Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số biện pháp để nâng cao hiệu quả chủ nhiệm lớp 10 ở trường thpt thừa l...

Tài liệu Skkn một số biện pháp để nâng cao hiệu quả chủ nhiệm lớp 10 ở trường thpt thừa lưu

.DOC
24
1
86

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm MỤC LỤC 1. Đặt vấn đề…………………………………………………………...….Trang 2 1.1 Lý do chọn đề tài ……………………………………………..………Trang 2 1.2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và phương pháp, thời gian nghiên cứu về sáng kiến kinh nghiệm………………………………………….....Trang 4 2. Giải quyết vấn đề………………………………………..……………...Trang 6 2.1.Thực trạng………………………………………………………...…..Trang 6 2.2.Các giải pháp……………………………………………………..…...Trang 8 2.3. Hiệu quả của một số biện pháp trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp 10 ở Trường THPT Thừa Lưu ………………………………….….……Trang 18 3. Kết luận……………………………………………………...……......Trang 19 3.1.Tóm lược giải pháp…………………………………………...……..Trang 20 3.2. Phạm vi áp dụng………………………………........................……Trang 20 3.3. Kiến nghị………………………..………………………………..…Trang 21 * Tài liệu tham khảo…………………………………………………….Trang 22 GV: Huỳnh Thị Kim Ân -1- Sáng kiến kinh nghiệm MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỦ NHIỆM LỚP 10 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THỪA LƯU 1. Đặt vấn đề: 1.1 Lý do chọn đề tài : 1.1.1.Cơ sở lý luận: Trước tình hình đổi mới của đất nước, vấn đề phát huy tính tích cực trong học tập cũng như hoạt động của học sinh là một trong những phương hướng cải cách giáo dục nhằm tạo ra những con người lao động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước - có cả đức lẫn tài. Bởi “ Có đức mà không có tài- làm việc gì cũng khó.Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Thật vậy, song song với việc dạy chữ cho các em , chúng ta cần hết sức quan tâm đến việc dạy người. Vì đây là sự nghiệp giáo dục của toàn Đảng, toàn dân mà trong đó ngành sư phạm giữ vai trò then chốt.Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được thành lập để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Để quản lí lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) được hiệu trưởng lựa chọn từ những giáo viên có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín với học sinh, được Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân công chủ nhiệm lớp học để thực hiện mục tiêu giáo dục. Như vậy khi nói đến GVCN là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói đến công tác chủ nhiệm lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người GVCN phải làm, cần làm và nên làm. Đối với giáo dục phổ thông, người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GVCN trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Giáo viên chủ nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh. Mặt khác, GVCN còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục,... Có thể nói vai trò xã hội của người giáo viên chủ nhiệm trở nên lớn hơn nhiều so với chức năng của người giảng dạy bộ môn. Xác định rõ vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp, trong những năm qua, Trường THPT Thừa Lưu nói riêng và các nhà trường nói chung đã quan GV: Huỳnh Thị Kim Ân -2- Sáng kiến kinh nghiệm tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên để có một giải pháp tối ưu cũng như hiệu quả của hoạt động chủ nhiệm lại là vấn đề chúng ta cần trao đổi. Là một giáo viên đã nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, với chút ít kinh nghiệm tích luỹ được qua thực tế công việc, tôi xin được trao đổi cùng các đồng nghiệp về Công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông với mong muốn nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp, góp phần cùng nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn hiện nay ở trường THPT Thừa Lưu, công tác chủ nhiệm được Ban giám hiệu chú trọng và quan tâm, có lập riêng một tổ gọi là tổ chủ nhiệm, khối 10 do cô Hồ Thị Xuân Hương làm khối trưởng, khối 11 do thầy Nguyễn Kháng làm khối trưởng, khối 12 do thầy Trần Thanh Hảo làm khối trưởng, hàng tháng đều sinh hoạt và có thể họp đột xuất nếu cần thiết, mục đích là cùng nhau tháo gỡ khó khăn của lớp, chia sẻ kinh nghiệm, tạo nên sự dân chủ. Nói đến chương trình hoạt động cụ thể của công tác chủ nhiệm thì Bộ, Sở có mở lớp bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm cho dội ngũ giáo viên làm công tác chủ nhiệm vào năm 2011 nhưng chưa đáng kể. Họ chỉ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng những kinh nghiệm vốn có để quản lí giáo dục học sinh. Đối với giáo viên vừa mới ra trường được phân công làm GVCN thì chắc hẳn họ sẽ rất lúng túng, trăn trở, thậm chí có những tình huống sư phạm không biết xử lí như thế nào cho hợp lí. Để làm tốt vai trò, vị trí làm cầu nối giữa học sinh, phụ huynh, nhà trường quả không phải là dễ. Xuất phát từ cơ sở lý luận và yêu cầu thực tiễn trên; tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả chủ nhiệm lớp 10 ở trường THPT Thừa Lưu” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình nhằm đóng góp một chút kinh nghiệm giúp GVCN nói chung, GVCN lớp 10 nói riêng làm tốt hơn công tác chủ nhiệm lớp của mình. Đầu năm học này tôi được Ban giám hiệu phân công chủ nhiệm lớp 10B10, khi tiếp nhận tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi: - Đa số các em ngoan, có ý thức học tập và rèn luyện sẵn sàng vượt qua khó khăn. - HS ý thức xây dựng tập thể đoàn kết. - Giáo viên chủ nhiệm, Ban giám hiệu, cah mẹ học sinh, giáo viên bộ môn luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục học sinh. - Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất ,phòng học thoáng mát. - Ngoài công tác chủ nhiệm lớp, tôi còn giảng dạy môn Toán nên thời gian gần gủi các em tương đối nhiều. GV: Huỳnh Thị Kim Ân -3- Sáng kiến kinh nghiệm * Khó khăn: - Sự hiểu biết giữa giáo viên và học sinh chưa có, giáo viên phải mất một khoảng thời gian nhất định để tìm hiểu các em . - Cần thời gian để giúp các em ở các lớp khác nhau hoà đồng tạo sự gắn kết cho một tập thể mới ( bởi rất nhiều em có tư tưởng chưa ổn định chuyển lớp để được gần bạn gần bè cũ, tạo nên phe phái của các lớp khác nhau ) mà một tập thể không đoàn kết thì mọi hoạt động không mang lại hiểu quả cao . - Học sinh có học lực yếu chiếm đa số đây là điều trăn trở của GVCN khi nghĩ tới cuối năm sẽ như thế nào . - Nhiều em có hoàn cảnh khó khăn : thiếu thốn tình cảm và sự quan tâm của gia đình : Duyên, Lợi,… - Học sinh nhà ở xa trường phải ở trọ, nên thiếu sự quản lý sát sao của gia đình; việc đi lại để liên hệ với cha mẹ học sinh cũng không thuận lợi: Thắm, Dương, Hồng, Đệ, Minh. - Học sinh ở nhiều xã khác nhau ( Lộc Tiến, Lộc Vĩnh, Lộc Thủy, Thị Trấn Lăng Cô) - Vẫn còn 1 số học sinh cá biệt chưa có ý thức trong học tập và rèn luyện. Để có được những kết quả tốt cho lớp của mình tôi cố gắng học hỏi kinh nghiệm của GV đi trước và bạn bè đồng nghiệp, cũng mạnh dạn viết nên một số suy nghĩ, biện pháp trong quá trình được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp 10. 1.2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và phương pháp, thời gian nghiên cứu về sáng kiến kinh nghiệm. 1.2.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò, nhiệm vụ của GVCN lớp đối với công tác giáo dục học sinh để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh và góp phần hoàn thiện nhân cách học sinh lớp 10 ở trường THPT. Đối với Giáo viên chủ nhiệm: - GVCN phải có tình cảm yêu thương học sinh, coi học sinh như người thân trong gia đình, tạo chỗ dựa, niềm tin vững chắc đưa đến học sinh dễ giải bày dễ chia sẻ mọi nỗi niềm của các em. Đối với học sinh: - Thấy được những việc nên làm, không nên làm. - Học tập cách giao tiếp, cư xử với mọi người xung quanh. - Tự giác trong học tập và rèn luyện nhân cách HS, biết giúp đỡ bạn bè và mọi người xung quanh, có ý thức bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp. - Người học phải cảm nhận GVCN như người cha, người mẹ thứ hai của mình. GV: Huỳnh Thị Kim Ân -4- Sáng kiến kinh nghiệm - Mục tiêu tốt nghiệp THPT và vào các trường Đại học, cao đẳng chuyên nghiệp theo khả năng và năng lực của chính mình. 1.2.2.Nhiệm vụ: - Nghiên cứu lý luận về GVCN lớp để thể hiện vai trò của mình như thế nào trong công tác giáo dục học sinh, kết quả đạt được năm sau phải cao hơn năm trước. - Tạo nên sự thân thiện giữa GVCN và HS 10. - Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh 10. 1.2.3. Khách thể , đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể: Thực trạng và giải pháp cho vai trò của chủ nhiệm lớp 10 trong công tác giáo dục học sinh. Đối tượng: Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp 10 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài “Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả chủ nhiệm lớp 10 ở trường THPT Thừa Lưu” Là học sinh lớp 10b10 năm học 2012-2013 1.2.4. Phương pháp nghiên cứu: 1.2.4.1. phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục học sinh 10, các bài tham luận trên Internet, một số sáng kiến có nói tới công tác GVCN. Điều tra tình hình lớp, trước khi nhận lớp ( hồ sơ). 1.2.4.2.Phương pháp điều tra: Điều tra hồ sơ lớp 9 Trò chuyện, trao đổi với giáo viên bộ môn, với học sinh, với Hội cha mẹ học sinh, bạn bè. Lập mẫu sơ yếu lý lịch để học sinh tự điền theo mẫu. Thông qua phương pháp này GVCN nắm rõ hơn tâm lý, tính cách của từng học sinh, rõ về học tập của từng em để tham mưu cho các giáo viên bộ môn, phối hợp với cha mẹ học sinh được tốt hơn. 1.2.4.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những báo cáo tổng kết hàng năm của nhà trường. Tham khảo kinh nghiệm giáo viên trường bạn, trường mình. Từ kinh nghiệm của chính bản thân qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp. GV: Huỳnh Thị Kim Ân -5- Sáng kiến kinh nghiệm 1.2.5.Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013. 2. Giải quyết vấn đề 2.1.Thực trạng: Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại không ít những thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Mô hình ít con, kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn. Sự phối kết hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt chẽ. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều công nghệ kinh doanh chỉ chú ý đến lợi nhuận. Hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo lực thu hút học sinh. Vì thế, hiện tượng trốn tiết, giấu tiền học phí để chơi game là điều không tránh khỏi. Không những thế, hậu quả do những tác động của những trò chơi nguy hiểm này dẫn đến các hành vi bạo lực khôn lường. Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với GVCN trong 3 buổi họp phụ huynh trong một năm học, còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết. Trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo. GV: Huỳnh Thị Kim Ân -6- Sáng kiến kinh nghiệm Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không nhiều GVCN thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều. Đó là khó khăn về mặt khách quan gây cản trở cho những người làm công tác chủ nhiệm lớp. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô chủ nhiệm và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung. 2.1.1. Những phẩm chất chủ yếu của giáo viên chủ nhiệm - GVCN phải có nhân cách toàn vẹn thể hiện qua việc nhận thức, có thái độ và hành vi cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội và phát huy truyền thống đạo đức của dân tộc ( hiếu học , trọng đạo , tôn sư). - Có lòng nhân ái , nhất là đối với học sinh, người già, trẻ em, người thiệt thòi bất hạnh… - Yêu nghề, say sưa với công tác giáo dục. - Có tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng cao, có lương tâm nghề nghiệp vững vàng. - Khiêm tốn, cầu tiến, tích cực tự hoàn thiện không ngừng. - Mẫu mực, trung thực trong cuộc sống. 2.1.2. Những năng lực sư phạm cần thiết đối với giáo viên chủ nhiệm - Có tầm hiểu biết rộng về văn hoá chung. GV: Huỳnh Thị Kim Ân -7- Sáng kiến kinh nghiệm - Có tri thức sâu sắc , hiện đại về môn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm. - Có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục , dạy học. - Có khả năng thu thập, tích luỹ tri thức, để ngày càng nâng cao hoặc mở rộng tầm hiểu biết của mình. - Có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú và động cơ học tập và rèn luyện học sinh đạo đức ở học sinh. - GVCN cần tự trang bị cho mình nhiều thủ thuật lôi cuốn đa dạng để khi cần có thể tung ra trước học sinh nhằm tạo sự gần gũi , thân mật giữa cô và trò , giữa trò với trò. Có sự thành thạo trong các kỹ năng sư phạm như: + Giao tiếp sư phạm trước đám đông hay đối xử cá biệt . + Biểu lộ và kiềm chế các cảm xúc, tình cảm khi cần thiết. + Diễn đạt, trình bày các vấn đề có logic, tính truyền cảm có thuyết phục của một nhà giáo, tri thức khoa học. + Ứng xử các tình huống sư phạm. + Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo các hoạt động trong công tác chủ nhiệm. 2.1.3. Ý nghĩa của công tác chủ nhiệm lớp: Công tác chủ nhiệm lớp là công tác chiến lược trong nhà trường, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình giáo dục và kết quả đào tạo ở nhà trường. Công tác chủ nhiệm có những ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với học sinh ; ảnh hưởng về mọi mặt chứ không chỉ là về học tập hay đạo đức. Công tác chủ nhiệm lớp rất cần thiết cho lứa tuổi thanh thiếu niên với những đặc điểm sinh lý, trình độ hiểu biết và vốn sống còn hạn chế. Công tác chủ nhiệm lớp sẽ đáp ứng cho nhu cầu có một chỗ dựa tinh thần của học sinh để các em có thể nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ hoặc sự hướng dẫn, chỉ dạy cần thiết kịp thời. 2.2. Các giải pháp Để khắc phục những khó khăn trên trong công tác chủ nhiệm không phải là điều dễ dàng và đơn giản. Tuy nhiên, tôi xin được đưa ra một số giải pháp để các đồng nghiệp cùng chia sẻ. 2.2.1.Tìm hiểu học sinh khi tiếp nhận lớp: Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức việc giáo dục sát với học sinh nhằm thúc đẩy sự tiến bộ chung của cả lớp và của từng học sinh. 2.2.1.1.Vì sao phải tìm hiểu học sinh lớp 9 trước khi vào 10: Học sinh là đối tượng giáo dục của GVCN, có hiểu được đối tượng thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ giáo dục. GV: Huỳnh Thị Kim Ân -8- Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu học sinh về mọi mặt để có những thông tin cần thiết làm cơ sở thực tiễn để phân loại học sinh ,đề ra kế hoạch giáo dục và sử dụng các biện pháp tác động thích hợp. 2.2.1.2.Nội dung tìm hiểu ở học sinh lớp 9: Đặc điểm của học sinh về sức khoẻ lớp, về trình độ học lực năm lớp 9 để phân loại học sinh, tìm hiểu học sinh có năng lực ( ban cán sự lớp ). Tìm hiểu về hoàn cảnh và quan hệ của học sinh với gia đình, và ai là người có ảnh hưởng lớn đến các em. GVCN có thể biết chia sẻ, giúp đỡ học sinh vượt qua hoàn cảnh, và cũng để biết liên hệ với ai dể việc phối hợp giáo dục có hiệu quả. Học sinh 10 là độ tuổi có nhiều biến động trong tâm tư, tình cảm, những vướng mắc từ các mối quan hệ giao lưu, từ sự phát triển cơ thể, từ các nhiệm vụ học tập, rèn luyện, sự định hướng nghề nghiệp trong tương lai …..có thể tạo ra những khó khăn lớn về mặt tâm lý cho các em. 2.2.1.3.Cách tìm hiểu học sinh 10: Điều tra học sinh qua lý lịch tự khai theo mẫu GVCN sẽ thu thập được nhiều thông tin về học sinh. GVCN cần xây dựng nội dung bản lí lịch với những nội dung thích hợp với học sinh 10. Nội dung lý lịch học sinh 10 bao gồm: Họ và tên học sinh ……………………………Nam/ nữ…………….. Ngày tháng năm sinh : Ngày .. tháng….năm Nơi sinh……………………………………Dân tộc…………… Nơi ở hiện nay……..thôn……….xã……………huyện……..tỉnh Hộ khẩu thường trú ở đâu…………………………………… Bằng tốt nghiệp THCS lấy chưa …......... Có chứng chỉ nghề ……………..loại gì…………………….. Con thương binh hạng mấy……., Con liệt sĩ…………con mồ côi….… Gia đình có là hộ nghèo ……………………… Thuộc diện ưu tiên:………. Họ tên cha………………….Năm sinh………nghề nghiệp………. Họ tên mẹ…………………..Năm sinh………nghề nghiệp……… Họ tên người giám hộ…………………………nghề nghiệp………. Gia đình có mấy anh chị em…………………………… Họ tên anh, chị , em hiện đang học tại trường THPT Thừa Lưu Họ và tên ……………………lớp…………….. Đăng ký học lực và hạnh kiểm……….. Số điện thoại liên hệ………………………………… 2.2.2. Ổn định tổ chức lớp học 2.2.2.1. Lựa chọn ban cán sự lớp : * Cơ sở lựa chọn: GV: Huỳnh Thị Kim Ân -9- Sáng kiến kinh nghiệm Căn cứ vào hồ sơ học bạ (chú ý hạnh kiểm , học lực). Căn cứ hiệu quả năng lực , năng khiếu công tác nhiệm vụ ban cán sự năm lớp 9. GVCN chỉ định ban cán sự lâm thời , cho lớp tiến hành đại hội. Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp thông qua bầu dân chủ qua đại hội lớp, đại hội chi đoàn lớp. * Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp: Bước 1 thành lập sơ đồ cơ cấu ban cán sự lớp( Lớp 10B10, 2012 -2013) LỚP TRƯỞNG ( Nam) LỚP PHÓ LP Học tập: (Đức) LP Lao động: (Bão) Tổ 1: Sáu Tổ 2: Nhưng LP Văn Thể Mỹ (Kì Duyên) Tổ 3: Lẹ BÍ THƯ (Thuận) Phó bí thư: Mỹ Duyê n Tổ 4: Hiền Uỷ viên: Dung CHỨC DANH KHÁC Thủ quỹ: Kì Duyê n Giữ sổ đầu bài: Đức Thư ký: Ngân Cờ đỏ: Thắm Bước 2: Giao nhiệm vụ cụ thể Lớp trưởng quản lí, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp dưới sự chỉ đạo của GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp , sinh hoạt lớp cuối tuần , báo cáo mọi hoạt động trực tiếp GVCN. GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 10 - Sáng kiến kinh nghiệm Lớp phó học tập: Lên danh sách học sinh học tốt nhất cho từng bộ môn phân công phụ trách giúp đỡ bạn học yếu hơn, phải là học sinh học tốt, báo cáo việc học tập của học sinh trong lớp, duy trì sinh hoạt 15 phút đầu giờ . Lớp phó lao động: đôn đốc vệ sinh lao động của lớp, trực cờ , mang ghế tiết chào cờ. Học sinh phụ trách văn thể mỹ : phụ trách văn nghệ, giải trí của lớp. Thủ quỹ : Thu các khoản quỹ, thăm hỏi. Thư ký : Ghi chép các phiên họp lớp, biên bản sinh hoạt lớp. Học sinh giữ sổ đầu bài, quản lý, giữ gìn sổ đầu bài buổỉ sáng, buổi chiều, ghi các mục : ngày, học sinh vắng, tên môn học. Bốn tổ trưởng theo dõi mọi hoạt động tổ mình và tổng kết lại cho lớp trưởng ngày thứ sáu. Bí thư : nắm bắt tiếp thu những thông báo, chỉ thị của đoàn trường kịp thời triển khai cho chi đoàn mình thực hiện đầy đủ. Bước 3: GVCN lập sổ theo dõi và giao lại cho từng bộ phận . 2.2.2.2. Lập sơ đồ lớp học: Căn cứ vào học lực của học sinh, chia đều số học sinh trung bình và yếu cho mỗi tổ và xen kẽ nhau. Căn cứ vào tình trạng sức khoẻ : Mắt, cao thấp để xếp ngồi trước, ngồi sau. Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp, cán sự lớp phải có mặt rải khắp các tổ và ở vị trí dễ kiểm soát các thành viên của lớp. Các học sinh hiếu động xếp ở những vị trí tập trung tầm nhìn của giáo viên( Bàn đầu, đầu bàn, đầu dãy). Khi lập bảng sơ đồ cần chú ý: Trong sơ đồ không chỉ nêu tên học sinh theo vị trí chỗ ngồi còn ghi kí hiệu cho chức năng , nhiệm vụ học sinh được giao: Lớp trưởng, lớp phó,… . 2.2.3. Lập kế hoạch chủ nhiệm: 2.2.3.1.Kế hoạch năm: Căn cứ kế hoạch, nhiệm vụ năm học của trường THPT Thừa Lưu. Căn cứ đặc điểm tình hình các lớp 10 ( thuận lợi , khó khăn). Căn cứ vào chủ đề các đợt thi đua của trường, đoàn. Căn cứ các nhiệm vụ công tác chủ nhiệm. Giúp giáo viên chủ nhiệm triển khai đúng hướng, đúng phạm vi trách nhiệm của mình khi lập kế hoạch. 2.2.3.2.Kế hoạch hoạt động tuần, tháng: Sau khi xây dựng kế hoạch hoạt động năm học, GVCN dựa vào đó để xây dựng kế hoạch từng tuần, tháng cần nêu rõ: Nêu những công việc hoạt động trong tuần. Có đối tượng tham gia. Biện pháp thực hiện. GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 11 - Sáng kiến kinh nghiệm Kết quả đạt được. Nhận xét, rút kinh nghiệm. SƠ KẾT HÀNG TUẦN Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Số học sinh đi muộn Số học sinh bỏ tiết Số không chuẩn bị bài Số bị dưới 5 hoặc nhận xét loại: Yếu, kém Mắc thái độ sai Số điểm tốt Số việc tốt Học sinh được khen Học sinh bị phê bình Số tiết trống Số tiết tự quản tốt Xếp loại cả lớp 2.2.4. Phối hợp thống nhất biện pháp giáo dục học sinh với các giáo viên bộ môn và cán bộ đoàn , với gia đình học sinh, với Ban giám hiệu: 2.2.4.1. Phối hợp với Ban giám hiệu: GVCN lấy chủ trương hoạt động của nhà trường do Ban giám hiệu cung cấp để lên kế hoạch hoạt động lớp mình, chịu trách nhiệm truyền đạt cho cha mẹ học sinh và học sinh về chủ trương của trường , Sở… Báo cáo thường xuyên với Ban giám hiệu về tình hình của lớp thường xuyên theo định kì, hoặc đột xuất khi có vấn đề cần giải quyết. Căn cứ vào Thông tư 58/2011/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục đào tạo, đánh giá xếp loại hai mặt của học sinh. Căn cứ vào biểu quyết của tập thể lớp, giáo viên chủ nhiệm họp và bình bầu xét thi đua đề nghị nhà trường khen thưởng cho những học sinh có thành tích trong học tập và trong hoạt động đảm bảo tính công bằng, dân chủ có sức thuyết phục đối với học sinh. Đồng thời kỷ luật những học sinh không tiến bộ và mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Khen trước lớp trong giờ sinh hoạt: Những học sinh có những biểu hiện tốt về hành vi đạo đức, học tập và các hoạt động văn thể mỹ. GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 12 - Sáng kiến kinh nghiệm Khiển trách trước lớp: Những em vi phạm ở mức độ nhẹ như: Nói tục, chửi thề, nghỉ học không phép. Khiển trách trước toàn trường: Do Ban giám hiệu quyết định, những học sinh vi phạm nhiều lần. Cảnh cáo trước toàn trường: Những học sinh có hành vi vô lễ với thầy cô, đánh nhau trong và ngoài nhà trường, phá hoại tài sản công, gian lận trong thi cử. Khen thưởng trước toàn trường: Do Ban giám hiệu nhà trường, hội khuyến học, ban đại diện cha mẹ học sinh…. Biểu dương và tặng giấy khen. Khen thưởng đặc biệt: Những học sinh có thành tích cao ở Hội khỏe Phù Đổng, các cuộc thi do Đoàn trường tổ chức. 2.2.4.2.Với các giáo viên bộ môn: Thống nhất kế hoạch và chương trình giáo dục chung đối với cả lớp. Thống nhất hình thức và biện pháp tác động đối với học sinh , học sinh bỏ tiết, nghỉ phụ đạo không phép nhiều lần, điều hoà những biện pháp tác động giữa các giáo viên với học sinh. Phản ánh, trao đổi kịp thời những mong muốn của học sinh đến giáo viên bộ môn, ngược lại GVCN cung cấp danh sách học sinh yếu môn học nào đó ở lớp dưới. 2.2.4.3.Với Ban chấp hành Đoàn: Giúp cán bộ đoàn phát hiện những thanh niên ưu tú để giới thiệu kết nạp. Giúp cán bộ đoàn đôn đốc nề nếp và các khoản quỹ, các hoạt động đoàn. Phối hợp với đoàn trường xử lý học sinh vi phạm nội qui nhà trường. 2.2.4.4.Phối hợp chặt chẽ với gia đình HS: GVCN phải có chương trình họp cụ thể, dựa trên kế hoạch của trường, vận dụng vào lớp đang chủ nhiệm. Thông qua hội cha mẹ học sinh phổ biến các chủ trương, đường lối giáo dục chung . Vận động cha mẹ tạo điều kiện, phương tiện, thời gian để các em học tập. Nhắc nhở cha mẹ theo dõi sự phát triển của con em, hiểu con, thống nhất với nhà trường về mục đích, nội dung , phương pháp giáo dục. Thường xuyên liên hệ với gia đình những học sinh chậm tiến , có vấn đề để đưa ra biện pháp giáo dục thích hợp. Tuyên truyền việc đóng các khoản theo qui định. Yêu cầu cha mẹ học sinh ghi số điện thoại của mình để GVCN tiện liên hệ. Giới thiệu và bầu ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp bao gồm 5 phụ huynh có tinh thần ủng hộ sẵn sàng giúp đỡ, nhiệt tình có trách nhiệm, có khả năng với chức năng được bầu. 2.2.5.Giáo dục học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm: Bước 1: GVCN giao cho Lớp trưởng chủ trì buổi sinh hoạt GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 13 - Sáng kiến kinh nghiệm Bắt đầu bằng bài hát tập thể do văn thể mỹ bắt, sau đó bỏ tiền vào nuôi heo đất giúp bạn khó khăn trong lớp (học tập tính tiết kiệm của Chủ Tịch Hồ chí Minh) kể mẩu chuyện về Bác Hồ , rút bài học cho lớp. Các tổ trưởng chia bảng làm 4 tương ứng với mỗi tổ một ô ghi tóm tắt kết quả rèn luyện nề nếp, học tập của các thành viên trong tổ. Tổ khác nhận xét. Lớp trưởng, lớp phó lần lượt nhận xét chung. Bí thư sơ kết hoạt động đoàn thể lớp và thông báo phát động của đoàn trường. Xếp loại tổ khen tổ làm tốt và phạt lao động tổ vi phạm nhiều nhất, theo nghị quyết đầu năm. Bí thư sơ kết hoạt động đoàn thể lớp và thông báo phát động của đoàn trường. Bước 2: Lấy ý kiến , nguyện vọng của học sinh Bước 3: GVCN thông qua sổ đầu bài, các giáo viên bộ môn, kết quả theo dõi của cán sự lớp, Tôi nhận xét đánh giá mặt được, chưa được của từng học sinh, khen những em làm tốt và nghiêm khắc với học sinh vi phạm, định hướng tuần tiếp theo. Đồng thời luôn nhắc nhở và động viên các em tạo động lực giúp cả lớp cố gắng hơn ở những tuần tiếp theo. GVCN phải thực sự gắn bó, quan tâm tới lớp tìm nguyên nhân học sinh vi phạm để xử lí hợp tình, hợp lí. Nhiều lúc tôi lại dành thời gian nhận xét chỉ thông qua câu chuyện khi liên hệ thì sẽ có những điểm liên quan tới lớp chủ nhiệm, hoặc ngay cả những gì tôi đã trải qua và thấy được trong cuộc sống mục đích cuối cùng là để các em tự giác nhận thức và hình thành nhân cách ngày một hoàn thiện hơn . Bước 4 . Thư kí lớp sẽ lên đọc biên bản sinh hoạt lớp chủ nhiệm Qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, Các em sẽ tự tin giám nói, giám nhận khuyết điểm và có chiều hướng mong muốn được sửa sai. 2.2.6. Biện pháp thực hiện nhằm giáo dục học sinh cá biệt, tránh tình trạng học sinh bỏ học : 2.2.6.1.Thực trạng: Hầu như trường nào, lớp nào cũng đều có học sinh đặc biệt ( là những học sinh chưa ngoan lắm hay bỏ tiết, nghỉ học không phép, vi phạm nội qui nhà trường hoặc có hoàn cảnh đặc biệt) .Tôi không muốn sử dụng từ học sinh cá biệt bởi ai cũng có những ưu khuyết điểm, biết cách loại bỏ nó thì tất yếu sẽ trở nên tốt hơn. Thực ra những học sinh chưa ngoan thường gây không ít khó khăn cho GVCN, ảnh hưởng lớn đến kết quả thi đua của lớp, nhiều khi khiến cho GVCN cảm thấy mệt mỏi thậm chí buông xuôi vì nói hoài mà các em không chuyển biến, càng phạt, càng lì, chống đối ngầm, cố tình quậy hơn. Lớp 10B10 có nhiều học sinh chưa ngoan, học yếu ham chơi: Huy, Đức, Bão, Lợi. 2.2.6.2.Tìm hiểu nguyên nhân: GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 14 - Sáng kiến kinh nghiệm Không phải tự nhiên bản chất sinh ra của các em có những hành vi, hành động thiếu đi tính văn hoá, thiếu đi cái chuẩn mực của đạo đức , hay có những hành động chưa đúng.lời nói chưa đẹp. Là một GVCN tôi cố tìm ra những nguyên nhân. Bởi đôi khi sự cá biệt đó lại do cha mẹ các em tạo nên, Cha mẹ không hoà thuận, chia tay , cha mẹ không quan tâm, chỉ biết chu cấp tiền bạc cho con. Đó là kết quả của các vết thương tâm lí và sự vô tình của người lớn chúng ta đã gieo vào suy nghĩ lệch lạc dẫn đến các em mang theo nó đến trường, lớp. Khi GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng học sinh với mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục học sinh cho các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu, có phụ huynh bực tức đánh con trước mặt giáo viên và đưa con về, điều đó cho thấy chính phụ huynh đã bất lực với con mình. Vì thế chính các em là nạn nhân của cách giáo dục của gia đình. Có những trường hợp các em bị sa ngã khi không cưỡng lại được những ham muốn, cám dỗ của môi trường xã hội. Đôi khi các em có bạn khác giới nếu không được giáo dục đúng thì cũng dễ sa đà để lại hậu quả không tốt. Học sinh bỏ học, do em học kém, ham chơi cảm thấy chán, do hoàn cảnh gia đình khó khăn. 2.2.6.3.Giải pháp: Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu , chưa ngoan tôi tìm hiểu nguyên nhân, đặt ra câu hỏi cho mình; Vì sao học sinh lại hành động như vậy? Gần gúi các em nhiều hơn.Phải biết lắng nghe, thấu hiểu điều các em nói. Thuyết phục bằng lời nói rõ ràng, dứt khoát, có lý, bằng tình cảm và nguyên tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh như: Giành thời gian trò chuyện nói về học tập, về cuộc sống, nêu gương ( bản thân tôi phải là tấm gương để các em noi theo như qui định về đồng phục lời nói phải đi đôi với việc làm và phải đối xử thật công bằng với mọi học sinh), thậm chí tới tận nhà tìm hiểu nguyên nhân. Đưa các em vào hoạt động tập thể trong và ngoài trường với những nhiệm vụ cụ thể. Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ, tế nhị và có hiệu quả. Kiên trì quan tâm, tạo sự tin tưởng của học sinh tất yếu các em cởi mở, nói những tâm sự, trăn trở của mình cho GVCN biết; từ đó tôi sẽ nhận định được vì sao em đó có những hành động như vậy.để có biện pháp giáo dục hợp lý. Mỗi học sinh đều có đặc điểm về tâm sinh lý, về mức độ nhận thức, về vốn sống học sinh, cung cách cư xử với mọi người xung quanh. Vì thế khi giáo dục những học sinh chưa chuẩn mực không nên quá máy móc, rập khuôn một cách hình thức làm vậy sẽ không bền vững trong giáo dục đạo đức của học sinh. 2.2.7. Chú trọng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh: GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 15 - Sáng kiến kinh nghiệm - Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách nhiệm của bản thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi trường tự nhiên trong đó con người đang tồn tại. Từ những ngày học đầu tiên ở trường phổ thông, học sinh đã được bồi dưỡng cả hai mặt đức và tài. Sự phát triển của mỗi người nói chung và học sinh nói riêng được hình thành thông qua việc tiếp thu tri thức hằng ngày trong cuộc sống như kĩ năng chỉ đòi hỏi cho một giai đoạn nào đó mà nó cần thiết cho cả đời người đặc biệt là chuỗi ngày đi học. Khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” xuất hiện ở các trường cũng vì lẽ đó. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ từng người, từng sự việc và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp nào, đối với ai thì kĩ năng sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: Nhân ái, vị tha, bản lĩnh tự tin, khiêm tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng và tôn trọng người khác. Thực tiễn ngày nay cho thấy đôi khi kiến thức uyên bác, học vị cao lại không làm nên sự thành đạt của con người bằng chính kĩ năng sống của họ. Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước đang hội nhập với thế giới, cơ hội có được vị trí trong xã hội và khẳng định bản thân của người lao động đang rộng mở, nhưng số lượng người thất nghiệp vẫn không ngừng gia tăng. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do họ chưa được trang bị những kĩ năng sống cơ bản của một người lao động. Chính vì vậy, kĩ năng sống cần được mỗi người chúng ta rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong bốn trụ cột của giáo dục được Unesco nêu ra là “học để biết, học để làm việc, học để làm người (để tồn tại), học để cùng chung sống” đã có ba nội dung hàm chứa các yêu cầu kĩ năng sống. Điều này càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng và cần thiết của nhà trường trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đành rằng hình thành kĩ năng sống phải qua cả trường học và trường đời nhưng trường học vẫn giữ vị trí nền móng vì hầu hết mọi người đều được đi học, và nội dung học ở trường phổ thông gồm nhiều lĩnh vực tự nhiên, xã hội cùng nhiều bài học về lối sống tốt đẹp của những bậc tiền nhân mà học sinh cần học tập noi theo. - Có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm bằng các hình thức như: + Tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em được tham gia vào hoạt động thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân thật những suy nghĩ, tình cảm, hành vi trong công việc, chia sẻ những khó khăn và niềm vui cũng như hoàn thiện dần dần các kĩ năng thực hành một cách tự nhiên. Từ đây, tính ích kỷ cá nhân, ngại khó, vụng về, rụt rè sợ sệt sẽ nhường chỗ cho lòng bao dung, sự tự tin, dũng cảm, tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, tinh tế, hoà đồng và thân thiện. Nội dung hoạt động cũng khá đa dạng như: Hội trại, thể thao, văn nghệ, chăm sóc di tích cách mạng, văn hoá lịch sử; trò chơi tập thể, câu lạc bộ; … + Một hình thức nữa để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đó là thông qua hoạt động dạy học trên lớp. Trong mỗi tiết dạy, ngoài yêu cầu về kiến thức GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 16 - Sáng kiến kinh nghiệm thì yêu cầu về kĩ năng và thái độ luôn được đặt ra và đó cũng chính là yêu cầu về giáo dục kĩ năng sống. Do vậy, trong các giờ lên lớp tôi đều có sự liên hệ với thực tế cuộc sống của học sinh ở cả hai mặt tích cực và hạn chế. Tuỳ theo bài học mà hình thành những kĩ năng tích hợp cho học sinh như kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời, kĩ năng trình bày, kĩ năng phân tích tổng hợp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng xử lý tình huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc hợp tác (còn gọi là hợp tác nhóm hay hoạt động nhóm)… Trong đó, kĩ năng làm việc hợp tác cần được đặc biệt quan tâm vì đây là kĩ năng sống mang tính thời đại, nó thể hiện cách làm việc theo cơ chế phân công hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích của từng thành viên và cùng nhau phát triển. Qua sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên, học sinh được chia thành các nhóm. Mỗi em được phân công đảm trách một công việc của nhóm (nhóm trưởng, thư ký, theo dõi thời gian, động viên phát biểu, trình bày trước lớp). Tất cả thành viên trong nhóm được trình bày suy nghĩ của cá nhân nhưng cũng phải tôn trọng ý kiến người khác và chấp nhận sự thống nhất chung của nhóm. Mỗi nhóm sẽ cùng nhau thảo luận để giải quyết một nội dung khó của bài học mà chỉ với mỗi cá nhân có thể không tìm được lời giải đáp. + Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá nhận xét về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những việc làm tốt và chưa tốt; cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế, đề xuất các việc làm, hoạt động hằng tháng và cả năm học. + Chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó nên được thay đổi theo tháng hoặc học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều hành, quản lý công việc đồng thời ngăn ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể xảy ra ngay từ tuổi học đường. + Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh trường lớp, bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm năng lượng, phòng chống tai nạn thương tích. Bên cạnh đó, cần chú ý xây dựng cảnh quan trường lớp với những hình ảnh mang tính giáo dục và thẩm mỹ, những lời hay ý đẹp như “Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta”, “Mỗi lần giao tiếp là mỗi lần bạn thể hiện mình”, “Bạn có thể vấp ngã, điều quan trọng là bạn phải đứng lên”... + Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình đối với thầy cô giáo và nhà trường qua việc thực hiện “Hộp thư điều em muốn nói” và tổ chúc tư vấn cho học sinh. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phải thông qua việc làm cụ thể và sự chủ động cao của các em. - Cách rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phải từ dễ đến khó. Chẳng hạn khi học sinh mới vào lớp 10, trong mục cùng góp ý trong giờ sinh hoạt, tôi yêu cầu học sinh “Em hãy nói vài ý kiến của mình về những vi phạm của các bạn trong tuần vừa qua”. Ban đầu, các em còn nói năng lí nhí, mắt không dám GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 17 - Sáng kiến kinh nghiệm nhìn thẳng, gương mặt căng thẳng. Nhưng sau vài lần, các em không còn những cái nhìn ái ngại, trở nên dạn dĩ hơn, cảm thấy tự tin và câu nói chắc gọn, cộng thêm một môi trường giáo dục thân thiện hoà đồng, cho phép các em tiến đến gần và hoà nhập với nhau, sau đó là những điều khác như đóng góp ý kiến cho tập thể, ý tưởng độc đáo cho các hoạt động của lớp phong phú hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt kỹ năng làm việc nhóm, các em được trang bị lý thuyết cụ thể, rồi thực hành để hiểu. Với kỹ năng làm việc nhóm, các em được tập làm việc để biết cách hợp tác và chấp nhận lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Mục đích quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống, đây là điều rất cần thiết trong cuộc sống của các em sau này. 2.3. Hiệu quả của một số biện pháp trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp 10 ở Trường THPT Thừa Lưu: Sau khi thực hiện những biện pháp áp dụng thực tiễn lên 10B10 đã đem lại những kết quả như sau: 2.3.1. Kết quả của việc tìm hiểu học sinh: Việc tìm hiểu lí lịch, hồ sơ, học bạ học sinh đã giúp GVCN và học sinh hiểu về nhau hơn, GVCN dễ dàng hơn trong lập kế hoạch , trong lập ban cán sự lớp và lập sơ đồ lớp học, có thể tham mưu với giáo viên bộ môn, với đoàn thể về học lực hay ý thức tự giác của học sinh. Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng với các chức danh khác nhau cho ban cán sự lớp, có hiệu quả trong việc quản lý nề nếp, tạo khả năng nói trước đám đông, tự tin, giám nói, chịu trách nhiệm với việc được giao, và tự khẳng định mình trước tập thể. 2.3.2. Kết quả của phối hợp giữa nhà trường, đoàn thể, GVCN với cha mẹ học sinh: Việc phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh qua các kì họp, qua điện thoại, qua trao đổi trực tiếp, việc phối hợp với đoàn thể, giáo viên bộ môn, ban giám hiệu, có hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh yếu kém, học sinh chưa ngoan, loại bỏ được nguy cơ bỏ học giữa chừng . 2.3.3.Kết quả cảm hóa học sinh cá biệt: Trường hợp em Lợi học yếu, gia đình khó khăn em Duyên cũng khó khăn không muốn tiếp tục học các em này hầu như tưởng là nghỉ hẳn. Tôi đã cảm hoá được các em tiến bộ hơn và không bỏ học giữa chừng. Em Bão, Đức đầu năm học có vi phạm nội quy nhưng đã tiến bộ rất nhiều. GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 18 - Sáng kiến kinh nghiệm 2.3.4. Kết quả học lực, hạnh kiểm: Kết quả thi đua học kì I: Tháng 9 10 11 12 01 Vị thứ 15 9 3 2 3 Học kì 1 vừa qua lớp thi đua đứng vị thứ 6 toàn trường. Giải nhì bóng đá nam,giải nhì hoạt động ngoài giờ lên lớp tháng 12 và tháng 1, giải nhì trò chơi đua xe đạp chậm, đổ nước vào chai. Hạnh kiểm : Tốt 25, Khá 15, Trung bình 3( bị kỷ luật ngay đầu năm học) Học lực: Lớp 10B10 là lớp cuối cùng của khối 10, đầu vào rất thấp nên học lực còn yếu nhiều. 3. Kết luận: Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi nơi GVCN phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình GVCN cần biết đặt tình thương , trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, Biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Như vậy trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm rất đặc thù và đầy sáng tạo vì phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: - Độ tuổi, mức độ trưởng thành của học sinh. - Hoạt động của ban cán sự lớp. - Phong cách làm việc của các giáo viên bộ môn. - Điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình học sinh và các tổ chức xã hội có liên quan. - Nhìn chung biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì nhiều, tuỳ theo đặc điểm tình hình của mỗi lớp, giáo viên chủ nhiệm có thể tìm cho mình những biện pháp thích hợp, không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là con người. Tuy nhiên điều cơ bản nhất là giáo viên chủ nghiệm phải tạo được uy tín với học sinh và đồng nghiệp về năng lực chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong công việc. Chỉ có thể trở thành GVCN tốt khi thực sự là một tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ đối với học sinh lớp chủ nhiệm mà còn với gia đình, đồng nghiệp, với mọi người ở nơi cư GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 19 - Sáng kiến kinh nghiệm trú. Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu hiện của GVCN đối với mọi hiện tượng xã hội lúc có mặt học sinh hay không có mặt học sinh đều có ảnh hưởng đến nhân cách học sinh lớp chủ nhiệm. Chính vì vậy, để làm tốt công tác chủ nhiệm, GVCN trước hết phải đề ra kế hoạch tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt: + Bồi đắp lòng yêu nghề, tận tụy với công việc. + Nâng cao không ngừng trình độ học vấn, văn hoá chung, trình độ chuyên môn, rèn luyện đạo đức tác phong. + Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm lí luận sư phạm, mẫu mực trong giao tiếp xã hội, đồng nghiệp, thầy trò, thực sự là Tấm gương sáng cho học sinh noi theo. - Biện pháp cần, nhưng cái cần hơn cả vẫn là tấm lòng, là sự nhiệt tình, trách nhiệm và tình thương yêu học trò. Nếu chúng ta làm việc với cái tâm của người thầy, công tác chủ nhiệm chắc chắn sẽ thu được nhiều thành công. - Công tác chủ nhiệm nhiều vất vả khó khăn nhưng cũng nhiều niềm vui, ai yêu nghề cũng sẽ thành công trong công tác chủ nhiệm. Do vậy không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN , công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường. đòi hỏi GVCN hết sức sáng tạo có một tinh thần trách nhiệm cao mới gánh vác được nhiệm vụ này Trên đây là một số kinh nghiệm chủ quan của bản thân trong quá trình làm GVCN lớp 10. Bài viết còn rất nhiều thiếu sót mong các thầy cô đã từng làm GVCN đóng góp ý kiến để tôi đúc kết và được học hỏi thêm . 3.1.Tóm lược giải pháp: - Giải pháp 1: Tìm hiểu học sinh khi tiếp nhận lớp - Giải pháp 2: Ổn định tổ chức lớp học - Giải pháp 3: Lập kế hoạch chủ nhiệm - Giải pháp 4: Phối hợp thống nhất biện pháp giáo dục học sinh với các giáo viên bộ môn và cán bộ đoàn , với gia đình học sinh, với ban giám hiệu. - Giải pháp 5: Giáo dục học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm - Giải pháp 6: Biện pháp thực hiện nhằm giáo dục học sinh cá biệt, tránh tình trạng học sinh bỏ học. - Giải pháp 7: Chú trọng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh 3.2.Phạm vi áp dụng -Trường THPT Thừa Lưu. GV: Huỳnh Thị Kim Ân - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan