự trang trí nhằm phát huy kĩ năng thực hành của học sinh, khích lệ tinh thần sáng tạo của học sinh… Giáo viên gợi ý cho học sinh trình bày những nội dung phù hợp với góc môn học này tùy theo khả năng của các em như các nội dung: phần nét chữ nết người (trưng bày những bài viết chữ đẹp của các bạn trong lớp hay bài viết đẹp các em sưu tầm được); phần lời hay ý đẹp (trưng bày những bài viết văn viết hay, sáng tạo của các bạn trong lớp); phần sưu tầm ( các em trưng bày những bài ca dao, những câu tục ngữ, mẫu chuyện vui hay những câu chuyện …thể hiện nội dung chủ điểm môn Tiếng Việt các em đang học – nội dung phần này thường xuyên thay đổi theo chủ điểm môn học) Giáo viên cũng cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyê nô cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyê ôn đạo đức cho các em, giúp các em hoàn thiê ôn mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con người.Tạo hứng thú cho các em qua các truyê nô bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày. Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác động viên, khen tuyên dương sinh kịp thời.Để Các em vui và hãnh diện khi được cô giáo tuyên dương. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần quà mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 12 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. d. Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiê ên dạy các em các kĩ năng sống cơ bản Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều kiê ôn tốt nhất cho các em vui chơi. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động. Đồng thời giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó. Tóm lại: Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng bồi dưỡng cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kỹ năng làm việc theo nhóm; biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất… Đây là kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể. 3.2. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Để thực hiện được giải pháp, biện pháp nêu trên cần phải có những điều kiện nhất định. Giáo viên phải thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em mô ôt cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. Tăng cường mối quan hệ Gia đình, Nhà trường và Xã hội; tăng cường hiểu biết về giáo dục, về phương pháp giáo dục con trẻ của phụ huynh học sinh. Kết hợp tốt mối quan hệ Gia đình – Nhà trường và Xã hội, nhằm giáo dục toàn diện học sinh có hiệu quả cao hơn. Có tâm huyết với nghề nghiệp, yêu nghề, mến trẻ, có năng lực, nhiệt tình sẵn sàng tất vả vì học sinh thân yêu. - Nắm vững tâm sinh lý học sinh Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 13 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt - Thường xuyên học tập để nâng cao trình độ, trau dồi kinh nghiệm và kỹ năng sống cho bản thân. - Thường xuyên giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh, tổ chức các hoạt động vui chơi, rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khoẻ. 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề trong sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt ”, đã được thực hiện rất thành công tại lớp 4A trong các năm học 2014 2015 thuộc trường Tiểu học Hà Huy Tập, huyện Krông Ana. Các biện pháp có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ tích cực cho nhau trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả thực sự cao, khi thực hiện cần áp dụng đầy đủ, triệt để các biện pháp trên. 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiêm cứu Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ, kết hợp của Ban giám hiệu nhà trường, tập thể giáo viên trường, đồng nghiệp, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, bản thân đã mạnh dạn áp dụng đầy đủ các biện pháp nêu trên tại lớp học thì chất lượng hai mặt giáo dục học sinh tăng hẳn và kỹ năng sống của học sinh cũng được tăng lên rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau: Trước khi áp dụng đề tài: Mức độ Mức độ Mức Mức độ Mức độ Các hành vi đổi mới của rất trung độ rất thấp cao thấp bình cao học sinh quan sát được 3/19 5/19 8/19 3/19 0/19 Biết hợp tác tốt trong nhóm (15,8%) (26,3%) (42,1%) (15,8%) (0%) Giải quyết mâu thuẫn một 1/19 5/19 11/19 2/19 0/19 cách hòa bình (5,3%) (26,3%) (57,9%) (10,5%) (0%) Có kỹ năng giao tiếp tốt, thành công trong các cuộc 4/19 9/19 5/19 1/19 0/19 tranh luận, hùng biện, thuyết (21%) (47,3%) (26,3%) (5,3%) (0%) phục người khác Biết biểu lộ sự tôn trọng người khác và thể hiện sự 2/19 7/19 6/19 3/19 1/19 thông cảm quan tâm và chia (10,5%) (36,8%) (31,6%) (15,8%) (5,3%) sẻ với người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ. Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 14 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc bồi dưỡng kĩ năng sống cơ bản cho học sinh thể hiện ở các kết quả sau: Sau khi áp dụng đề tài: Các hành vi đổi mới của học sinh quan sát được Biết hợp tác tốt trong nhóm Giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình Có kỹ năng giao tiếp tốt, thành công trong các cuộc tranh luận, hùng biện, thuyết phục người khác Biết biểu lộ sự tôn trọng người khác va thể hiện sự thống cảm quan tâm và chia sẻ với người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ. Mức độ Mức độ rất thấp thấp 0/19 0/19 Mức độ trung bình 9/19 (47,3%) 9/19 (47,3%) Mức độ cao Mức độ rất cao 6/19 (31,6%) 6/19 (31,6%) 4/19 (21%) 4/19 (21%) 0/19 0/19 0/19 2/19 (10,5%) 8/19 (42,1%) 7/19 (36,8%) 2/19 (10,5%) 0/19 0/19 0/19 11/19 (57,9%) 8/19 (42,1%) - Mặc dù kết quả đạt được còn khiêm tốn nhưng đây là bước chuyển vượt bậc đối với học sinh vùng khó khăn. Điều này chứng tỏ đề tài mà tôi đang thực hiện đã góp phần từng bước hoàn thiện hơn về công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Thông qua khảo nghiệm, giúp giáo viên nắm bắt được một cách chính xác thực trạng của vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý nhất nhằm giải quyết vấn đề, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các giải pháp để có những điều chỉnh hợp lý trong quá trình thực hiện. Việc phát triển đề tài và áp dụng hiệu quả đối với các đối tượng học sinh tại đơn vị trường Tiểu học Hà Huy Tập đã thu được kết quả rất đáng khích lệ và thực sự có ý nghĩa khoa học, giá trị về kỹ năng sống của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt, các em ngày càng chăm ngoan. Tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện. Học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiê ôn khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng đô nô g, mạnh dạn, tự tin; được rèn luyê nô khả năng sẵn sàng học tâ pô với hiệu quả ngày càng cao. học sinh có thói quen lao đô nô g tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự lập; kĩ năng nhận thức; kĩ năng vâ ôn động nhỏ, vâ ôn đô nô g tinh thông qua các hoạt đô nô g hàng ngày trong cuộc sống của học sinh; Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 15 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt Ngoài ra học sinh được rèn kĩ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt đô nô g năng khiếu vẽ, thể dục , và các môn học khác. Trẻ được rèn luyện kĩ năng xã hội; kĩ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình. Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến . Đặc biệt về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác với các bạn trong nhóm để hoàn thành mục tiêu bài học, ý thức tự quản của học sinh lớp tôi, luôn được BGH nhà trường, tập thể giáo viên cũng như những lần sinh hoạt Cụm VNEN các giáo viên trường bạn đến dự giờ thăm lớp đánh gia cao. III. Phần kết luân, kiến nghị 1. Kết luận Việc cung cấp cho các em kiến thức trong sách Hướng dẫn học là rất quan trọng, làm nền tảng để các em học lên các lớp trên. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là phải có biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục theo yêu cầu của xã hội. Giáo dục kĩ năng sống nhằm tạo cho học sinh một sân chơi bổ ích, phát huy tính tự giác, tính tích cực. Hơn nữa phát huy được năng lực sở trường của mỗi cá nhân học sinh và phát huy tinh thần phê và tự phê cao. Góp phần thúc đẩy phong trào thi đua của trường, của lớp. Đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện học sinh tích cực”, tạo cho các em sự tự tin, có cảm giác được chia sẻ và bày tỏ những điều em muốn nói. Đây cũng là đề tài giúp giáo viên có cơ hội nghiên cứu, tổ chức các hoạt động dạy học phong phú, đa dạng, hiệu quả hơn. Giúp các em tham gia học tập và sinh hoạt một cách hứng thú, nhiệt tình, sôi nổi. Qua thực tế giảng dạy bản thân tôi thấy, để bồi dưỡng cho các em có kĩ năng sống tốt thì đòi hỏi người giáo viên và học sinh phải có một số yêu cầu sau: a. Đối với giáo viên Người giáo viên phải có kĩ năng sống tốt trong các tình huống. Phải nắm được nguyên tắc giao tiếp sư phạm như: Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp, có niềm tin trong giao tiếp, nhạy bén và đồng cảm trong giao tiếp. Phải mẫu mực ở mọi lúc, mọi nơi, kỹ năng ứng xử với bạn bè, đồng nghiệp, phụ huynh học sinh, xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Nắm bắt được tâm sinh lý và khả năng của từng em để có biện pháp bồi dưỡng đúng đắn. Chịu khó tìm tòi học hỏi và đặc biệt phải có lòng yêu nghề, mến trẻ. Không chỉ dạy cho học sinh biết về lí thuyết mà giáo viên phải giúp các em có kĩ năng sống trong thực tế hàng ngày. b. Đối với học sinh : - Tích cực tham gia học tập, có thái độ học tập đúng đắn. Thông qua phương pháp dạy học của thầy cô, biết lựa chọn vận dụng vào thực tế những kỹ năng sống Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 16 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt đã được bồi dưỡng. - Phải thường xuyên rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử; - Áp dụng kiến thức đã học như bài tập đọc, kể chuyện, luyện từ và câu, tập làm văn phục vụ cho việc giao tiếp, ứng xử vào cuộc sống hàng ngày. - Mạnh dạn, tự tin giải quyết các vân đề . * Trong “ Mục tiêu giáo dục tiểu học” có đưa phần mục tiêu rèn luyện nhân cách lên hàng đầu. Vì vậy việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết. Đối với mỗi giáo viên, việc “ Dạy chữ- Dạy người” là hai mục tiêu quan trọng đi đôi với nhau nhằm giúp chúng ta đào tạo những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh lịch sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội. 2. Kiến nghị Trước thực tế giảng dạy trong nhiều năm qua, với tư cách là một giáo viên tiểu học, tôi xin mạnh dạn đưa ra ý kiến đề xuất sau: - Người lớn trong gia đình cần phải quan tâm, uốn nắn lời ăn tiếng nói cho con em mình ngay từ nhỏ. Như tục ngữ đã dạy “ Uốn cây từ thuở còn non” ; “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”. - Gia đình, nhà trường và xã hội cần giáo dục trẻ ngay từ những thói quen trong giao tiếp như mạnh dạn, tự tin, văn minh lịch sự , thể hiện tác phong tư cách đạo đức của người có văn hóa. - Giáo viên cần dành nhiều thời gian hơn cho việc “ Dạy người” , tăng cường hiệu quả công tác chủ nhiệm, gần gũi học sinh và đặc biệt là trau dồi ngôn ngữ và vốn sống thực tế. Để người giáo có điều kiện tốt hơn trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, mong rằng các cấp ngành giáo dục hằng năm tổ chức các lớp tập huấn về Giáo dục kỹ năng sống cho giáo viên các cấp học nói chung và giáo viên cấp Tiểu học nói riêng. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, phát triển và vận dụng, trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Mặc dù đã có nhiều chuyển biến về giá tri kỹ năng sống của học sinh, khi tôi vận dụng đề tài nhưng không thể trách khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong sự đóng góp ý của quý thầy cô để đề tài đạt được hiệu quả cao hơn bổ sung cho đề tài được hoàn thiện hơn, để bản thân người viết có thêm điều kiện để có thể tiếp tục mở rộng, nghiên cứu về đề tài trong thời gian tới. Dray Sáp, ngày 20 tháng3 năm 2016 Người viết Nguyễn Thị Ngọc Mỹ Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 17 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt Nhận xét của hội đồng chấm SKKN ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Chủ tịch Hội đồng chấm SKKN ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 18 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật giáo dục tiểu học 2. Điều lệ trường Tiểu học 3. Điều lệ Hội cha mẹ học sinh 4. Quy định về chuẩn giáo viên Tiểu học 5. Một số văn bản chỉ đạo của ngành giáo dục, của phòng giáo dục và đào tạo 6. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học – Lớp 4 (Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam) 7. Tài liệu tập huấn Giáo dục kĩ năng sống (Bộ giáo dục và đào tạo Bộ giáo dục và đào tạo) 8.Hướng dẫn học Tiếng Việt 4 (Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam) ---------------------------------- Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 19 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Mỹ - Trường TH Hà Huy Tập 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan